Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Quyết Thuyết Trình Của Steve Jobs
Dù khi giới thiệu điện thoại di động iPhone mới hay khi đọc một bài thuyết trình chính, Steve Jobs luôn kích thích người nghe với phong cách và nghệ thuật quảng cáo không ai bắt chước được; ông kể một câu chuyện, phác họa một hình ảnh, chia sẻ với người ta một cách nhìn. Ông trao cho họ một trải nghiệm làm thay đổi mọi việc, một trải nghiệm độc nhất, gây cảm hứng và làm cho người ta nhớ mãi.   Bây giờ bạn cũng có thể làm như vậy bằng cách học những kỹ xảo đặc biệt đã làm cho Jobs trở thành người truyền đạt quyến rũ nhất trên sân khấu thế giới. Sử dụng các thuyết trình huyền thoại của Jobs trong một sơ đồ thiết kế, huấn luyện viên chuyên về các kỹ năng truyền đạt Carmine Gallo đã vẽ ra một khuôn khổ dễ sử dụng về các bí quyết thuyết trình giúp bạn lên kế hoạch, báo cáo và tinh chỉnh để có được những bài thuyết trình hay nhất của đời mình. Bạn sẽ học cách: - Tạo ra một câu chuyện thương hiệu gây cảm hứng - Phác họa một viễn ảnh đặc biệt, đáng ghi nhớ và nhất quán - Làm cho những con số trở nên có ý nghĩa - Tạo ra những khoảnh khắc không bao giờ quên được - Tạo những hình chiếu hấp dẫn và đẹp mắt - Làm chủ trên sân khấu - Làm như vẻ không mệt nhọc gì cả - Diễn tập có hiệu quả - Vui nhộn *** Cảm nhận đầu tiên của mình là: tác giả cuốn sách hẳn là một fan cuồng của Steve Jobs. Ông đưa ra những phân tích, dẫn chứng và script rất chi tiết về những bài thuyết trình của Steve. Điều thú vị là ông áp dụng luôn cả những nguyên tắc thuyết trình này vào cuốn sách của mình, đơn cử như bố cục sách: áp dụng “the rule of 3”, chia bố cục làm 3 “hồi” như một vở kịch: Create the story (Tạo ra câu chuyện), Deliver the experience (Truyền tải kinh nghiệm), và Refine and rehearse (Trau chuốt và luyện tập). Tiếp đến là ngôn ngữ: đơn giản, dễ hiểu, không màu mè. Nội dung thì luôn xoáy sâu vào trọng tâm, nhấn mạnh nhiều lần mục đích của cuốn sách, trả lời câu hỏi quan trọng nhất mà tác giả đã đặt ra lúc đầu: “Tại sao tôi phải đọc nó?”. Tuy nhiên, với một cuốn sách về cách gây ấn tượng thông qua thuyết trình – 1 kênh truyền thông- mình cho rằng thiết kế bìa sách quá bình thường, không có gì thu hút người đọc, không có gì nổi bật ngoài cái tên Steve Jobs. Mình đọc cuốn này là do recommendation của thầy Landon. Về nội dung, đây là một tài liệu thống kê lại đầy đủ các thói quen thuyết trình của Steve Jobs– những điều trong sách bạn cũng có thể tự nhìn ra được sau khi xem 3-4 bài thuyết trình của ông, chỉ là bạn k chú ý là “mình cũng nhận ra” mà thôi. Do vậy đọc xong sách, mình có cảm giác: “Trời, cái này tui cũng nhận ra được nè, vậy mà đó giờ k chú ý ta ơi”. Những điều làm nên “bí mật thuyết trình thành công” của Steve Jobs (mình chỉ nêu những ý chính nhất thôi, chứ thực ra còn nhiều điểm chính + ví dụ minh họa nữa ^^) : +Như trên đã nói: Cần tìm ra câu trả lời cho câu hỏi quan trọng nhất “Tại sao khán giả phải nghe tôi thuyết trình”, nên áp dụng “luật 3 điểm” (trí óc con người chỉ tiếp thu hiệu quả nhất 3 ý chính), thiết kế bài thuyết trình sao như 1 câu chuyện đủ hấp dẫn để thu hút người nghe. +Chia sẻ sân khấu, luôn tạo những tình huống sáng tạo cho bài thuyết trình của mình. +Tập luyện, tập luyện và tập luyện để tạo cảm giác tự nhiên. +Không dựa dẫm vào công cụ thuyết trình (điều này cũng được nhắc đến trong cuốn Perfect Pitch của Jon Steel). Dù vậy, vẫn có một điểm làm mình băn khoăn. Cũng áp dụng 1 quy tắc của Steve Jobs, “tỏ ra thật sự hứng khởi và tràn đầy sự tự hào về sản phẩm của mình”, Carmine lặp đi lặp lại rất nhiều lần rằng Steve rất siêu việt, rất đẳng cấp, rất tuyệt vời. Mình thì lại không thích áp dụng quy tắc này quá triệt để như Steve, cảm giác như thế là quá tự kiêu về sản phẩm của mình và thật sự là rất nhiều người thấy khó chịu với điều này. Ví dụ như đoạn video clip sau đây, tổng hợp tất cả những từ ngữ “tự khen” của Steve Jobs khi giới thiệu Ipad:  Tóm lại, đây vẫn là một cuốn sách khá hay về nghệ thuật thuyết trình, đọc sẽ không phí thời gian, nhưng mình vẫn recommend Perfect Pitch hơn. *** Bí quyết thuyết trình của Steve Jobs cho ta: Một khung gồm ba phần để cuốn hút ngƣời tham dự Dù khi giới thiệu điện thoại di động iPhone mới hay khi đọc một bài thuyết trình chính, Steve Jobs luôn kích thích ngƣời nghe với phong cách và nghệ thuật quảng cáo không ai bắt chƣớc đƣợc; ông kể một câu chuyện, phác họa một hình ảnh , chia sẻ với ngƣời ta một cách nhìn. Ông trao cho họ một trải nghiệm làm thay đổi mọi việc, một trải nghiệm độc nhất, gây cảm hứng và làm cho ngƣời ta nhớ mãi. Bây giờ bạn cũng có thể làm nhƣ vậy bằng cách học những kỹ xảo đặc biệt đã làm cho Jobs trở thành ngƣời truyền đạt quyến rũ nhất trên sân khấu thế giới. Sử dụng các thuyết trình huyền thoại của Jobs trong một sơ đồ thiết kế, huấn luyện viên chuyên về các kỹ năng truyền đạt Carmine Gallo đã vẽ ra một khuôn khổ dễ sử dụng các bí quyết thuyết trình giúp bạn lên kết hoạch, báo cáo và tinh chỉnh để có đƣợc những bài thuyết trình hay nhất của đời mình. Bạn sẽ học cách:  Tạo ra một câu chuyện thương hiệu gây cảm hứng  Phác họa một viễn cảnh đặc biệt, đáng ghi nhớ và nhất quán  Làm cho những con số trở nên có ý nghĩa  Tạo ra những khoảng khắc không bao giờ quên được  Tạo những hình chiếu hấp dẫn và đẹp mắt  Làm chủ trên sân khấu  Làm như vẻ không mệt nhọc gì cả  Diễn tập có hiệu quả  Vui nhộn   MỤC LỤC Lời người dịch Lời cảm ơn Lời nói đầu: Làm thế nào để trở nên tuyệt vời khác thường trước bất kỳ đối tượng nào Hồi 1: TẠO RA CÂU CHUYỆN Cảnh 1:   Lập kế hoạch theo kỹ thuật tƣơng tự Cảnh 2:   Trả lời câu hỏi quan trọng nhất Cảnh 3:   Phát triển một ý niệm cứu nhân độ thế cho mục tiêu của mình Cảnh 4:   Tạo ra những tiêu đề kiểu Twitter Cảnh 5:   Phác họa một lộ trình Cảnh 6:   Giới thiệu ngƣời phản diện Cảnh 7:   Tiết Lộ Ngƣời Hùng Chinh Phục Giải lao lần 1: Hãy tuân thủ quy luật 10 phút Hồi 2: TRUYỀN ĐẠT KINH NGHIỆM Cảnh 8:   Mở đƣờng cho tâm thiền nội tại của họ Cảnh 9:   Tô điểm cho các con số của bạn Cảnh 10: Dùng những từ “Sống động một cách lạ kỳ” Cảnh 11: Chia sẻ sân khấu Cảnh 12: Dàn cảnh bài thuyết trình với nhiều đồ dùng biểu diễn Cảnh 13: Mở ra một phút giây “kinh ngạc” Giải lao lần 2: Schiller học từ những điều hay nhất Hồi 3: HOÀN CHỈNH VÀ DIỄN TẬP Cảnh 14: Làm chủ sự hiện diện trên sân khấu Cảnh 15: Làm nhƣ vẻ không mệt nhọc gì cả Cảnh 16: Trang phục phù hợp Cảnh 17: Quẳng kịch bản đi Cảnh 18: Vui nhộn Diễn tiếp: Còn một chuyện này nữa CHÚ THÍCH     LỜI NGƯỜI DỊCH nước Mỹ và trong ngành máy tính, Steve Jobs được xem là một thiên tài Ởcủa kinh doanh. Tên tuổi của ông được gắn liền với thương hiệu Apple và những sản phẩm đầy tính sáng tạo ra đời đã làm đảo lộn ngành công nghiệp máy tính. Nếu chàng sinh viên 21 tuổi Steve Jobs, và người bạn Steve Wozniak cùng nhau thành lập công ty Apple năm 1976 thì năm sau chiếc máy tính đầu tiênApple 2 ra đời và phải đợi đến năm 1984, chiếc máy tính Macintosh mới được tung ra thị trường. Không ai có thể quên được tính đột phá và tính cách mạng của chiếc Macintosh với con chuột để điều khiển trên một giao diện đồ họa trong khi người ta vẫn còn quen dùng những dòng mệnh lệnh trên màn hình. Các dòng sản phẩm đi trước thời đại cứ tiếp tục được Jobs cho ra đời tạo nên một cộng đồng người hâm mộ Apple và Jobs , hết sức trung thành với thương hiệu, mặc dù trong cuộc chạy đua giữa máy tính Mac và máy tính PC (chạy các phần mềm của Microsoft), Mac chỉ dậm chân ở mức 10%. Nhưng các sản phẩm khác của Apple và cũng là của Steve Jobs, chiếm được những thị phần cao như iPhone, iTunes, iPod và gần đây là máy tính bảng iPad, iPad 2. Như ta thấy trong cuốn sách, Jobs không thấy vấnđề thị phần thấp là quan trọng, mà chất lượng và uy tín của sản phẩm mới đáng để người ta chú ý, ông không ngần ngại so sánh các sản phẩm của mình với các loại xe hơi có uy tín nhưng không bán được nhiều như BMW hay Mercedes trong một bài phỏng vấn năm 2003 trên tờ Rolling Stone. Năm 2010, iPad nổi lên như máy tính bảng được nhiều người ưa chuộng nhất và tờ Financial Times đã bầu SteveJobs là Nhân vật của năm 2010. Nếu Jobs được mọi người hâm mộ vì cách điều khiển tài tình và sáng tạo một công ty lớn trên thế giới thì cách thuyết trình của ông trước công chúng lại càng được mọi người kính phục và hàng năm, người ta náo nức chờ đợi những lần ông lên sân khấu để giới thiệu những sản phẩm mới của Apple trong các sự kiện quan trọng như Macworld Expo hay Hội nghị thường kỳ của các nhà thiết kế phần mềm trên thế giới (Worldwide Developers Conference - WWDC). Có người phải đứng trong giá lạnh cả đêm để sáng hôm sau có chỗ ngồi trong hội trường. Nếu Apple là Jobs thì các bài thuyết trình của Jobs lại là vũ khí số một của Apple để bán hàng, như lời của nhà báo Mike Langberg viết trên Knight-Ridder khi thấy Jobs tung ra máy nghe nhạc di động iPod năm 2001. Cuốn “Bí quyết thuyết trình của Steve Jobs” mà chúng tôi hân hạnh giới thiệu ở đây được viết bởi nhà báo Carmine Gallo, một huấn luyện viên chuyên nghiệp cho những thuyết trình viên cao cấp ở Mỹ từ các hãng nổi tiếng cử đến như IBM, Nokia… Gallo không chịu công nhận cuốn sách ông viết ra là một tiểu sử trá hình của Steve Jobs, ông nhấn mạnh sách không được Steve Jobs ủy quyền cho ông viết. Tuy nhiên, cuộc đời của Jobs cũng đủ là đầu đề cho một cuốn sách ly kỳ. Có 8 | P a g e Mời các bạn đón đọc Bí Quyết Thuyết Trình Của Steve Jobs của tác giả Carmine Gallo.
Sức Mạnh Của Trí Tuệ Tâm Linh
Review sách Sức Mạnh Của Trí Tuệ Tâm Linh  T r a n đã review       5 tháng 3, 2020 Bạn có từng nghĩ thông minh cũng có nhiều dạng khác nhau không? Tôi thì trước giờ chưa từng biết trí thông minh cũng có thể phân loại ra được và theo như tác giả của quyển sách này thì trí tuệ tâm linh chính là dạng thông minh có tính chất quan trọng nhất đối với đời sống con người. Vì theo lý giải trong “Sức mạnh của trí tuệ tâm linh” thì trí thông minh dạng này có thể giúp chúng ta biến chuyển những điều khó khăn trong cuộc sống, rộng lớn hơn chính là khả năng thay đổi mô hình cấu trúc xã hội, sự hỗn loạn của thế giới và tiến trình sai lầm của lịch sử. Nói nghe có vẻ quá cao siêu, quá vĩ mô đúng không nào nhưng đề cập đến dạng chất của tâm linh thì rõ ràng đã có tính huyền thuật nhất định rồi nên nội dung của quyển sách cũng tiềm tàng những phạm trù bí ẩn nhưng vẫn có những khía cạnh bình thường như những giá trị cá nhân. Tâm linh được đề cập trong quyển sách này cũng hết sức là nhẹ nhàng và trở thành một lĩnh vực dễ nắm bắt, dễ đọc và dễ hiểu chứ không cao siêu như một phạm trù được thần thánh hóa bởi yếu tố tôn giáo và văn hóa. Thực ra thì theo như quyển sách lý giải, sức mạnh của trí tuệ tâm linh không có gì cao siêu cả mà chỉ là những giá trị nội tại trong chính chúng ta. Nếu mỗi người biết vận dụng tư duy và suy nghĩ riêng của bản thân để áp dụng thành những hành vi tốt đẹp trong cuộc sống thì chắc chắn nó sẽ trở thành nguồn lực hỗ trợ đắc lực cho bạn trong mọi bước đường tiến tới thành công. Ngoài ra, một cuộc đời hạnh phúc cũng được hình thành từ nguồn sức mạnh giản dị này bởi chỉ cần cười vui mỗi ngày, để tâm hồn ngây thơ một chút và thanh tịnh để thoát khỏi những u phiền, lạc lõng thì tin chắc rằng bạn đã nắm được yếu quyết của một cuộc đời tự tại và an nhàn. *** Dẫn nhập Phần mở đầu: Hành trình đến thiên đường Chương 1. Khám phá "Bức tranh toàn cảnh" Chương 2. Khám phá những giá trị của bản thân Chương 3. Tầm nhìn cuộc đời Chương 4. Lòng trắc ẩn - Hiểu mình và hiểu người Chương 5. Trao và nhận - Thiện nguyện và Hàm ơn Chương 6. Sức mạnh của tiếng cười Chương 7. Trở lại khu vườn tuổi thơ Chương 8. Sức mạnh của nghi lễ Chương 9. Bình an Chương 10.Tất cả những gì ta cần là tình yêu! Danh sách các Bản đồ tư duy *** Anthony "Tony" Peter Buzan  sinh năm 1942 tại Luân Đôn, là một tác gia, nhà tâm lý và là cha đẻ của phương pháp tư duy Mind map (Sơ đồ tư duy). Ông hiện là tác giả của hơn 90 đầu sách, được dịch ra trên 30 thứ tiếng, xuất bản trên 125 quốc gia, trong đó có VN. Bản đồ tư duy được hiểu là một cách mở ra sức mạnh tư duy, tạo ra những đột phá trong suy nghĩ. Buzan nghiên cứu chuyên sâu về bộ não, trí nhớ; tìm ra qui luật khi xây dựng bản đồ gồm nhiều nhánh, giúp bộ não ghi chép các sự kiện một cách hệ thống. Tony Buzzan còn là cố vấn cho một số tổ chức chính phủ và các công ty đa quốc gia hàng đầu thế giới như như Hewlett Packard, IBM, BP, Barcláy International, EDS..., giảng viên thường xuyên của các đại học Oxford, Cambridge... Là một nhân vật truyền thông toàn cầu, ông đã xuất hiện trên 100 giờ ở các chương trình truyền hình, trên 1000 giờ ở các chương trình truyền thanh trong nước và trên thế giới với hơn 3 tỉ khán giả. Và không chỉ nổi tiếng là một tác giả, diễn giả hàng đầu thế giới về não bộ và phương pháp học, cha đẻ của kĩ thuật Mindmap, ông còn được biết đến là biên tập viên của tạp chí Mensa, tư vấn viên, cố vấn cho chính phủ của Anh; huấn luyện viên của Olympic, vận động viên tài năng, và là một nhà thơ đã từng được nhận giải thưởng thi ca. *** Review sách Sức Mạnh Của Trí Tuệ Tâm Linh “Người vĩ đại là người nhận thấy sức mạnh tâm linh còn mạnh hơn bất kỳ thế lực vật chất nào khác”_RalphWaldo Emerson. Thấu hiểu, cảm nhận và biết sử dụng sức mạnh của tâm linh, sẽ giúp cuộc đời bạn trở nên thông tuệ hơn rất nhiều. Cùng đọc sách Sức Mạnh Của Trí Tuệ Tâm Linh của Tony Buzan, để khám phá ra những cách làm tươi mát tâm hồn mình mỗi ngày bạn nhé! Nội dung Sách Sức Mạnh Của Trí Tuệ Tâm Linh Sức Mạnh Của Trí Tuệ Tâm Linh gồm 10 chương khá ngắn gọn. Đó cũng chính là 10 phúc lành kết nối với nhau để giúp bạn hình thành Trí tuệ Tâm linh. Sức Mạnh Của Trí Tuệ Tâm Linh mở ra tầm nhìn bao quát, bức tranh toàn cảnh trước mắt bạn. Từ đó bạn có thể hiểu thêm về chính mình, về những người xung quanh. Từ đó bạn củng cố lòng trắc ẩn và khám phá ra những cách tưới mát tâm hồn mỗi ngày. Trích dẫn hay trong sách Mỗi khi thấy mình đang phải vật lộn để “dập tắt” hết rắc rối này đến cơn khủng hoẳng khác, hãy dừng lại một lúc. Khoảnh khắc nghỉ ngơi sẽ giúp bạn có được cái nhìn toàn cảnh và ngẫm lại ý nghĩa của cuộc sống. Rồi bạn tĩnh tâm hơn, “dịu mát” trở lại để có thể dập tắt các “đám cháy nhỏ” kia. Thông tin sách và tác giả Thông tin sách Tên sách: Sức Mạnh Của Trí Tuệ Tâm Linh – tên tiếng Anh: The Power of Spiritual Intelligence Tác giả: Tony Buzan Dịch giả: Khai Tâm Thể loại: Phát triển bản thân Nhà xuất bản: NXB Tổng Hợp TP.HCM Năm đầu tiên xuất bản: 2006 Về tác giả Tony Buzan là một tác giả, diễn giả, nhà tâm lý học người Anh. Ông là cha đẻ của phương pháp tư duy Mind Map (Sơ đồ tư duy) nổi tiếng. Ông là nhân vật truyền cảm hứng hàng đầu về phương pháp học tập và làm việc thông minh. Ông có hơn 100 giờ xuất hiện trên truyền hình, hơn 1000 giờ xuất hiện trên truyền thanh và có đến 3 tỉ khán giả. Những tác phẩm tiêu biểu nhất của Tony Buzan: Sơ đồ tư duy, Dạy đọc nhanh, Làm chủ trí nhớ của bạn,… Lời kết Tất cả chúng ta đều là tạo vật kỳ diệu của tạo hóa. Vì vậy, chúng ta học hỏi thế giới, trân trọng tự nhiên, nhận ra chính mình, khám phá thế giới xung quanh, thích ứng và thư giãn. Rắc rối bạn đang gặp chẳng có gì đáng sợ đâu, chỉ cần bạn bình tâm lại và sáng suốt hơn để vượt qua. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Trí Tuệ Tâm Linh của tác giả Tony Buzan & Khai Tâm (dịch).
Siêu Trí Nhớ
15 bài tập đơn giản giúp bạn rèn luyện trí nhớ hiệu quả “Trong cuốn sách này, tôi muốn chỉ cho bạn cách rèn luyện trí nhớ. Mục đích không chỉ để thành thạo những bài tập não bộ mà bạn chưa bao giờ nghĩ là mình có thể làm được, mà còn là đòn bẩy giúp tăng sự tự tin của bạn, cũng giống như tôi vậy. Khi bạn đã có ý niệm về tiềm năng bên trong trí nhớ của mình, thì bạn cũng sẽ sớm nhận ra tiềm năng đó còn có thể áp dụng cho những mặt khác của não bộ, từ khả năng tập trung và phản xạ nhanh nhạy (hay còn gọi là “trí thông minh mềm”) cho đến sự tự tin khi kể chuyện, khi diễn thuyết và thậm chí là cả khả năng ứng biến. Bằng cách dẫn dắt bạn đi trên hành trình khám phá của tôi, vẽ ra những cung đường đã đưa tôi đến vị trí ngày hôm nay, tôi hy vọng rằng, tôi có thể trao cho bạn phương tiện để bạn tìm thấy trí nhớ tuyệt đỉnh của mình.” -    Dominic O’Brien Cuốn sách cung cấp những kỹ thuật ghi nhớ có thể cải thiện hoàn toàn trí nhớ của bạn, đồng thời đưa ra những lời khuyên về sức khỏe tinh thần và thể chất để rèn luyện một trí nhớ hoàn hảo. Dominic O'Brien - 8 lần vô địch thế giới về trí nhớ - còn thiết lập 15 bài tập đơn giản đánh giá mức độ tiến bộ không ngừng của bạn xuyên suốt quá trình đọc cuốn sách. Tác giả: Dominic O’Brien nổi danh với những thành tựu ghi nhớ phi thường và những lần qua mặt các sòng bạc tại Las Vegas. Ngoài 8 lần giành được danh hiệu vô địch thế giới về trí nhớ, ông còn được vinh danh là Bộ óc Siêu việt, đồng thời là Kiện tướng Trí nhớ năm 1995. Vào năm 2005, ông đã được trao tặng giải Thành tựu Trọn đời để ghi nhận những công lao trong việc quảng bá nghệ thuật ghi nhớ đến khắp nơi trên thế giới. *** Review sách luyện tập Siêu Trí Nhớ | Domic O’Brien Sách Luyện tập Siêu Trí Nhớ của Dominic O’Brien là cuốn sách rèn luyện trí nhớ hữu ích mà Review Hay Hay muốn giới thiệu với các bạn. Xin chào các bạn, thời gian này thì chương trình Siêu Trí Tuệ Việt Nam mùa 2 đang phát sóng những rất gay cấn. Đó là sự đối đầu của các Siêu Trí Nhớ đã trải qua quá trình luyện tập miệt mài, để chọn ra những người xuất sắc nhất vào đội hình Siêu Trí Tuệ Việt Nam đi thi đấu Quốc Tế. Nhờ ảnh hưởng chương trình Siêu Trí Tuệ, hẳn là nhiều người trong chúng ta muốn tìm hiểu cách các bạn ấy ghi nhớ để vượt qua các thử thách, hay muốn học hỏi, luyện tập để có một trong nhớ tốt hơn. 1. GIỚI THIỆU CUỐN SÁCH SIÊU TRÍ NHỚ 1.1 Tác giả Dominic O’Brien Tác giả cuốn sách, ông Dominic O’Brien là người đã 8 lần vô địch thế giới về trí nhớ, với khả năng ghi nhớ phi thường của mình, ông đã bị các sòng bạc tại Las Vegas cấm cửa. Lúc nhỏ ông ấy bị mắc chứng khó đọc, không tập trung và việc học tập khá chậm chạp. Thầy cô thường nói ông sẽ không làm nên trò trống gì. Sau đó, ông biết đến và luyện tập trí nhớ và trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này. Ông là ví dụ điểm hình cho việc khẳng định trí nhớ có thể rèn luyện được chứ không phải bẩm sinh 1.2 Giới thiệu cuốn sách Siêu Trí Nhớ Cuốn sách cung cấp những kỹ thuật ghi nhớ có thể cải thiện hoàn toàn trí nhớ của bạn, đồng thời đưa ra những lời khuyên về sức khỏe tinh thần và thể chất để rèn luyện một trí nhớ hoàn hảo. Dominic O’Brien – 8 lần vô địch thế giới về trí nhớ – còn thiết lập 15 bài tập đơn giản đánh giá mức độ tiến bộ không ngừng của bạn xuyên suốt quá trình đọc cuốn sách. Cuốn sách sẽ chỉ cho bạn cách rèn luyện trí nhớ. Mục đích không chỉ để thành thạo những bài tập não bộ mà bạn chưa bao giờ nghĩ là mình có thể làm được, mà còn là đòn bẩy giúp tăng sự tự tin của các bạn. Khi bạn đã có ý niệm về tiềm năng bên trong trí nhớ của mình, thì bạn cũng sẽ sớm nhận ra tiềm năng đó còn có thể áp dụng cho những mặt khác của não bộ, từ khả năng tập trung và phản xạ nhanh nhạy (hay còn gọi là “trí thông minh mềm”) cho đến sự tự tin khi kể chuyện, khi diễn thuyết và thậm chí là cả khả năng ứng biến. 2. NỘI DUNG CUỐN SÁCH SIÊU TRÍ NHỚ 2.1 Tổng quan nội dung Nội dung cuốn sách Siêu Trí Nhớ rất thực tế, nó cung cấp các bài tập để chúng ta có thể rèn luyện trí nhớ. Những bài tập này gắn liền với hành trình của tác giả Dominic O’Brien từ khi bắt đầu luyện tập tới lúc vô địch thế giới về trí nhớ. Từ việc ông gặp những khó khăn nào trong việc luyện tập và cách chúng ta chăm sóc bộ não như ăn ngon, chơi bời quá mức (ăn nhậu, bar, chất kích thích…) hay thức khuya… cũng được đề cập ở trong sách. 2.2 Các phương pháp ghi nhớ Từng phần trong cuốn sách còn có những bài tập để chúng ta thực hành luôn các phương pháp mà ông truyền tải. Những phương pháp mà ông đề cập đi từ đơn giản đến phức tạp như: Phương pháp liên kết: là liên kết các sự vật/sự việc cần nhớ lại với nhau thành một câu chuyện mà ta ấn tượng, chúng ta chỉ cần nhớ câu chuyện đó là sẽ nhớ các sự vật, sự việc khác. Phương pháp hành trình: tạo ra một hành trình như trải nghiệm thực tế của chính mình cho các sự vật/sự việc cần nhớ, hành trình này theo thứ tự cần nhớ và logic với nhau. Phương pháp mã hóa nhị phân: Mã hóa thông tin cần nhớ thành số nhị phân. Ví dụ Trong sách còn có một số phương pháp khác nữa, phần này các bạn mua sách về khám phá nha. Tác giả có đề cập đến thử thách nhớ 52 lá bài, giống vớ thử thách mà anh….tham gia cuộc thi Siêu Trí Tuệ có tham gia, mình thấy phần thử thách này rất thú vị và áp dụng nhiều phương pháp ghi nhớ lại với nhau. 2.3 Đánh giá nội dung Với việc đề cập nhiều phương pháp thực tế và bài tập để thực hành, thì theo mình những người mới bắt đầu, chưa biết gì về ghi nhớ cũng có thể áp dụng và rèn luyện trí nhớ của mình. So sánh với cuốn sách Giải Mã Siêu Trí Nhớ của Mai Tường Vân thì mình thấy khá nhiều điểm tương đồng trong các phương pháp ghi nhớ. Tuy nhiên cuốn sách Siêu Trí Nhớ thì đi sâu vào việc giải thích và tường thuật cách tác giả luyện tập, còn sách của Mai Tường Vân có những điểm riêng biệt để người Việt có thể luyện tập như cung cấp bảng mã hóa bằng tiếng Việt. Các bạn nào có thắc mắc về nội dung thì hãy để lại bình luận bên dưới, mình sẽ check và phản hồi các bạn nhé. 3. ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT SÁCH SIÊU TRÍ NHỚ 3.1 Những ai nên đọc Có một trí nhớ tốt là rất hữu ích đối với tất cả chúng ta, vậy nên cuốn sách Siêu Trí Nhớ là một cuốn sách mà những người chưa biết cách ghi nhớ hay có vấn đề về việc ghi nhớ trong học tập và cuộc sống hằng ngày. Cuốn sách Siêu Trí Nhớ với cơ sở khoa học và nhiều bài tập để chúng ta có thể thực hành và luyện tập trí nhớ. 3.2 Giá và chất lượng Cuốn sách này cũng có thể được coi là “vỡ lòng” đối với những bạn có mong muốn rèn luyện trí nhớ và đi thí đấu. Chất lượng giấy của cuốn sách khá tốt, giá bìa là 99k. Mình có để đường link mua sách ở bên dưới, các bạn có thể click vào và mua nha. Mời các bạn đón đọc Siêu Trí Nhớ của tác giả Dominic O’Brien & Thảo Trâm (dịch).
Phương Pháp Học Tập Ở Đại Học
Giáo sư John Vũ - Nguyên Phong, là một nhà khoa học nổi tiếng ở Mỹ, đứng trong Top 10 người sáng tạo nhất thế giới (mà đứng đầu là Bill Gates và Steve Jobs). Ông chính là người dịch tác phẩm nổi tiếng Hành trình về Phương Đông, một trong những tác phẩm hay nhất về phương Đông từ trước đến nay. Giáo sư John Vũ cũng là một người rất quan tâm đến khoa học công nghệ, với trên 10.000 bài viết đã được đăng trên blog Science-Tecnology.  Giáo sư John Vũ là một người Mỹ gốc Việt có những đóng góp rất lớn về nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đối với thế hệ trẻ. Xin giới thiệu một Ebook về phương pháp học tập ở đại học được lấy từ trang science-technology.vn. *** Một cuốn sách hữu ích của Giáo sư John Vu (Nguyên Phong – Tác giả sách “Muôn kiếp nhân sinh” và nhiều cuốn sách “bom tấn” khác.) dành cho những bạn đang là sinh viên hoặc chuẩn bị bước vào cánh cửa Đại học. *** Nhiều thầy vẫn dùng phương pháp dạy tập trung vào lí thuyết và ghi nhớ thay vì phương pháp giảng dạy mới chú trọng vào áp dụng. Khó thay đổi phương pháp giảng dạy khi hàng nghìn thầy giáo được đào tạo theo truyền thống cũ và nhiều người không thoải mái khi phải thay đổi. Hệ thống giáo dục thay đổi chậm chạp và phải mất mười hay hai mươi năm nữa mới có thể thích nghi phương pháp dạy mới nhưng nếu như thế chúng ta có thể vụt mất cơ hội để tiến bước cùng thời đại số. Nhiều sinh viên thường chờ tới trước kỳ thi cuối kỳ rồi “nhồi nhét” mọi thứ một lúc. Đó là lí do tại sao họ có thể biết “vài thứ” đủ để qua được môn học nhưng không thể phát triển được kĩ năng rất cần là ứng dụng lý thuyết để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Sự thật là khi dùng lối tắt để học và không có kiến thức sâu sắc, SV không thể giải quyết được vấn đề họ gặp khi ra trường. Hiện nay nhiều sinh viên chỉ nghĩ về việc qua được kì thi, có được bằng cấp, nhưng KHÔNG nghĩ đủ xa vào tương lai nơi họ phải xây dựng nghề nghiệp. Không có phương hướng học tập rõ ràng, không có kế hoạch học tập, nên nhiều người tốt nghiệp không tìm được việc làm là phải. Mời các bạn đón đọc Phương Pháp Học Tập Ở Đại Học của tác giả John Vu.