Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa - K. G. Paustovsky

K.G. Paustovski (31/5/1892- 14/7/1968) là nhà văn Nga rất nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ẩn đằng sau vẻ băng giá bên ngoài, Konxtantin Paustovski sở hữu một tâm hồn Nga tuyệt đẹp với trái tim cháy rực lửa yêu thương. Ông biết rung cảm sâu sắc với cảnh đẹp thiên nhiên và sự hồn hậu của những con người không chỉ của nước Nga mà cả những nơi ông đã đi qua. Hai tập truyện ngắn Bông hồng vàng và Bình minh mưa của Paustovsky mang đến cho độc giả những cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng, một thế giới thanh bình yên ả trước thế chiến thứ II, thế giới của những con người nước Nga bình dị, đôn hậu và lóng lánh chất thơ. Những truyện ngắn như: Tuyết, Chiếc nhẫn bằng thép, Bức điện, Trái tim nhút nhát… được Paustovski diễn đạt bằng lối văn chương giản đơn, dịu dàng như con trẻ, tác giả đã thể hiện được những tình cảm dung dị nhất: tình cảm giữa cha mẹ với con, tình yêu đôi lứa, tình làng nghĩa xóm… của con người nước Nga những năm đầu thế kỷ trước. Bông hồng vàng và bình minh mưa khiến bạn đọc phải giật mình và tự hỏi: thật sự trên đời này vẫn còn những câu chuyện kỳ diệu như thế? Thông qua tác phẩm, Paustovski nhắc nhở chúng ta về những điều đẹp đẽ, những niềm hạnh phúc nhỏ nhắn mà chúng ta đã bỏ quên hay xem như xa xỉ trong cuộc sống vội vã của mình.   *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva - tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng... Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị..., tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. °°° Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev. Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát. Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư". Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác. Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn thành phố này từ đấy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva. Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye. Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau". Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin... Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư. Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời. Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau". Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng". Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm... Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết". Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ. Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống[2]. Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. °°° Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: "Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn". Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn - trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem - tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại "Chú Bé Chăn Bò", "Gió Biển", "Chuyến Xe Đêm", "Người Đầu Bếp Già"... Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người - nhân vật chính - mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái "hư" trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: "Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi". "Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu". "Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi". "Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó." Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự - một bầu trời sống - với muôn vàn vì sao lấp lánh. "Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó". Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài "Những Kẻ Lãng Mạn", "Những Vầng Mây Lấp Lánh", mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: "Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng"... "Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế"... "Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống "thô thiển" và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn... Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn ". Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng "hiện thực xã hội chủ nghĩa" muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp[3]. Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài "Thơ Của Văn Xuôi" đăng trong tạp chí "Ngọn Cờ" (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. "Bông Hồng Vàng" ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí "Tháng Mười"(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết ("Bông Hồng Vàng" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương "Ngôn Ngữ Kim Cương" và "Những Cuốn Từ Điển". Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu... của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong "Bông Hồng Vàng", sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch "Bông Hồng Vàng", tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Chú thích:[1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan [2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố mang tên Konstantin Pautovsky. [3] “Lời Nói Đầu” này được in trong lần xuất bản thứ nhất của bản dịch “Bông Hồng Vàng”. Lần xuất bản thứ hai nó bị bỏ đi, liên quan đến việc tên người dịch bị cấm. Trong lần xuất bản này có một số sửa chữa nhỏ. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tử Thần Sống Mãi
“Tiểu thuyết của Lưu Từ Hân cho thấy trình độ thâm hậu và sự chuẩn bị chu đáo. Ông dùng kiến thức khoa học vững chắc làm nền tảng cho trí tưởng tượng, dung hợp cuộc sống chốn nhân gian và cuộc sống trong tưởng tượng với nhau, tạo ra nét thú vị riêng biệt.” - MẠC NGÔN GIỚI THIỆU SÁCH: Đe dọa khu rừng đen tối giúp nhân loại duy trì thế cân bằng chiến lược với thế giới Tam Thể suốt sáu mươi năm. Song rốt cuộc, một đòn tấn công bất ngờ đã làm thay đổi cục diện. Loài người cận kề bờ vực diệt vong, buộc phải phát đi thông tin tọa độ của hệ sao Tam Thể. Nhưng rồi, họ đối mặt với một vấn đề sinh tồn mới: vị trí của Hệ Mặt trời sớm muộn gì cũng bị lộ trước những tay “thợ săn” vũ trụ. Mọi hy vọng đều gửi gắm vào việc giải mã ba câu chuyện cổ tích được truyền về từ một cá thể nhân loại giấu mình trong nội bộ hạm đội người ngoài hành tinh… Tử Thần sống mãi là kết thúc hoành tráng và hoàn hảo cho tam bộ khúc của Lưu Từ Hân, như một thiên sử thi về hành trình của mỗi nền văn minh, từ khi thức tỉnh, “chập chững bước ra ngoài, bay lên, bay càng lúc càng nhanh, bay càng lúc càng xa, cuối cùng thì hòa làm một với vận mệnh của vũ trụ.” TÁC GIẢ: Lưu Từ Hân, sinh năm 1963, người Dương Tuyền, Sơn Tây, là công trình sư cấp cao, một trong những tác giả đại biểu cho dòng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Tác phẩm tiêu biểu: Kỷ nguyên sao băng Sét hòn Tam thể *** "Tam thể 3: Tử Thần sống mãi" là một trong những tiểu thuyết sci-fi ăn khách nhất Trung Quốc nay đã trở lại với một kết thúc hoành tráng và hoàn hảo cho tam bộ khúc "Tam thể", như một thiên sử thi về hành trình của mỗi nền văn minh, từ khi thức tỉnh tới khi "hòa làm một với vận mệnh của vũ trụ". Đây cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Châu Á từng đoạt giải Hugo cho Tiểu thuyết hay nhất, từng được đề cử Giải Nebula cho Tiểu thuyết hay nhất, có thể nói "Tam thể" là bộ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đáng đọc với tất cả những độc giả khao khát được đọc một cuốn tiểu thuyết sci-fi có tầm vóc lớn lao. Tờ New York Times từng nhận xét tiểu thuyết Tam thể đã giúp phổ biến khoa học viễn tưởng của Trung Quốc ra ngoài biên giới và lan rộng khắp toàn cầu. Cuốn sách cũng được rất nhiều người nổi tiếng yêu thích, trong đó phải kể tới nhà sáng lập Facebook Mark Zuckerberg và cựu tổng thống Mỹ Barack Obama. “Tiểu thuyết của Lưu Từ Hân cho thấy trình độ thâm hậu và sự chuẩn bị chu đáo. Ông dùng kiến thức khoa học vững chắc làm nền tảng cho trí tưởng tượng, dung hợp cuộc sống chốn nhân gian và cuộc sống trong tưởng tượng với nhau, tạo ra nét thú vị riêng biệt.” - Mạc Ngôn Đe dọa khu rừng đen tối giúp nhân loại duy trì thế cân bằng chiến lược với thế giới Tam Thể suốt sáu mươi năm. Song rốt cuộc, một đòn tấn công bất ngờ đã làm thay đổi cục diện. Loài người cận kề bờ vực diệt vong, buộc phải phát đi thông tin tọa độ của hệ sao Tam Thể. Nhưng rồi, họ đối mặt với một vấn đề sinh tồn mới: vị trí của Hệ Mặt trời sớm muộn gì cũng bị lộ trước những tay “thợ săn” vũ trụ. Mọi hy vọng đều gửi gắm vào việc giải mã ba câu chuyện cổ tích được truyền về từ một cá thể nhân loại giấu mình trong nội bộ hạm đội người ngoài hành tinh… "Tử Thần sống mãi" là kết thúc hoành tráng và hoàn hảo cho tam bộ khúc của Lưu Từ Hân, như một thiên sử thi về hành trình của mỗi nền văn minh, từ khi thức tỉnh, “chập chững bước ra ngoài, bay lên, bay càng lúc càng nhanh, bay càng lúc càng xa, cuối cùng thì hòa làm một với vận mệnh của vũ trụ. *** Những chuyện xưa nằm ngoài dòng thời gian (trích) LỜI TỰA Những câu chữ này vốn dĩ nên gọi là lịch sử, song những điều mà người viết dựa vào chỉ có ký ức của chỉnh bản thân mình mà thôi, nên viết ra thiếu đi tính nghiêm cẩn của lịch sử. Kỳ thực, gọi là chuyện xưa cũng không chính xác, vì tất thảy không phải xảy ra trong quá khứ, không phải xảy ra trong hiện tại, mà cũng không phải xảy ra trong tương lai. Người viết không muốn đi vào chi tiết, chỉ muốn đưa ra một cái khung cho lịch sử hoặc chuyện xưa mà thôi. Vì những chi tiết được bảo tồn chắc chắn đã phong phú vô cùng rồi, hầu hết những thông tin này đều được lưu trữ trong các chai thông điệp, mong rằng có thể đến được vũ trụ mới và được giữ gìn lâu dài. Bởi vậy, người viết chỉ vạch ra phần khung chính, để một ngày nào đó có thể đem tất cả thông tin và các chi tiết trám vào đó - tất nhiên, đấy không phải việc của chúng ta. Mong rằng ngày đó sẽ đến. Điều khiến người viết lấy làm tiếc nuối là, ngày đó không ở trong quá khứ, không ở trong hiện tại, mà cũng không ở trong tương lai. Tôi dời Mặt trời về phía Tây, khi ánh nắng thay đổi góc chiếu, những giọt nước trên lá mạ non ngoài cánh đồng bỗng chốc sáng lên lấp lánh, tựa hồ vô số con mắt đột nhiên mở bừng ra. Tôi cho ánh nắng tối đi một chút, mang hoàng hôn đến sớm hơn, sau đó dõi mắt nhìn bóng lưng chính mình trên đường chân trời. Tôi huơ tay, cái bóng trước vầng tịch dương kia cũng huơ tay. Ngắm nhìn bóng hình ấy, tôi có cảm giác mình vẫn còn rất trẻ. Đây là một thời điểm tốt, rất thích hợp để hồi tưởng. *** Tháng Năm năm 1453: Cái chết của mụ phù thủy Hoàng đế Constantines XI tạm ngưng dòng suy tư, đẩy đống bản đồ hệ thống phòng ngự thành phố trước mặt ra xa, quấn chặt áo choàng tím, lặng lẽ chờ đợi. Ước tính thời gian của ông ta rất chuẩn xác, chấn động quả nhiên ùa đến đúng giờ, tưởng chừng như đến từ một nơi sâu thẳm trong lòng đất, nặng nề mà dữ dội. Đế chân nến bằng bạc rung lên phát ra tiếng ong ong, một ít bụi trên trần nhà rơi xuống, những hạt bụi này có lẽ đã lặng lẽ ở trên nóc Đại Cung cả nghìn năm. Chúng rơi xuống ngọn lửa nến, làm tóe lên một đám hoa lửa. Chấn động này là do một quả đạn pháo bằng đá hoa cương nặng một nghìn hai trăm pound bắn trúng tường thành gây ra, mỗi lần cách nhau ba tiếng đồng hồ, đây là thời gian mà đại pháo Orbán của Đế quốc Ottoman cần để nạp đạn. Đạn pháo khổng lồ bắn vào tường thành kiên cố nhất thế giới do Hoàng đế Theodosius II xây dựng hồi thế kỷ thứ 5 Công nguyên, sau đó lại không ngừng được mở rộng và gia cố, nó chính là chỗ dựa chủ yếu của triều đình Byzantium trước những kẻ thù hùng mạnh. Nhưng lúc này, mỗi viên đạn pháo khổng lồ đều bắn thủng một lỗ lớn trên tường thành, giống như một miếng cắn của gã khổng lồ vô hình. Hoàng đế có thể hình dung ra cảnh tượng ấy: đá vụn trên không trung vẫn còn lơ lửng, binh lính và thường dân trong thành tràn về lỗ hổng như một đàn kiến anh dũng giữa bụi cát mù trời. Họ dùng đủ thứ lấp kín lỗ hổng, có gạch ngói, gỗ khối dỡ ra từ các tòa nhà trong thành, có những bao tải nhét đầy đất cát, còn có cả những tấm thảm Ả Rập đắt tiền... Ông ta thậm chí có thể hình dung ra cảnh tượng đám mây bụi mù mịt ngấm đẫm ánh vàng trong cảnh tà dương chầm chậm bay vào, trông như tấm vải liệm màu vàng nhẹ nhàng phủ lên thành Constantinopolis. Trong năm tuần thành phố bị vây đánh, mỗi ngày tường thành chịu chấn động này bảy lượt, giãn cách rất đều đặn, như tiếng báo giờ của một cái đồng hồ khổng lồ sừng sững giữa đất trời... Đó là thời gian của một thế giới khác, là thời gian của những kẻ dị giáo; so với nó, tiếng chuông từ chiếc đồng hồ bằng đồng hình chim ưng hai đầu đánh dấu thời gian của thế giới Cơ Đốc nơi góc tường kia nghe thật yếu ớt, bất lực. Chấn động đã lắng xuống được một lúc, Hoàng đế Constantinos XI mới khó nhọc bắt suy nghĩ của mình trở về với hiện thực, ra hiệu cho gã thị vệ trước cửa cho người đang đợi bên ngoài vào. Viên đại thần Phrantzes dẫn một cô gái gầy gò lặng lẽ đi vào. “Thưa bệ hạ, đây chính là Helena.” Viên đại thần chỉ vào cô gái phía sau mình, sau đó ra hiệu cho cô gái đang nấp sau lưng bước lên phía trước mặt. Hoàng đế vừa liếc nhìn qua đã nhận ra thân phận của cô gái. Phong cách ăn mặc của tầng lớp quý tộc thượng lưu và bình dân Byzantium có sự khác biệt rất lớn, thông thường trang phục của phụ nữ quý tộc được gắn đầy các món trang sức hoa lệ, còn phụ nữ bình dân thì chỉ mặc áo dài rộng thùng thình màu trắng, cùng với áo khoác có tay trùm kín cả người, nhưng trang phục của Helena lại là sự kết hợp giữa xa hoa của giới thượng lưu lẫn bảo thủ của bình dân: bên trong cô ta mặc áo trắng liền tay, bên ngoài lại khoác một chiếc áo choàng có mũ đắt tiền, loại áo choàng này lẽ ra phải được khoác bên ngoài chiếc tunica thêu kim tuyến mới đúng. Đồng thời, cô ta không dám dùng màu tím và màu đỏ tượng trưng cho tầng lớp quý tộc, chiếc áo choàng có màu vàng. Gương mặt cô gái toát lên một vẻ đẹp đẽ dâm đãng, khiến người ta nghĩ đến một đóa hoa thà rằng xinh đẹp rồi thôi nát còn hơn ủ rũ héo khô - một ả kỹ nữ, lại còn là loại cao cấp. Hai mắt cô gái cụp xuống, toàn thân run rẩy, nhưng Hoàng đế Constantinos XI để ý thấy đôi mắt cô ta đang sáng lên như thể phát sốt, lộ ra vẻ hưng phấn và kỳ vọng hiếm khi thấy được ở lớp người đó. “Ngươi có phép thuật?” Hoàng đế hỏi Helena, ông ta chỉ muốn nhanh chóng kết thúc chuyện này. Phrantzes làm việc luôn chắc chắn và ổn thỏa, trong hơn tám nghìn quân sĩ giữ thành hiện nay, ngoài đội quân thường trực không lấy gì làm đông đảo và hai nghìn lính đánh thuê Genoa, phần lớn đều do vị đại thần giỏi giang này trưng tập khẩn cấp từng tốp từng tốp một từ hơn trăm nghìn dân cư trong thành. Hoàng đế không có nhiều hứng thú với cô gái này, chỉ nề mặt vị đại thần mà thôi. “Đúng vậy, thưa bệ hạ, tôi có thể giết chết Sultan.” Helena khom gối run rẩy trả lời, giọng nghe mỏng mảnh như một sợi tơ. Năm ngày trước, Helena đến trước cổng cung điện xin gặp Hoàng đế, bị đám vệ binh ngăn cản, cô ta đột nhiên lấy từ trong ngực ra một vật giơ lên, đám vệ binh sững sờ, bọn chúng không biết đó là thứ gì, từ đâu mà có, nhưng đều biết chắc đó không phải vật tầm thường. Helena không gặp được Hoàng đế, cô bị bắt lại giao cho viên quan phụ trách trị an, và bị tra khảo xem cô ta trộm vật đó ở đâu. Helena đã khai nhận, họ cũng đã chứng thực, sau đó cô ta được đưa đến chỗ đại thần Phrantzes. Phrantzes mở túi vải đay cầm trên tay ra, cẩn thận đặt vật bọc bên trong lên bàn đọc sách của Hoàng đế, ánh mắt Hoàng đế Constantinos XI chợt sững sờ giống hệt đám vệ binh khi trông thấy vật đó năm ngày trước - khác với bọn chúng, ông ta biết đây là thứ gì. Đây là một chiếc Chén Thánh bằng vàng ròng, bên trên khảm nạm đầy đá quý, sắc vàng óng ánh khiến tâm hồn người ta phải run rẩy. Chén Thánh này được đúc ra vào thời Justinian Đại Đế hồi chín trăm mười sáu năm trước, tổng cộng có một đôi, ngoài hình dạng và bố trí các viên đá quý trên đó thì hoàn toàn giống nhau. Một trong hai chiếc Chén Thánh được các đời hoàng đế gìn giữ đến ngày nay, chiếc còn lại được cất vào một gian mật thất nhỏ bị niêm phong tuyệt đối ở sâu dưới nền móng đại giáo đường Hagia Sophia cùng với các thánh vật khác, khi giáo đường này được xây xong vào năm 537 Công nguyên. Chiếc Chén Thánh đang ở trước mắt ông ta hiển nhiên là chiếc thứ hai, vì chiếc còn lại đã hằn lên dấu vết của thời gian, ảm đạm lu mờ - đương nhiên, phải so sánh với chiếc đó thì mới nhận ra được chiếc Chén Thánh này trông mới tinh khôi như thể vừa được đúc ngày hôm qua vậy. Vốn dĩ không ai tin lời Helena, mọi người đều cho rằng đây là đồ cô ta trộm được của một khách làng chơi giàu có, vì tuy có rất nhiều người biết chuyện bên dưới đại giáo đường có phòng bí mật, nhưng biết được vị trí chính xác của căn phòng ấy lại rất ít; vả lại, giữa những khối đá khổng lồ bên dưới nền móng giáo đường không có cánh cửa nào, thậm chí cả đường hầm dẫn đến căn phòng bí mật ấy cũng không có, không hao tốn nhân lực và thời gian thì hoàn toàn không thể nào vào đó được. Bốn ngày trước, xét đến cục thế nguy nan của thành phố, Hoàng đế ra lệnh đem hết mọi văn kiện và thánh vật quý hiếm đóng gói lại để khi khẩn cấp có thể nhanh chóng chuyển đi, mặc dầu trong lòng ông ta biết rõ đường bộ, đường biển đều đã bị cắt đứt, tường thành mà bị phá thì không còn nơi nào có thể đi được nữa. Ba mươi người phu mất trọn ba ngày mới vào được mật thất, họ thấy các khối đá quây lại thành căn phòng này cơ hồ lớn ngang với đá xây kim tự tháp Kheops. Các thánh vật đều được đặt trong một quan tài đá nặng nề bên trong mật thất, chằng ngang dọc mười hai đai sắt to tướng, phải mất hồi lâu mới mở ra được. Khi tất cả các đai sắt đều đã bị cưa đứt, năm người phu bị đám lính vũ trang xung quanh giám sát chặt chẽ, dốc hết sức lực đẩy nắp quan tài nặng nề ra, thứ đầu tiên thu hút ánh mắt của mọi người không phải các thánh vật và châu báu đã bị niêm phong nghìn năm kia, mà là một chùm nho vẫn còn tươi đặt trên cùng! Helena nói, chùm nho là do cô ta để vào năm ngày trước, hơn nữa đúng như cô ta nói, chùm nho đang ăn dở, chỉ còn lại bảy quả. Sau khi vệ binh kiểm tra hết thánh vật, đối chiếu với danh sách khắc trên một tấm bảng đồng gắn dưới nắp quan tài, họ xác định quả có thiếu một chiếc Chén Thánh. Nếu không phải đã tìm được Chén Thánh ở chỗ Helena đồng thời có lời khai của cô ta, dù tất cả những người có mặt tại hiện trường đều chứng nhận trước đó mật thất và quan tài đá hoàn toàn lành lặn, e rằng cũng có người khó mà thoát chết. “Sao ngươi lấy nó ra được?” Hoàng đế chỉ vào chén Thánh hỏi. Mời các bạn đón đọc Tử Thần Sống Mãi của tác giả Lưu Từ Hân & Lục Hương (dịch).
Phù Sinh Lục Ký
Nhà văn hàng đầu Trung Quốc – Phùng Ký Tài khi được hỏi: “Nếu phải ở trên một hòn đảo cách biệt được chăm lo đầy đủ, nhưng chỉ được mang theo một cuốn tản văn yêu thích, thì ông sẽ mang theo cuốn sách nào? Vì sao?”, Phùng Ký Tài đã không ngần ngại trả lời ngay rằng: “Cuốn sách ấy là Phù sinh lục ký, vì nó có thể đọc đi đọc lại, giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú và gợi cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau”. Sách giáo khoa của Trung Quốc còn trích một số đoạn trong Phù sinh lục ký để làm chuẩn mực về cổ văn cho học sinh trung học. Nhiều tác giả Trung Quốc xem Phù sinh lục ký như một điển phạm khi viết văn. Phù sinh lục ký là tác phẩm kinh điển của Trung Quốc được in đi in lại cả trăm lần ở Đại Lục, được dịch ra mấy chục thứ tiếng trên toàn thế giới, riêng tiếng Anh có đến vài bản dịch, nhưng đây là lần đầu tiên được dịch giả Châu Hải Đường dịch ra tiếng Việt. *** Người ta ngày nay có bao nỗi lo toan bủa vây, thế nên nhiều khi mình chẳng còn nhớ lần cuối cùng tri kỉ đàm đạo nhân tình thế thái là khi nào, cũng quên luôn cả lạc thú tiêu dao tự tại của tao nhân mặc khách đời xưa. Trong số các văn nhân Trung Hoa kinh điển, Thẩm Phục là một cái tên lạ lẫm đối với độc giả Việt Nam, nhưng những tác phẩm của ông được coi là mẫu mực cho cổ văn Trung Hoa cũng như được giảng dạy phổ biến trong các trường học. Phù sinh lục kí là tác phẩm giá trị nhất của Thẩm Phục, gồm những bài ký giàu chất thơ, trong những lời văn uyển chuyển đầy tình ý, ta nghe nhịp nhàng như có phách nhạc phụ họa. Ông đã ghi chép lại những chuyện đời thường một cách đầy say mê, hào sảng nhưng cũng không kém phần nho nhã. Trong từng trang sách, hình ảnh vợ cắm một bình cúc, chồng pha một ấm trà, thưởng ngoạn cảnh đẹp nhân gian với nhau rõ mồn một và rất sinh động. Duyên cầm sắt đâu chỉ là sống bên nhau, còn là sự hòa hợp đồng điệu về tâm hồn, phu thê ăn ý tấu lên khúc nhạc thú vui khuê phòng. Một trích đoạn trong Phù sinh lục kí để thấy rõ tình cảm vợ chồng: Tôi từng nói: “Tiếc rằng nàng là phận gái, chứ nếu có thể hoá nữ thành nam, rồi chúng ta cùng đi thăm danh sơn, tìm thắng tích, ngao du thiên hạ, chẳng cũng thích lắm ư?” Vân nói: “Việc ấy có gì khó, đợi đến khi thiếp bạc mái đầu rồi, tuy chẳng thể xa chơi Ngũ Nhạc, nhưng những chỗ gần đây như Hổ Phụ, Linh Nham, nam đến Tây Hồ, bắc đến Bình Sơn, thảy đều có thể cùng chàng tới chơi được.” Tôi nói: “E là khi nàng đầu bạc thì một bước đi cũng khó.” Vân nói: “Kiếp này chẳng thể, thì hẹn kiếp sau.” Tôi nói: “Kiếp sau nàng nên là con trai, còn ta là gái theo nàng.” Đọc Phù sinh lục kí, độc giả sẽ bắt gặp nhiều điển tích, điển cố cổ của văn học Trung Hoa. Nó vừa thể hiện vốn kiến thức uyên thâm của tác giả, vừa thể hiện được sự uyên bác cùng tình cảm trân quý với những giá trị tinh hoa từ ngàn đời của tác giả. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ tròn khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gầy nên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. – Ngân Nga Hoàng Nhân, “Phù sinh lục ký” – Một tác phẩm đặc sắc của văn học Trung Quốc vừa được Châu Hải Đường dịch xong, và sắp được xuất bản – song vẫn có nhiều bạn băn khoăn về nội dung và nhầm lẫn với cuốn “Phù sinh lục ký” (Có lẽ lấy lại từ cảm hứng của tác phẩm cổ điển nói trên) của một tác giả trẻ đương đại, vì vậy dịch giả xin có đôi lời thưa thêm về tác phẩm này để các bạn có thêm thông tin. Xin trân trọng cám ơn. “Phù sinh lục ký” là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh – Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất (Theo các nghiên cứu, có thuyết cho ông mất vào năm 1832) . Đáng tiếc rằng, do tác giả của nó không có danh vị cao trong xã hội, kinh tế lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay khi ông sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Cho đến năm Quang Tự thứ 3 (1877), tức là gần 50 năm sau khi ông qua đời, Độc Ngộ am chủ nhân – Dương Dẫn Truyền, người Ngô Huyện, Giang Tô, tìm thấy một cuốn sách viết tay nhan đề “Phù Sinh Lục Ký” ở một tiệm sách nhỏ trong thành Tô Châu, tuy sách đã nát, nhưng có thể đọc thấy tài tình rất mực của tác giả. Sau khi được nhà thơ, học giả nổi tiếng Vương Thao gửi thêm cho xem sáu bài thơ tuyệt cú, ghi là “Đề Phù Sinh Lục Ký” của Quản Thụ Thuyên (Di Ngạc) người Dương Hồ, Dương Dẫn Truyền đã đem cuốn sách in chung vào bộ “Độc Ngộ am tùng sao” của tòa soạn “Thân Báo”, và một bộ kỳ thư ấy đã lần đầu tiên được xuất hiện ở đời. Năm Quang Tự thứ 32 (1906), Hoàng Nhân tiên sinh khi dạy ở đại học Đông Ngô – Tô Châu đã cho đăng “Phù Sinh Lục Ký” trên tạp chí “Nhạn Lai Hồng”. Cuối đời Quang Tự, Vương Văn Nhu lại cho in trong “Thuyết khố”. Năm 1923, Du Bình Bá căn cứ vào văn bản trên “Độc Ngộ am tùng sao”, Tạp chí “Nhạn Lai Hồng”, hiệu điểm in lại tác phẩm, do Khai Minh Thư Cục phát hành. Năm 1935, Lâm Ngữ Đường tiên sinh đã dịch tác phẩm ra tiếng Anh, đăng nhiều kỳ trên nguyệt san “Thiên hạ” và “Tây phong”. Từ đó “Phù Sinh Lục Ký” bèn nổi danh khắp thiên hạ. Nội dung “Phù sinh lục ký” gồm có sáu “ký”, trong đó Thẩm Phục đã viết lại tự truyện của cuộc đời mình, nhưng không theo dòng thời gian biên niên như những cuốn tự truyện thường thấy, mà theo một cách khác: Theo mạch cảm xúc của cuộc sống. Sáu thiên ký ấy là: “Vui Khuê phòng”, “Thú nhàn tình”, “Sầu Trắc trở”, “Thú lãng du”, “Trải Trung Sơn”, và “Nhàn dưỡng sinh”. Trong đó, nổi bật lên là những ghi chép về tình cảm và cuộc sống của ông và người vợ – Trần Vân, với đầy đủ mọi sắc thái hỉ – nộ – ai – lạc, qua đó, có thể thấy tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gầy lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một trình độ nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, “Phù sinh lục ký” đã được xuất bản hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2 – “Thú nhàn tình” của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Đồng thời, tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai … và xuất bản ở nhiều nước. Ở Việt Nam, thực ra cái tên “Phù Sinh Lục Ký” đã xuất hiện trong tác phẩm “Sống Đẹp” của Lâm Ngữ Đường – do Nguyễn Hiến Lê dịch. Tuy nhiên, có thể nói đây là lần đầu tiên tác phẩm được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Có thể nói, “Phù sinh lục ký” là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Từ sau khi tác phẩm được phát hiện đến nay, đã giành được sự chú ý của vô số những nhà văn hóa nổi tiếng trong và ngoài Trung Quốc. Đã có rất nhiều những lời nhận xét khen ngợi tác phẩm của nhiều danh nhân văn hóa cổ kim, như Lỗ Tấn, Du Bình Bá, Lâm Ngữ Đường, Phùng Ký Tài … nhưng có lẽ, tốt hơn hết là chúng ta hãy tự mình đọc, thưởng thức, và cảm nhận bằng chính cảm xúc của mình, qua ấn bản Phù Sinh Lục Ký lần đầu tại Việt Nam này. – Châu Hải Đường *** Lời giới thiệu Cách đây ít năm, tôi tình cờ đọc một bài trả lời phỏng vấn trên báo của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc - Phùng Ký Tài về công việc sáng tác tản văn, trong đó có một đoạn hỏi đáp khiến tôi chú ý; khi phóng viên hỏi: “Nếu phải ở trên một hòn đảo cách biệt được chăm lo đầy đủ, nhưng chỉ được mang theo một cuốn tản văn yêu thích, thì ông sẽ mang theo cuốn sách nào? Vì sao?” Phùng Ký Tài đã không ngần ngại trả lời ngay rằng: “Cuốn sách ấy là Phù sinh lục ký, vì nó có thể đọc đi đọc lại, giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú và gợi cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau.” Câu trả lời ấy của Phùng Ký Tài khiến tôi rất tò mò về cuốn Phù sinh lục ký mà ông nhắc đến, đồng thời, cũng thấy một cảm giác rất quen thuộc, tựa hồ mình đã được nghe về cuốn sách đó ở đâu rồi. Sau khi lục soát lại trí nhớ của mình, tôi mới à lên một tiếng: Hóa ra tôi đã từng được nghe đến tên cuốn sách, và được đọc một vài phiến đoạn của nó qua cuốn Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, được Nguyễn Hiến Lê dịch. Trong tôi chợt dấy lên một mong muốn tìm hiểu trọn vẹn tác phẩm mà Lâm Ngữ Đường Phùng Ký Tài đều đánh giá cao, thậm chí dẫn dụng trong tác phẩm của mình này, cũng như về tác giả của nó. Phù sinh lục ký là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh - Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Tiếc rằng, do tác giả của cuốn sách không có danh vị cao trong xã hội, gia cảnh lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay thời ông còn sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Đến năm Quang Tự thứ ba (1877), khi Dương Dẫn Truyền lần đầu tiên ấn hành tác phẩm, thì “sáu ký đã mất hai”, khiến cho bản Phù sinh lục ký truyền thế giống như bức tượng thần Vệ Nữ bị mất cánh tay, chỉ còn lại bốn ký đầu mà thôi. Tuy nhiên, văn chương của Phù sinh lục ký đã lập tức khiến văn đàn sửng sốt và hâm mộ, đến nỗi không lâu sau đó, trên thị trường đã xuất hiện một bản được gọi là Túc bản Phù sinh lục ký (Phù sinh lục ký bản đầy đủ), bổ sung thêm quyền kỷ thứ 5: Trải Trung Sơn, và thứ 6: Nhàn dưỡng sinh. Song, qua khảo chứng của rất nhiều học giả, thì đều có một nhận định chung rằng: hai quyển ký bổ sung ấy đều là ngụy tác. Có thể nói, trong lịch sử văn học Trung Quốc, các tác phẩm, hoặc một phần tác phẩm nguy tác là không ít, song một tác phẩm xuất hiện muộn, ngay trong đời Thanh mà có những phần được ngụy tác, cũng là hiếm có và phải vô cùng đặc biệt. Lâm Ngữ Đường, trong lời tựa bản dịch tiếng Anh cuốn Phù sinh lục ký năm 1936, có nói: “Tôi đoán chừng rằng, trong các tầng thư gia đình ở Tô Châu, hay các tiệm sách cũ, nhất định sẽ có một bản toàn vẹn, nếu có may mắn ấy, thì có thể chúng ta sẽ phát hiện được.” Đến nay, tuy chưa ai phát hiện được một bản toàn vẹn như Lâm Ngữ Đường nói (không tính bản ngụy tác), nhưng cũng rất may mắn, vào năm 2005, nhà sưu tập Bành Lệnh, đã sưu tầm được một cuốn sách viết tay có nhan đề là Ký sự châu của Tiền Vịnh - học giả, nhà thư pháp nổi tiếng đời Thanh, người sống cùng thời với Thẩm Tam Bạch, trong đó đã tìm thấy có những đoạn ghi chép của Tiền Vịnh về Phù sinh lục ký, đặc biệt là thiên: Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược,((1) Lưu Cầu: tức quần đảo Ryukyu, thuộc tỉnh Okinawa, cực nam của Nhật Bản ngày nay.) đã được rất nhiều học giả nhận định là sao lục từ quyển thứ 5 - Trải Trung Sơn (hay còn gọi Hải quốc ký) của Thẩm Tam Bạch. Tuy những phần Tiền Vịnh sao lục chưa đầy đủ quyển kỷ thứ 5 - Trải Trung Sơn - đã thất truyền của Thẩm Tam Bạch, nhưng cũng cho chúng ta thấy phần nào trong nguyên tác của ông. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, Phù sinh lục ký đã được xuất hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2 – Thú nhàn tình của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Đồng thời, tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai... và ở nhiều nước khác. Tuy nhiên cho đến nay, tác phẩm vẫn chưa từng được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Trong lần xuất bản đầu tiên này, chúng tôi lựa chọn cách giới thiệu tác phẩm tới các bạn độc giả như là một “Túc bản” với phần chính đầy đủ sáu quyển ký, để độc giả có thể hình dung được diện mạo chung của tác phẩm, dẫu rằng hai quyển sau được cho là ngụy tác. Ngoài ra, chúng tôi có dịch bổ sung thiên Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược từ Ký sự châu của Tiền Vịnh, cùng một số lời tựa, lời đề bạt của sách trong phần Phụ lục để độc giả tiện tham khảo. Văn chương Phù sinh lục ký cô đọng, súc tích, giàu chất thơ, dịch giả tuy đã cố gắng, nhưng cũng chưa thể truyền đạt hết được cái hay cái đẹp của tác phẩm, rất mong các bậc cao minh bác nhà lượng tình cảm thông (chỉ giáo giúp thêm ý kiến để tác phẩm có thể hoàn thiện hơn nữa. Tháng đầu thu, Mậu Tuất, 2018 Dịch giả *** Về tác giả Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân.     Mời các bạn đón đọc Phù Sinh Lục Ký của tác giả Thẩm Phục.
Cơn Lốc Núi
Xuân Nguyên (1931-2006) là một cái tên quen thuộc đối với người dân Yên Bái. Ông là một trong số những hội viên đầu tiên tham gia sáng lập Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Yên Bái. Cuộc đời Xuân Nguyên gắn bó với sự hình thành, phát triển của báo chí và văn nghệ Cách mạng ở tỉnh miền núi, biên giới Lao Cai qua hai chặng đường chống Pháp và chống Mỹ gian khổ, ác liệt, sau đó là tỉnh Hoàng Liên Sơn – Yên Bái. Ông đã sớm có tác phẩm được đăng trên báo Văn nghệ - một tờ báo có uy tín lúc bấy giờ với hai truyện ngắn viết về đồng bào các dân tộc năm 1968 – 1969 là: Hai ông già chăn dê và Mùa hoa Đi-O-Khang. Hầu hết các tác phẩm của Xuân Nguyên đều viết về đồng bào các dân tộc ở miền núi Lào Cai – Yên Bái như tập truyện ngắn Hoa đào tháng chín (1975), Người mẹ suối Lũng Pô (1980), Đêm mưa giông (1983), tiểu thuyết Cơn mưa giông (1995), Hạnh phúc chẳng ngọt ngào (2007). Ông là người từng trải, giàu vốn sống, am hiểu phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, ông luôn có ý thức học hỏi ngôn ngữ các dân tộc, nhất là dân tộc Mông. Vì vậy, văn phong của ông gần gũi, giản dị, có sự kết hợp hài hòa giữa lối nói của người Kinh và lời ăn tiếng nói của các dân tộc vùng cao một cách nhuần nhuyễn. Điều này thể hiện ở trong các truyện ngắn như Giàng Tủa, Chiếc vòng bạc... Nhiều truyện của Xuân Nguyên thường là sự đan cài giữa quá khứ và hiện tại làm nổi lên hình ảnh cuộc sống tối tăm, cơ cực của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới chế độ cũ, quá trình vùng lên chiến đấu của đồng bào dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh gian khổ không kém phần quyết liệt để từ bỏ những hủ tục, tập quán lạc hậu do chế độ cũ để lại, trong các tác phẩm Rừng ma, Hoa đào tháng chín... Đặc biệt, tiểu thuyết Cơn lốc núi đề cập đến nội dung tiễu phỉ, một vấn đề nhạy cảm, hấp dẫn nhưng cũng không hề dễ viết. ***  Lại đến phiên chợ. Hồ Thầu rộn rịch tiếng vó ngựa từ lúc gà gáy. Còn tối đất, tiếng nhạc ngựa đã rung loong coong trên đường mòn.          Sau một đêm thao thức chờ trời sáng, lúc này Vàng Khúa Ly đã trở dậy. Cô ra máng nước ở đầu bếp vã nước rửa mặt. Nước lạnh làm tan hẳn cơn ngái ngủ. Cô rút chiếc khăn chàm còn mới treo trên cái móc bằng mắt tre vấn lên đầu. Sau đó Khua Ly lấy chiếc áo xáo-khỏa và cái quần mới đã gói từ đêm trước để sẵn ở đầu giường bỏ vào mã làn cùng với những thứ hàng mang đi chợ bán.          - Bắt con gà mái vàng béo nhất mang đi mà đổi muối. - Tiếng mẹ cô từ trong buồng nói vọng ra.          - Vâng. - Vàng Khúa Ly đáp.          - Nhớ mà về sớm. Dạo này lính Phăng Ky[1]hay ra chợ cướp gà và trêu con gái đấy ! Bọn con trai các bản cũng hay đi “cướp vợ”, nhớ rủ bạn đi cho đông... Đừng nhẹ dạ tin người buôn ở chợ.          Khúa Ly sửa soạn đi chợ trong tiếng dặn ân cần của mẹ.          Con ngựa buộc ở hiên nhà nghe tiếng hí của những con ngựa đi qua cửa cũng gõ móng cong cóc lên các tảng đá lát chuồng. Ngựa vẫn nhai ngô rau ráu, thỉnh thoảng lại thở phì phì trước cơn gió lạnh.          Vàng Khúa Ly vác cái thồ đã buộc mã làn kềnh càng đặt lên lưng ngựa. Có tiếng gọi :          - Khúa Ly, đi chợ thôi !          - Chị Seo Mỷ đấy à, em đi đây.          Khúa Ly chào mẹ rồi cởi sợi dây thừng bằng móc dắt ngựa ra sân. Cô nhẹ nhàng nhảy lên ngồi giữa hai cái mã làn, hai chân vắt về một bên, rồi giật cương cho ngựa chạy xuống đường.          Con ngựa đã chồn vó suốt đêm, giờ đây mặc sức nện vó trên nền đường đá. Chùm nhạc rung reng theo tiếng vó ngựa.          Trời còn tối mò nhưng Khúa Ly đã nhận ra Seo Mỷ đúng đợi ở giữa đường qua tiếng thở phì phì của con ngựa. Hai con ngựa hí dài chào nhau.          - Đi có sớm quá không ?          - Không sớm đâu. Đến chợ thì ông mặt trời cũng lên quá đỉnh Ngũ Chỉ Sơn rồi. - Seo Mỷ trả lời Khúa Ly.          - Em mới đi chợ lần đầu nên sợ lắm.          - Khúa Ly nói dối chị rồi, có lần chị đã gặp Khúa Ly ở chợ đấy.          - Lần ấy em đi theo bố mẹ. Lần này bố mẹ bảo con gái lớn rồi phải đi chợ một mình cho biết mua bán, cho con trai các bản xem mặt. - Khúa Ly bỗng thấy mặt nóng bừng, may mà trời còn tối nên Seo Mỷ không thấy.         Tiếng vó ngựa nện trên đường núi đá giòn tan xen vào trong câu chuyện của hai cô. Họ say sưa ngắm cảnh bình minh đang đến.         Thoạt đầu bầu trời đằng đông chuyển từ màu đen sang màu xanh nhạt. Rồi trên cái nền xanh cẩm thạch ấy lấp lánh những vẩy mây màu sáng bạc. Phút chốc các vẩy mây màu sáng bạc được ánh bình minh dát vàng rực rỡ. Sau cùng là màu hồng phơn phớt rồi đỏ hồng như mặt người say rượu. Gió núi lành lạnh đưa những tảng mây trắng xốp trôi bồng bềnh trên các đỉnh núi nhọn hoắt.         Con đường xuyên qua những đám nương, ruộng bậc thang trồng toàn anh túc. Anh túc đang độ trổ hoa trông như một tấm vải trắng mênh mông trùm khắp các sườn núi. Những bông hoa anh túc ở ven bờ quệt vào cái mã làn đung đưa, nghiêng ngả.         - Năm nay anh túc lại được mùa. Từ nay đến hết tháng không gặp mưa đá thì nhựa anh túc mùa này để đâu cho hết. - Seo Mỷ nói với Khúa Ly.         Khúa Ly bổng buông tiếng thở dài :         - Cứ nghĩ đến nhựa anh túc em lại lo đến héo cả ruột.         - Sao thế ?         - Lý trưởng Giàng Páo bắt bố em năm nay nộp hai mươi nén nhựa anh túc đủ mười tuổi[2].         - Sao nhiều thế ?         - Nó bảo “Phăng Ky” năm nay lấy nhiều để đưa sang Tầu. Chẳng biết ông trời có cho thu không ?         - Ông trời có cho thu thì đám ruộng ấy cũng không đủ hai mươi nén nhựa kể cả tốt lẫn xấu, chứ đừng nói đến hai mươi nén nhựa toàn loại mười tuổi. Nó cũng là người Mông sao nó không thương người Mông ta nhỉ ?         - Bố em nói, con hổ ở đâu cũng muốn ăn thịt lợn, quan ở đâu cũng muốn ăn của dân. Nó còn muốn cướp cả ruộng trồng anh túc của nhà em đấy.         - Ruộng nương nhà Giàng Páo thiếu gì. Năm nào cũng bắt dân đi làm ruộng nương không công cho nhà nó còn chưa đủ hay sao ?         - Nó bảo ruộng nhà em ở giữa ruộng nhà nó. Bao nhiêu phân bón của nó trôi cả vào ruộng nhà em. Vì thế nó đang bắt bố em đổi đám ruộng ấy lấy đám ruộng ven rừng đá của nó.         - Bố Khúa Ly trả lời ra sao ?         - Bố em không chịu. Giàng Páo cho Giàng Seo Tính đến nói xa nói gần rằng : Là tôi muốn lợi cho ông nên nói mãi quan mới bằng lòng. Ông còn tiếc gì cái cảnh “chung ngựa với nhà quan”, phần thiệt bao giờ chẳng đến mình.            - Giàng Seo Tính là người “nhà trong” của Giàng Páo, nó là em họ của Giàng Páo. Nó vừa là con chó săn vừa là cái đầu của Giàng Páo đấy !            - Bố em cũng biết vậy, nhưng đổi lấy đám ruộng ven rừng đá thì sống làm sao được. Ruộng ấy không trồng được anh túc.            - Cả hai con đường đều cụt cả - Seo Mỷ cất tiếng thở dài thông cảm với Khúa Ly.            Hai người đã đến khu rừng già. Những thân cây cao lớn vươn những cành sần sùi đủ các loài tầm gửi và phong lan buông rủ. Hương phong lan phảng phất ngầy ngậy. Các loài chim rừng ríu rít chào ánh sáng ban mai. Píu ! Píu ! Píu !... tiếng hót của bày họa mi bỗng vút lên lảnh lót, vượt lên hàng trăm thứ âm thanh của thế giới động vật có cánh. Một bầy chim “hoàng tử” dáng thanh mảnh, mang bộ lông đủ năm màu lướt nhẹ nhàng như những con thoi chuyền từ cây này sang cây khác.            - Khúa Ly xem kìa, các “hoàng tử” cũng bắt đầu đi dự hội rồi đấy. - Seo Mỷ chỉ vào bầy chim “hoàng tử” nói đùa với Khúa Ly - Không biết con chim nào sẽ được chọn là “công chúa” nhỉ ?            - Em chịu.            - Nếu chị là những con chim “hoàng tử” thì chị sẽ chọn Khúa Ly làm chim “công chúa” đấy. - Seo Mỷ nói rồi cất tiếng cười giòn.          - Chị Seo Mỷ lại trêu em rồi ! - Khúa Ly thấy mặt nóng ran.          Vượt qua rừng già họ đi vào khu rùng sa mu xanh thắm. Những cây sa mu già trên trăm tuổi thẳng vút, trầm tĩnh tấu bản nhạc đều đều vô tận. Lẫn trong tiếng vi vút của ngàn sa mu là tiếng khèn của những chàng trai Mông đi chợ.        ... Vườn có hoa, ong mới về đậu,[3]            Vì có em, anh mới đến đây.            Nơi có hoa, ong mới về kêu            Thấy bóng em, anh mới về hát            ……             Núi cao sinh cây gì ?             Núi cao sinh cây sa mu.             Đồi thấp sinh cây trúc             Anh với em như sa mu với trúc             Em đi khởi lòng anh nhớ khôn nguôi...          Tiếng khèn lúc trầm trầm thủ thỉ, lúc vút lên như tiếng họa mi trong rặng sa mu. Tiếng khèn cứ như quấn quít lấy vó ngựa của Khúa Ly và Seo Mỷ :          ... Cô em hỡi,             Hoa gì nở thắm tươi ?             Hoa đào mùa xuân nỏ thắm tươi             Em có lòng yêu anh,             Xin hẹn chợ này ta gặp nhau một buổi.             Hoa gì nở chi chít ?             Hoa đào mùa xuân nở chi chít             Em có lòng mến anh,             Xin hẹn chợ này ta gặp nhau một ngày...         Không bảo nhau nhưng cả Khúa Ly và Seo Mỷ cùng sửa lại hai vạt áo xáo-khoả che kín bộ ngực. Khúa Ly cất tiếng hỏi Seo Mỷ :         - Anh Sùng Sử có đi chợ không ?         - Có, nhưng đi sau. Còn bắt con lợn mang đi chợ.         - Tưởng mùa này anh chị cưới nhau.         Seo Mỷ buông tiếng thở dài :         - Ông chú không chịu.         - Ông Hảng A Dềnh ấy à ? Sao ông ấy lại không chịu ?         - Ông ấy bảo con ngựa đắt tiền mới là con ngựa quý. Vì thế ông khăng khăng đòi lấy đủ một trăm đồng bạc trắng. Lợn, rượu thì Sùng Sử còn lo được, chứ bạc trắng thì lấy đâu ra. Mấy lần chị nói xin giảm cho Sùng Sử đều bị ông mắng lấn đi : “Mày đừng như con ngựa động đực, vừa thấy hơi ngựa đực đã cong đuôi chạy theo. Thằng Sùng Sử không đủ bạc trắng thì khối đứa có đủ. Chừng nào tao còn sống thì tao còn làm đúng lời bố mày dặn trước khi nhắm mắt”. Có lúc thương Sùng Sử quá chị đã bảo Sùng Sử rủ bạn “cướp”[4] chị chạy đi thật xa, nhưng Sùng Sử không chịu : “Làm thế còn mặt mũi nào nhìn dân bản, thà chịu phận nghèo, cô đơn còn hơn là mang tiếng xấu”.           - Ôi, cuộc đời sao lắm nỗi éo le ? - Khúa Ly chép miệng thở dài.           Câu chuyện của họ đến đây ngắt quãng. Trước mắt hai cô cái đồn “Phăng Ky” đã hiện ra rõ mồn một với những bức tường đá xám xịt bao quanh. Ngay dưới chân đồn, trên con đường dẫn vào chợ một đám vợ lính đứng đón đường mua hàng của những người đi chợ.           - Tả cố mải lá dảng ?[5]           - Mày bán cho tao đi.           - Kỷ tố sền ?[6]           - Tao có tiền trắng, mày bán đi, hay muốn đổi muối, diêm, thuốc lào ? Thứ nào tao cũng có tất, cứ mang vào đây. Mời các bạn đón đọc Cơn Lốc Núi của tác giả Xuân Nguyên.
Thư Ký Kim Sao Thế?
Sở hữu ngoại hình xuất chúng và bộ óc siêu việt, người đàn ông đứng trên đỉnh cao nhất của thế gian song mắc bệnh “tự luyến” nặng – Lee Young Joon, phó chủ tịch tập đoàn Yoo Il. Chín năm làm thư ký kiêm lái xe riêng và bạn dự tiệc, tài sắc vẹn toàn, luôn tươi cười rạng rỡ – Kim Mi So, thư ký của phó chủ tịch Lee Young Joon. Cặp đôi hoàn hảo với khả năng tương tác kết hợp còn hơn cả vợ chồng bỗng một ngày vấp phải vấn đề nghiêm trọng: Thư ký Kim xin thôi việc! “Thiên hạ đệ nhất” Lee Young Joon sẽ phản ứng như thế nào? Mối quan hệ của họ từ lúc này sẽ thay đổi ra sao? Mời các bạn đón đọc Thư Ký Kim Sao Thế? của tác giả Jeong Gyeong Jun.