Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chìa Khóa Để Trở Thành Người Đa Ngôn Ngữ

Sống tại “trái tim châu Âu” từ thuở bé nên tôi coi việc học ngoại ngữ là một điều tự nhiên và là một phần tất yếu của cuộc sống. Năm lên chín tuổi tôi đến Cộng hòa Séc sinh sống cùng mẹ và em trai, và đã có một khoảng thời gian chật vật để có thể sử dụng thứ ngôn ngữ phức tạp thuộc hệ ngữ tộc Slav và hòa nhập vào nền văn hóa bản địa mới lạ. Tôi vừa phải đấu tranh với từ vựng và ngữ pháp khó nhớ của tiếng Séc vừa phải học ngoại ngữ bắt buộc ở trường là tiếng Anh. Khi lên lớp bảy, tôi lại bắt đầu học ngoại ngữ bắt buộc thứ hai là tiếng Pháp. Lên đại học, tôi chọn học tiếng Tây Ban Nha chỉ vì tôi cảm thấy nó thật lãng mạn và đầy cảm xúc mà không hề biết rằng nó sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi. Giờ đây, bốn ngoại ngữ hoàn toàn khác nhau đó không làm cho tôi bối rối. Phải chăng là vì tôi có “năng khiếu ngoại ngữ bẩm sinh”? Rất có thể, nhưng tôi cam đoan với bạn rằng không có năng khiếu bẩm sinh nào có thể giúp bạn nâng cao khả năng ngoại ngữ nếu bạn không chăm chỉ học hành một cách bền bỉ, kiên trì. Như cựu Tổng thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đã nói: “Không có gì trên thế giới này có thể thay thế được lòng kiên trì. Tài năng không thể, rất nhiều người có tài năng nhưng lại không thành công. Thiên tài không thể, vì thiên tài mà không được công nhận thì cũng chỉ là truyền thuyết. Giáo dục cũng không, khi mà cả thế giới này có quá nhiều người có học bị bỏ quên. Chỉ có lòng kiên trì và sự quyết tâm là có quyền lực tuyệt đối.” Đúng vậy, mỗi ngôn ngữ tôi học được đều nhờ vào những năm tháng miệt mài đèn sách và luyện tập. Bí quyết và cũng là lời khuyên đáng giá nhất mà tôi muốn gửi tới bạn qua cuốn sách này là: Luôn kết nối việc học tập với thực hành. Ở châu Âu, việc học các ngôn ngữ khác nhau đã trở thành một phần không thể tách rời trong cuộc sống của mỗi người. Vì những quốc gia châu Âu khá bé nhỏ và dễ dàng di chuyển từ nước này qua nước khác nên mọi người nhận thức được rằng họ cần học và sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau để có thể tận dụng được hết các cơ hội đi xuyên biên giới. Ở các nước như Hà Lan, Bỉ hoặc Đức, bạn khó có thể tìm ra người không biết sử dụng một ngoại ngữ nào. Nhưng ngay cả khi bạn không sống ở châu Âu, việc sử dụng ngoại ngữ thành thạo là điều tất yếu trong thời đại toàn cầu hóa. Dưới đây, tôi sẽ liệt kê cho bạn một vài lợi ích từ việc học ngoại ngữ: SỬ DỤNG THÀNH THẠO NGOẠI NGỮ... Giúp bạn mở rộng và nâng cao cơ hội trong học tập, nghề nghiệp, cuộc sống cá nhân... Là một trong những kỹ năng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động ngày nay. Ngoại ngữ sẽ giúp bạn nâng cao lợi thế cạnh tranh khi xin việc làm. Không chỉ là một cách giao tiếp đơn giản giữa các nhóm người khác nhau mà còn là phương tiện để nâng cao tầm hiểu biết về lịch sử, văn hóa, tư duy và phong tục tập quán của các quốc gia khác. Giúp bạn thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật, văn học từ ngôn ngữ gốc. Giảm bớt sự phân biệt chủng tộc và các định kiến. Làm cho người bản xứ ngạc nhiên và thích thú khi thấy bạn sử dụng ngôn ngữ của họ đồng thời giúp cho những mối quan hệ quốc tế được mở rộng, gắn bó hơn. Tránh được các vấn đề bất đồng ngôn ngữ như các nhân vật trong phim Lạc lối ở Tokyo1 hay Đám cưới tại Hy Lạp2. Cười nhiều hơn vì hiểu được nhiều câu chuyện phiếm. Có thêm sở thích và đam mê vì bạn được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Giúp bạn hiểu hơn về tiếng mẹ đẻ, về quê hương và đất nước mình. Mở rộng các mối quan hệ xã hội và có thêm nhiều bạn bè mới đầy thú vị. Là tiền đề để bạn học những ngôn ngữ khác dễ dàng hơn. Giúp bạn có trí nhớ sắc bén và ít bị đãng trí hơn những người chỉ sử dụng được một ngôn ngữ. Có tư duy tốt hơn, não bộ trở nên linh hoạt và nhạy bén hơn. Tạo điều kiện thuận lợi khi bạn muốn bước ra thế giới. Là một trong những yếu tố quan trọng giúp bạn trở thành “công dân toàn cầu”... 1 Tên tiếng Anh: Lost in Translation, là một bộ phim hài – chính kịch của Mỹ do Sofia Coppola viết kịch bản và đạo diễn, được sản xuất vào năm 2003. Bộ phim xoay quanh câu chuyện giữa một diễn viên hết thời và một cô gái vừa tốt nghiệp đại học vô tình nảy sinh tình cảm sau khi gặp nhau tại một khách sạn ở Tokyo. Tên tiếng Anh: My Big Fat Greek Wedding, là một bộ phim hài – chính kịch của Mỹ do Joel Zwick làm đạo diễn, được sản xuất vào năm 2002. Bộ phim kể về mối quan hệ giữa một phụ nữ Mỹ gốc Hy Lạp với người đàn ông không phải người Hy Lạp và những bất đồng văn hóa, phong tục giữa họ khi làm đám cưới. Với những ích lợi kể trên, bạn còn chần chừ gì nữa mà chưa đầu tư thời gian cho việc học ngoại ngữ? Có thể vì bạn chưa biết cách lập kế hoạch học hiệu quả? Vì bạn chưa tìm được tài liệu thích hợp (trong vô vàn các tài liệu trên mạng và tại các cửa hàng sách)? Hay bạn cảm thấy tự ti? Bạn không thể nhớ các từ vựng khó học và những quy tắc ngữ pháp đáng ghét? Bốn kỹ năng nghe – nói – đọc – viết làm cho bạn đau đầu? Bạn cảm thấy không thể vượt qua kỳ thi ngoại ngữ? Bạn không biết cách đưa ngoại ngữ vào cuộc sống hằng ngày? Bạn lo sợ khi giao tiếp với người bản xứ? Hoặc bạn cảm thấy rằng trở thành người đa ngôn ngữ là một điều không thể vươn tới? Nếu bạn dám trả lời “Có” cho ít nhất một trong những câu hỏi trên, cuốn sách này sẽ mang tới những lời khuyên bổ ích cho bạn. Tôi đã sử dụng được năm ngôn ngữ khác nhau, hiện đang học ngôn ngữ thứ sáu là tiếng Trung và tôi tin rằng bạn cũng có thể làm được điều này. Trong phạm vi cuốn sách này, tôi sẽ giới thiệu những bí quyết tự học ngoại ngữ mà bạn cũng có thể áp dụng cho mình. Cuốn sách còn dành cho những người đam mê ngoại ngữ, muốn học ngoại ngữ nhưng chưa biết bắt đầu bằng cách nào, đặc biệt dành cho những người không thể hoặc không muốn tốn nhiều tiền bạc để theo học các lớp học ngoại ngữ. Thay vì tham gia một khóa học ngoại ngữ đắt tiền, bạn có thể đọc cuốn sách này để tham khảo những bí quyết tự học ngoại ngữ một cách hiệu quả. Xin lưu ý rằng cuốn sách không hướng dẫn cụ thể cách học một ngôn ngữ nhất định mà đưa ra các bí quyết học ngoại ngữ tổng quát. Những ví dụ và tài liệu được đề cập đến trong cuốn sách tập trung vào những ngôn ngữ phổ biến nhất hoặc những ngôn ngữ mà tôi sử dụng. Tôi tin rằng bạn có thể áp dụng những lời khuyên và bí quyết mà tôi đưa ra cho bất cứ ngôn ngữ nào. Trong những bí quyết của tôi, bạn sẽ thấy tôi nhắc tới rất nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Mỗi người trong chúng ta có nhu cầu và cách học khác biệt, vậy nên thay vì nghiên cứu tất cả các tài liệu đề xuất, hãy thử nghiệm và chọn ra một hoặc một vài tài liệu bạn thấy phù hợp, hiệu quả để theo học. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy những mã QR được đặt ở phần Bài tập sau mỗi Bí quyết. Những mã QR đó sẽ dẫn bạn đến các trang web hoặc nhóm Facebook để hoàn thành bài tập hoặc để tham khảo thêm thông tin. Để có thể quét mã QR, bạn hãy tải các ứng dụng điện thoại như QR Code Reader vào điện thoại. Tôi đã tạo ra nhóm HCX: Cộng đồng đa ngôn ngữ để các độc giả giao lưu, học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau. Tôi cũng sẽ cố gắng trả lời tất cả bình luận của các bạn. Mời bạn tham gia vào nhóm và tích cực trao đổi trong quá trình đọc cuốn sách! Cuốn sách này không chỉ để đọc và nâng cao tầm hiểu biết về ngoại ngữ mà tôi muốn bạn thực hiện ba điều sau với mỗi bí quyết mà tôi đưa ra: Đọc và ghi chép lại những điều quan trọng, những điều bạn chưa biết vào một cuốn vở; Thực hiện các bài tập ở cuối mỗi bí quyết; Quét mã QR, tham gia bình luận với các độc giả khác và với tôi. Như tôi đã nói ở trên, hãy luôn gắn liền việc học tập với việc thực hành. Bạn đã sẵn sàng cầm chìa khóa để mở cánh cửa bước vào thế giới học ngoại ngữ chưa? Hãy bắt đầu cùng tôi nhé! *** Tôi mong rằng cuốn sách này cung cấp cho bạn những thông tin bổ ích và thú vị về ngoại ngữ đồng thời truyền cho bạn động lực, cảm hứng trong học tập. Tôi xin nhắc lại là những lời khuyên trong cuốn sách và những giờ học tiếng sẽ không giúp ích được cho bạn nếu bạn không thực hành. Thực hành chính là thao tác quan trọng nhất trong quá trình học bất cứ ngôn ngữ nào. Practice makes perfect32, phải không bạn? 32 Tiếng Anh, dịch ra tiếng Việt: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Ngoại ngữ có sức mạnh thay đổi cuộc sống và giúp bạn mở ra những cánh cửa cơ hội rộng lớn. Hãy bắt đầu, nâng cao, duy trì việc học ngoại ngữ của mình để trở thành người song ngữ hoặc đa ngôn ngữ. Bạn sẽ không chỉ giúp cho bản thân có thêm một lợi thế mà còn giúp cho đất nước chúng ta phát triển hơn, nguồn nhân lực Việt có khả năng cạnh tranh cao trong phạm vi Đông Nam Á nói riêng và toàn cầu nói chung. Chúc bạn có nhiều thành công và niềm vui trong việc học ngoại ngữ! Mọi thắc mắc, cảm nhận và chia sẻ về cuốn sách này cũng như việc học ngoại ngữ xin gửi về địa chỉ e-mail: [email protected].   Mời các bạn đón đọc Chìa Khóa Để Trở Thành Người Đa Ngôn Ngữ của tác giả Hồ Thu Hương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh - Nassim Nicholas Taleb
Trong Khả năng cải thiện nghịch cảnh, Taleb khẳng định vai trò quan trọng của tính bất định, làm cho nó trở nên đáng mong đợi, thậm chí cần thiết, và đề xuất rằng sự việc nên được xây dựng sao cho có khả năng cải thiện nghịch cảnh. Khả năng cải thiện nghịch cảnh không chỉ là sự mạnh mẽ hay khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi chỉ có thể chịu đựng những cú sốc và trở về nguyên trạng; trong khi khả năng cải thiện nghịch cảnh nghĩa là trở nên ngày càng tốt hơn. Quyển sách này bao trùm vấn đề phát minh đổi mới thông qua thử nghiệm và sửa sai, các quyết định trong đời sống, chính trị, quy hoạch đô thị, chiến tranh, tài chính cá nhân, các hệ thống kinh tế, và y khoa. *** Nassim Nicholas Taleb sinh năm 1960 tại Liban, là một nhà viết tiểu luận, học giả, nhà thống kê. The Black Swan (Thiên Nga Đen)là cuốn sách nổi tiếng của ông ra đời năm 2007.   Mời các bạn đón đọc Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện–từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3 của tác giả Phan Dũng.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 - Phan Dũng
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Chương 5: Từ nhu cầu đến hành động và ngược lại trình bày những yếu tố tương đối độc lập, cần lưu ý nhất, như nhu cầu, xúc cảm, các thói quen tự nguyện, tư duy thuộc thế giới bên trong và hành động của mỗi cá nhân, cùng các mối liên kết giữa chúng. Chương 6: Tư duy sáng tạo: Nhìn theo góc độ thông tin – tâm lý tập trung chi tiết hóa quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định của cá nhân. Các hiện tượng thông tin – tâm lý đóng vai trò chủ đạo trong tư duy sáng tạo được trình bày cùng với các lời khuyên về cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả. Không ít người hiện nay để cho suy nghĩ nói riêng, các hoạt động của thế giới bên trong con nguời mình nói chung, diễn ra một cách tự nhiên và không để ý đến chúng. Do vậy, nhiều phép thử sai như là kết quả của các hành động cá nhân đã không được những người đó tìm hiểu, giải thích theo quan hệ nguyên nhân–kết quả một cách khoa học. Những kiến thức của Chương 5 và 6 giúp cá nhân không chỉ có ý thức một cách tương đối đầy đủ về các hoạt động thuộc thế giới bên trong mà còn giúp cá nhân “lắng nghe” và “suy nghĩ” về chúng, tức là, về chính bản thân mình. Điều này có nghĩa, cá nhân cần dành thời gian, công sức tự hỏi, tự quan sát, tự theo dõi, tự trả lời và tự rút kinh nghiệm để phát huy các mặt mạnh, hạn chế các mặt yếu của các hiện tượng thuộc thế giới bên trong con người. Chương 7 này có mục đích phát triển tiếp những gì đã trình bày, theo hướng thảo luận nhằm trả lời câu hỏi: “Cần làm những gì và làm như thế nào để có thể điều khiển được hành động và thế giới bên trong của con người sáng tạo?”. Ở đây, người viết không có tham vọng trả lời trọn vẹn câu hỏi nói trên vì đấy là công việc phức tạp và của rất nhiều người. Do vậy, bạn đọc nên quan niệm Chương 7 này giống như sự cung cấp các thông tin, chia sẻ các kiến thức để chúng ta còn quay trở lại thảo luận tiếp trong tương lai, khi có dịp thuận tiện. Đi vào cụ thể, Chương 7 sẽ trình bày một số ý tưởng cơ bản chung của một bộ môn khoa học, gọi là điều khiển học. Có một loạt từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với “điều khiển” như quản lý, quản trị, điều hành, lãnh đạo, dẫn dắt, điều chỉnh, lái, lèo lái, kiểm soát... Trừ những trường hợp cần nhấn mạnh, nói chung, người viết sẽ dùng từ “điều khiển”. Tiếp theo, Chương 7 sẽ trình bày mối quan hệ, tác động qua lại của cá nhân và môi trường (hiểu theo nghĩa rộng nhất), có tính đến những kế thừa lịch sử phát triển tự nhiên, xã hội. Để đối phó với những thách thức đến từ môi trường, con người hiện đại có nhu cầu thay đổi thế giới bên trong của chính mình, hiểu theo nghĩa, phải chủ động điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong, một mặt, cho phù hợp với các thay đổi môi trường. Mặt khác, điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong để điều khiển quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định, tạo ra các hành động biến đổi môi trường, phù hợp với các quy luật phát triển khách quan. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 của tác giả Phan Dũng.