Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hạnh Phúc Trong Năm Lời Nói Dối

“Cứ để thời gian ăn mòn những nỗi oán hận, thế thì dễ dàng hơn. Chính xác như những nụ hôn bị đánh cắp một cách ngớ ngẩn, hãy để chúng chìm vào lãng quên trong nhà kho của sự dối trá. Chủ nghĩa phủ nhận muôn năm. Rồi để xem. Ta chẳng bao giờ dám yên trí nữa. Và nếu như tấm gương phản chiếu lại hình ảnh hơi mờ ảo của người mà ta muốn trở thành. Sau tất cả, ai mà chẳng có khiếm khuyết?”. ------------------- Bạn đã bao giờ nói dối chưa? Với người xa lạ, bạn bè, người yêu, gia đình,…? Về những điều nhỏ nhặt như “Không, em không giận, em vẫn ổn” cho đến những chuyện to tát như “Tôi lỡ có thai và tôi không muốn giữ đứa bé”…? Những lời nói dối luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta, thậm chí trở thành một phần không thể thiếu. Chúng ta nói dối khi sự lừa dối có lợi hơn sự thật. Nhưng liệu cuộc sống được xây dựng trên sự dối trá đó có khiến chúng ta thấy thoải mái và bình yên trong lòng? “Hạnh phúc trong năm lời nói dối” là câu chuyện xoay quanh Chloe Avanel - một cô gái bình thường, có những mối quan hệ bình thường và cần thiết như bao người khác, sống trong một gia đình với người mẹ đã mất và một vài trục trặc nho nhỏ. Mọi thứ được thông qua đôi mắt của cô, từ góc độ của cái tôi nhân vật nhìn ra ngoài cuộc sống và chứng kiến những lời nói dối. Nó khiến cô luôn tự hỏi liệu có thể nào dừng trò chơi lừa bịp này và sống không giả dối dù chỉ một lần không? Cuộc sống của Chloe, chuyện tình yêu của Chloe và Benjamin, mối quan hệ với người chị gái Joséphine và những mâu thuẫn trong gia đình Chloe, tất cả những lời nói dối dần được vô tình phát hiện hoặc hiển hiện và phơi bày rõ ràng. Đến cuối cùng, sau rất nhiều năm trôi qua, Chloe nhận ra rằng: đừng bao giờ tin vào vẻ bề ngoài; hãy tập trung vào thứ gì xứng đáng, tiến lên và nắm lấy nó. Bầu trời khi ấy dù đen tối đến đâu cũng sẽ trở nên bừng sáng một màu trong xanh. *** Không, tôi không muốn. Hoàn toàn không muốn về ra mắt bố mẹ Benjamin trong một hồi trống dồn dập theo kiểu “Tôi là Chloé, hôn thê của con trai cả nhà các vị”. Mặt khác, anh cũng có vẻ không vội để tôi xuất đầu lộ diện như một con thú trong hội chợ ở phòng khách kiểu cách của bố mẹ anh, những người hết sức đứng đắn. Với một nụ cười méo mó, trong cái váy xếp li và lời lẽ lúng túng. Thật quá sức chịu đựng. Tuy nhiên, cuối cùng thì, Benjamin, còn gọi là Benji, đã quen đến ăn tối ở nhà tôi, với những gì còn lại (ý tôi là gia đình, không phải những bữa tối nhé), vì tôi đang sống với chị Joséphine, Édouard - người yêu của chị và em trai tôi Gaspard. Mẹ tôi mất năm tôi mười lăm tuổi và đã năm năm nay bố tôi sống trên một hòn đảo hẻo lánh ngoài khơi Polynésie thế nên chị em tôi sống với nhau, vui vẻ trong tình thương ruột thịt. Một khay bò băm phủ khoai tây nghiền còn nghi ngút khói vừa được đặt lên bàn ngay khi Joséphine ngây ngô hỏi: - Thế bao giờ em ra mắt ông bà Largevent? Một tia hốt hoảng vụt qua mắt Benjamin mà tôi không muốn tố cáo nó. Anh có xấu hổ về tôi không? Lòng tự ái của tôi bị động chạm, nhưng thái độ của anh trấn an tôi. Tôi luôn nhớ kỷ niệm về lần duy nhất tôi thấy bố mẹ anh. Đó là khi họ đi du thuyền trong khi tôi là người chia bài ở sòng bạc trên tàu. Khi trở về, tôi chẳng liên lạc gì với họ. Cũng không cả trong cái lần đáng nhớ khi Benji làm mất chiếc ô tô của họ. Vậy là mọi chuyện đã rõ ràng, cần phải có một buổi ra mắt, tôi sẽ bắt buộc phải có mặt, nhưng nếu có cách nào để tránh nó thì tôi muốn vô cùng. Thật ra, tôi tự hỏi tại sao Benjamin không thấy xấu hổ về bố mẹ anh. Anh chưa bao giờ chỉ trích họ một cách công khai, nhưng kỳ thật tôi biết những mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái chẳng bao giờ dễ dàng cả. Chẳng hạn, anh phải báo trước nếu không ăn ở nhà ngày hôm sau. Đó là một dấu hiệu đấy, tôi nghĩ thế. Và cái giọng điệu mà anh dùng để nói chuyện với bố mẹ, nó y như cách anh đối thoại với khách hàng vậy. À đúng rồi, tôi quên kể rằng Benji là một công chứng viên. Nghe cũng không hay ho lắm, nhưng cái nghề này khiến anh hài lòng và giúp anh lấp đầy tài khoản ngân hàng. Chỉ có một điều gây bực bội: đồng nghiệp của anh là một cô nàng gốc Mỹ tên Jessica Dupont, một quả bom tóc vàng với bộ ngực 95C. Cô ta có bộ răng trắng bóc, đều tăm tắp (cảm ơn ngành nha khoa)1* và một giọng nói ngọt ngào có thể làm tan chảy bất cứ nhiễm sắc thể Y nào. Những tiếng giày cao gót lịch thiệp vang lên trên nền đá cẩm thạch, và mùi Chanel số 5 vấn vương mỗi khi cô ta đi qua. Tôi chẳng thù ghét gì cô nàng ngoài việc khiến Benjamin luôn phải liếc theo hình bóng ấy. *Nguyên văn chirurgie = phẫu thuật, hiểu là chirurgie dentaire.. Mặc cho những điều phiền lòng này, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy tuyệt tới vậy với một người khác giới. Ừm, kinh nghiệm của tôi cũng chỉ giới hạn với một người yêu cũ thôi, nhưng vậy cũng đủ để tôi thấy rằng Benji hội tụ rất nhiều ưu điểm. Đầu tiên là anh không hẹn hò ở quán cà phê, bị bám dính bởi lũ bạn bè bợm nhậu. Tiếp theo là anh không thao thao bất tuyệt về đám bạn gái cũ, mấy cô với những số đo như người mẫu, ngực bự và tóc bạch kim. Tóc tôi màu nâu, mũi tôi hơi dài và thân hình có chút mập mạp (dù chẳng nghi ngờ gì là tôi cũng rất thu hút). Một điều đáng quý nữa: Benjamin không quá kiệm lời trên điện thoại. Chỉ là hôm nay, tôi đã nhận được hai tin nhắn, đều rất nhẹ nhàng, dịu dàng và ân cần, vậy đó. Anh nói rằng anh yêu tôi. Điều đó làm tôi dễ chịu. Bởi vì PAF (tôi đang nói về người yêu đầu tiên, Pierre Antoine Fabrège, anh trai của Marjolaine bạn tôi) là một người hay quên. Có cả ngàn điều để làm trong một giây, tôi đã tự đặt tên cho mình là “Đồ vô dụng”2*. Điều này vô cùng ám ảnh tâm trí bạn. Tôi không biết bạn thế nào, chứ với tôi, tâm trạng tôi chỉ càng vững thêm theo số lượng tiếng bíp trên điện thoại. *Nguyên văn “bánh thứ năm của xe ngựa”, ý chỉ người vô dụng thừa thãi.. Và tôi không nói về lý do tại sao chúng tôi chia tay, đó là điều mà tôi muốn bọc trong một cái vỏ đủ dày, khóa lại trong một chiếc hộp thật kín, bỏ vào thùng các-tông dán chặt một cách tỉ mỉ, tất cả được đặt trên gác xép, dưới một lớp bụi. Tóm lại, đừng nhắc thêm về điều đó, tôi đã quên rồi. Hoặc giả là như thế. Chi tiết cuối cùng: tôi yêu cái cách Benji yêu những phẩm chất của tôi. Bởi vì việc anh xoay xở để tìm được những điều đó trong tôi cũng chẳng dễ dàng gì. Và cũng bởi vì anh giúp tôi nhận thức được chúng. Anh thích tính hài hước của tôi, anh thích nụ cười của tôi, anh thích tiếng cười, năng lượng nơi tôi, làn da của tôi (thích lắm đấy, anh nói với tôi thế), lọn tóc nổi loạn cố vượt ra khỏi mái đầu bất trị, và tôi đã bỏ qua chúng, với đầy hối tiếc. Tóm lại, chúng tôi yêu nhau. Chúng tôi thường ăn trưa với nhau, anh cũng ăn tối thường xuyên ở nhà tôi, và sau đó lại trở về nhà để không gây ra ồn ào gì. Bởi vì anh còn ở với bố mẹ và chưa có một buổi giới thiệu chính thức nào. Vậy đó. Điều khập khiễng duy nhất trong cuộc sống thú vị này, đó là: tôi chẳng làm gì khác cả. Không học hành, không nghề nghiệp, không thất nghiệp, chẳng gì cả. Người ta có thể tin rằng đó là một hoàn cảnh lý tưởng, nhưng không. Tôi mười chín tuổi và muốn thay đổi, không muốn loanh quanh trong phòng để huyễn hoặc bản thân rằng tôi rất tuyệt vời, trước tiên là để thuyết phục chính mình. Tôi cho rằng vấn đề sẽ được giải quyết ngay năm học tới, nhưng những ngày trôi qua như một miếng bọt biển: uể oải và vô ích. Nói một cách chính thức, tôi đang trong thời gian tìm kiếm. Nghĩa là: tôi nhìn mình mà chẳng nói năng gì và chỉ lặp đi lặp lại: “Mày muốn làm gì với cuộc đời mày hả Chloé thân mến?” - nhưng mọi chuyện cũng chẳng khá hơn. Cái vòng luẩn quẩn này cứ như thế kể từ khi tôi không còn làm tài hề nữa (cho những ai không biết, tài hề là người phụ trách các trò chơi trong sòng bạc). Chị em tôi thêm nặng gánh. Tôi biết cần phải tìm thấy lối đi cho riêng mình. Giờ đây, tôi có cảm giác trước mặt là một đường hầm dày đặc, vô định, đen tối và dính dấp. Những ngày tâm trạng tốt thì tôi rất có lòng tin, nhưng những ngày khác, tôi như chìm trong cảnh khốn cùng. Làm việc trong một chuỗi hàng ăn nhanh, như là cái cửa hàng với chữ M lớn khoanh tròn trên lưng3* ư? Ừ, có thể. Bắt đầu học lại theo hệ từ xa ư? Cái đó, thực sự, giờ không phải là thời điểm tốt. Tìm một công việc bất kỳ nào khác để cho phép mình dịu đi lũ sói đang gào thét trong lòng ư? Hừm. *Ý chỉ McDonald’s.. Vậy là, không, chẳng có một buổi ra mắt chính thức nào, đề tài này đã khép lại. Chọn một chủ đề khác để nói chuyện, làm ơn đi. - Em biết là em đang làm trái luật đấy, Benjamin nói khi chúng tôi đi lên phòng tôi, sau khi đã ních đầy bụng món bò băm phủ khoai tây nghiền. Em đang hưởng tiền bảo hiểm từ cái chết của mẹ em, khi mà thường thì vì em đã dừng việc học, đáng ra em không nhận được số tiền đó nữa. - Ôi, thôi nào! Em đã đăng ký vào tháng Chín năm ngoái, em đã trả tiền học, nên năm nay chả có gì mà lo cả. Giờ là cuối tháng Tư, tức là năm học cũng sắp hết rồi. Mùa thu tới, để xem. Em sẽ lại trở thành sinh viên thôi, nào. Một cái nhếch mép phiền lòng lướt qua khuôn mặt Benji. Với anh, đó không phải là một cái “nào” chấp nhận được. - Chỉ là… Anh biết những điều này và anh không muốn đảm bảo cho mấy cái việc làm trái với… - Em xin ngắt lời anh ngay lập tức nhé. Em biết anh là công chứng viên và đã tuyên thệ trung thực. Anh đã cảnh báo cho em rồi, và đừng lo, anh sẽ không bị gạch tên khỏi danh sách đâu. Với cả, năm học này, cũng không hẳn là gian lận tiền bảo hiểm, vì em đã đăng ký học tới tháng Sáu rồi. Tuy nhiên, Benjamin chẳng có vẻ gì là tự hào. Gương mặt anh xám xịt, vẻ cương trực như bị bóp méo. Không tự hào, cũng chẳng hạnh phúc. - Được rồi, sự chu đáo của anh được ghi nhận. Em đã ngán phải bắt anh giữ bí mật chuyện này rồi. Một cái nhún vai. Bởi vì anh không thích điều đó, thế thì chọn một chủ đề mới vậy (cái thứ ba). Ờm, nói về… - Anh có thấy lúc này có vẻ lạnh không? Benjamin phá ra cười và đáp: - À, thế thì anh có giải pháp ngay đây: nép vào anh, anh biết làm thế nào để sưởi ấm cho em… Anh bao lấy tôi trong vòng tay và xoa người tôi như thể chúng tôi đang ở dưới một cơn bão tuyết. Benji, tôi yêu tiếng cười và tính tình anh. Làn da màu cà phê sữa của anh và những cử chỉ nhẹ nhàng nữa. - Anh không muốn ở lại đây đêm nay, dù chỉ một lần à? - Không, tốt hơn là anh nên về... Còn em, hãy suy nghĩ về cách làm cho bản thân trở nên bận rộn hơn trong những ngày này đi nhé. Trở nên bận rộn hơn, trở nên bận rộn hơn… Như thể lý do chính là để không gian lận tiền bảo hiểm! Tôi lắc đầu, với một chút buồn phiền. Và Benjamin ra về sau một tiếng thở dài. Bí mật đầu tiên, lời nói dối đầu tiên. Chẳng hề vẻ vang gì, với bất kỳ ai. ♥♥♥ Trong đêm, cả đống suy nghĩ quay cuồng trong đầu tôi, giương ra những hình ảnh kỳ quái. Vấn đề đầu tiên của tôi, đó là tôi chẳng biết phải làm gì với bản thân, với một quả cầu thủy tinh trên tay, tôi tự ngắm mình thật lâu. Nhìn đi, ai là mày, Chloé, mày đang giấu diếm điều gì trong tâm trí? Tôi thấy mình là một cô gái trẻ hấp dẫn và đầy năng lượng - nhưng giờ đây trống rỗng vô nghĩa. Bíp bíp, cần được giúp đỡ để biết cô ấy đã đi đâu. Benjamin cuốn đi những nghĩ suy trong tôi và tập trung vào một chi tiết nhỏ bé nhất, rằng bất kể điều này có làm tôi vui hay không, anh vẫn muốn tôi trở lại làm sinh viên, muốn ngăn tôi tự biến mình thành kẻ lừa đảo chuyên nghiệp. Tôi có muốn hẹn hò với người luôn kiên quyết với loại tội lỗi nhỏ nhặt này, như thể chúng vốn rất cơ bản? Câu trả lời là có. Tôi thích một người quá đỗi trung thực hơn là một kẻ lừa đảo, cơ hội, khôn vặt. Ngay cả khi tính thẳng thắn đôi khi thật nhàm chán. Bất kể ra sao. Ta tin rằng bóng đêm của những người chẳng làm gì trong ngày sẽ yên lặng và thanh tĩnh lắm. Chẳng có gì cả. Kẻ ăn không ngồi rồi cứ lặp đi lặp lại, suy nghĩ một cách đau khổ về mục đích cuộc đời mình, đả kích, tự nhận ra đó là một thứ ngáng chân, một cái dằm nặng nề đối với mọi người xung quanh. Thay vì đi tàu điện, tôi đi bộ. Trên bến Garonne, tôi nhận ra những thay đổi nhỏ nhất, những người quen mặt đã gần như trở thành bạn bè. Có những bà mẹ đang đẩy xe em bé, những người chạy bộ giẫm lên mặt đường rải nhựa những bước vững chắc, những kẻ nhàn rỗi, như tôi. Và lũ trẻ, vào lúc tan trường. Nhưng họ không nhầm đâu: từng chút một, tôi trở thành một quả bóng trong trạng thái bị kích thích. Khi còn làm tài hề trên tàu, tôi thấy thật dễ ngủ, chắc là tôi cần nghỉ ngơi (và la hét với đám cùng phòng, tín đồ của tivi buổi đêm bằng tiếng Indonesia ở âm lượng ít nhất tám mươi đề-xi-ben). Khi đang lo lắng, tôi cứ lần chần tránh né và kiên trì giữ lấy những ý định vốn rất tốn thời gian. Những ý định của đêm nay thật là đa dạng: a) Benji, tôi đã có anh rồi, tôi sẽ giữ lấy anh. b) Tôi sẽ tìm một công việc trong lúc đợi năm học tới, và tại sao không trở lại du thuyền để đếm thẻ bài nhỉ? c) Từ nay, tôi sẽ dậy cùng lúc với những người khác, bởi vì nó chả có lý gì cả. Tôi là một người năng động, và tôi sẽ chứng tỏ điều đó. Có câu châm ngôn gì ấy nhỉ? “Hạnh phúc thuộc về kẻ dậy sớm”, hoặc cái gì đại loại thế. Thế nên, ngay sáng mai, báo thức sẽ kêu lúc bảy giờ. Trừ khi những nghĩ suy trằn trọc lúc nửa đêm này làm tôi kiệt sức. Và tôi hiểu, trong màn sương mờ mịt, rằng không phải hạnh phúc, mà là thế giới thuộc về những kẻ dậy sớm. Và thế gian này có thể đợi tới khi tôi có một tinh thần tươi sáng. Điều này giải thích cho việc tôi cáu kỉnh tắt báo thức. Và rồi ngủ lại ngon lành. Tiếng bíp từ tin nhắn điện thoại đánh thức tôi dậy một giờ sau đó. Là Benjamin. Anh phải đi công tác gấp ở tỉnh, sẽ vắng mặt tới ngày mai. Tốt thôi. Nếu chuyến đi này không phải với Jessica Dupont, quả bom của văn phòng công chứng, thì tôi có thể tiếp tục ngủ. Rốt cuộc tôi cũng thức dậy, ý thức được những trách nhiệm mới mà mình đã tự đặt ra đêm qua và rồi bị gặm nhấm bởi cảm giác tội lỗi. Đó là lý do mà tôi đang lướt Internet, tìm kiếm một công việc trong mơ. Những người chưa bao giờ thử thì không biết điều này, nhưng không phải dễ dàng để tìm thấy một công việc thú vị, trả lương khá và kích thích trí thông minh. Nói đúng hơn, đó là nhiệm vụ bất khả thi. Hoặc nếu thông báo nhấp nháy trên màn hình, với một đề nghị hấp dẫn kiểu “Kiếm thật nhiều tiền mà không cần di chuyển”, thì tức là nó đang che giấu một điều gì đó không rõ ràng, thì không, cảm ơn. Ngoài một công việc dạng như khiêu dâm qua điện thoại, chẳng có gì để xem cả. Đó sẽ là một phương án, và trong một khoảnh khắc, tôi thấy mình, khóa kín trong phòng, trả lời những gã đàn ông bệnh hoạn chỉ có một khao khát duy nhất: nghe những tiếng rên rỉ lừ đừ... Và tôi tưởng tượng ra hình ảnh của Benjamin khi tôi thông báo với anh, đầy hoan hỉ, rằng cuối cùng thì tôi cũng có được công việc trong mơ rồi... Không, dù thế nào thì, nó yêu cầu tài năng mà tôi không có. Lúc ấy, một lần nữa, tôi oải nhàn4* trong căn nhà. Cần có một sức mạnh chắc chắn nào đó, kiểu như để có thể vượt qua ngày dài không quá chán nản mà cũng không cảm thấy tội lỗi. Rõ ràng là tôi không có sức mạnh đó. Sự tội lỗi đã thắng thế, đến nỗi tôi phải giặt giũ quần áo không chút chậm trễ, lấp đầy tủ lạnh và thậm chí còn đi nấu ăn, khi mà thường thì đó là việc của Gaspard. Điều này nói lên là tôi đang cảm thấy tệ thế nào. *Oải nhàn: có một tư thế uể oải và nhàn rỗi (Chloé Avanel, Từ điển tiếng Pháp hay dùng, trang 354).. Điều tệ nhất là những người khác cảm thấy đấy là bình thường. Đã đến lúc tôi cần tìm ra một mối bận tâm thực sự. Mời các bạn đón đọc Hạnh Phúc Trong Năm Lời Nói Dối của tác giả Pascale Perrier.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kinh Thánh Của Một Người - Cao Hành Kiện
Cao Hành Kiện trò chuyện tại New York City: Hỏi: Vì sao cuốn tiểu thuyết có tên gọi là "Kinh Thánh Của Một Người", vì sao trong hồi ức khủng khiếp về những đau khổ, buồn bã và bạo tàn xuyên suốt ba thập niên đầu của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa này ông lại dùng phụ nữ, nhất là những chuyện tình dục với phụ nữ, làm cách lấy lại ký ức đã mất, thu góp lại những kinh nghiệm đã mất? Trả lời: Câu hỏi rất hay và rất đáng chú ý, và tác giả phải nói rằng đó tất nhiên là kinh thánh của một người. Nhưng mặt khác, nó không giới hạn ở kinh thánh của một người. Đó còn là nói về một cá nhân, một dân tộc nói chung, về cách nhân dân đã sống qua được những khủng hoảng và sống qua được những tai hoạ và bạo tàn. Điều tác giả quan tâm hơn nhiều là họ không phải là những anh hùng, như vậy câu hỏi là: làm thế nào sống qua được các thảm hoạ và khủng hoảng lại là anh hùng được, bởi vì đây là cách phát hiện chỗ yếu của con người? Nếu ai cũng là anh hùng thì các thảm hoạ mà loài người phải đương đầu mới có ý nghĩa được. Vì thế một mặt tác giả trần thuật, mô tả các cuộc khủng hoảng chính trị và tình hình chính trị, và mô tả nó thật chi tiết và cẩn trọng. Mặt khác, tác giả cũng mô tả các đặc điểm và chỗ yếu của cá nhân, và cũng muốn nắm bắt chúng thật cặn kẽ. Và khi đó vấn đề đặt ra là anh dùng tiêu chuẩn nào để phán xét những con người này, dùng loại tiêu chuẩn đạo đức hay luân lý nào để phán xét họ. "Không phải anh không nhớ rằng mình đã từng có một cuộc đời khác, giống như vài tấm ảnh của gia đình chưa bị tiêu huỷ nay đã ố vàng, nghĩ lại khiến người ta ít nhiều âu sầu thương cảm, nhưng vời vợi quá và tựa hồ cách xa nhau cả kiếp sống. Tất cả đã mãi mãi tiêu vong. Nhà anh ở Bắc Kinh bị cảnh sát lục soát niêm phong, nơi ấy đã lưu giữ một tấm ảnh chụp chung cả gia đình mà người cha quá cố còn để lại, đó là tấm hình đầy đủ nhất các thành viên trong đại tộc. Lúc ấy ông nội anh còn sống, đầu bạc phơ, vì bị trúng gió không thể nói năng gì nữa, nằm trên một chiếc ghế xoay. Anh là con cả, cháu đích tôn, là đứa trẻ duy nhất trong tấm ảnh, đứng chen giữa ông bà nội, mặc quần hở đáy, bày cả chim ra ngoài, nhưng trên đầu lại đội mũ calô kiểu Mỹ. Đó là cái thời kháng chiến tám năm vừa chấm dứt và một cuộc nội chiến khác sắp bắt đầu, nở rộ cúc vàng hoàng kim và mào gà đỏ tím, ánh nắng một ngày cuối hạ còn vô cùng rực rỡ chiếu rọi khắp thế gian. Những gì gọi là kí ức của anh về hoa viên là như vậy, tấm ảnh bị dính nước đã ngả sang màu vàng xám. Cảnh phông của tấm ảnh là toà lầu hai tầng kiểu Anh quốc nằm phía sau cổng tròn, dưới có hành lang vòng, trên có lan can và cả đại gia đình anh đã sống ở nơi ấy. Anh nhớ số người trong tấm ảnh là mười ba, một con số không lấy gì làm may mắn cho lắm, có cha mẹ anh, đầy đủ các cô, chú và một người thím. Ngoại trừ cô cả đang ở Mỹ và anh ra, toàn bộ những người trong ảnh, cùng toà lầu phía sau cổng tròn ấy đều đã bị xoá hết dấu vết trên thế gian này... Ngân Xuyên dịch từ tiếng Anh *** Cao Hành Kiện (4/1/1940) là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình người Trung Quốc đầu tiên và là công dân Pháp thứ 13 được trao Giải Nobel Văn học trong suốt 100 năm qua. Ông cũng còn được biết đến với tư cách là một dịch giả, đạo diễn sân khấu và họa sĩ. Ông sinh ra và lớn lên ở Cống/Cám Châu, Giang Tây, Trung Quốc. Ông tốt nghiệp trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh năm 1962 ngành tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp ông được phân công đến Cục xuất bản ngoại văn làm phiên dịch. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976) ông đã bị đưa vào trại học tập cải tạo và phải âm thầm thiêu hủy cả một va-li đầy bản thảo tác phẩm của mình, trong đó có một vài cuốn tiểu thuyết chỉ chờ ngày xuất bản và 15 vở kịch. Sau đó, ông bị gửi vào trại cải tạo giáo dục mất 7 năm. Năm 1975 ông trở về Bắc Kinh, làm việc tại Cục xuất bản Ngoại văn. Đến năm 1978 ông nhận chức phiên dịch cho Hiệp hội tác gia Trung Quốc. Năm 1980 ông về làm công tác biên kịch tại Kịch viện Nghệ thuật Nhân dân Bắc Kinh. Cao Hành Kiện là một trong những văn nghệ sĩ tiền phong của Trung Quốc đã cổ vũ, đấu tranh cho quyền sáng tác văn nghệ tự do và đích thực. Chính phủ Trung Quốc đã từng coi ông là một phần tử chống đối và các tác phẩm của ông đã bị cấm lưu hành từ năm 1986. Ông đã bỏ Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1989 sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Năm 1988, ông sang Pháp sinh sống và nhập quốc tịch Pháp từ 1998, hiện cư ngụ tại ngoại ô Paris, khu Bagnolet. Mười chín năm sống ở Pháp, ông đã tập trung vào viết sách, soạn kịch và triển lãm nghệ thuật. Vào năm 1992 ông đã giành được giải Chevalier de l'Ordre des Arts et des Lettres (Huân chương về Văn học và Nghệ thuật) của Chính phủ Pháp. Sau khi ông đoạt giải Nobel năm 2000, báo chí Trung Quốc không rầm rộ về việc này, nhưng tờ báo ra hằng ngày Tin tức buổi chiều Dương Thành, vào năm 2001, trong một cuộc chỉ trích về Linh Sơn đã gọi ông là một "nhà văn dở tệ" và nói rằng việc ông đoạt giải Nobel thật là lố bịch. Linh Sơn là một tác phẩm nổi tiếng của ông, tổng hợp nhiều hình thái và thể loại văn chương gồm hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, đối thoại, độc thoại... hoà quyện vào nhau. Giáo sư Lee Mabel, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh (Soul Mountain) đã nhận định: "Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong". Cao Hành Kiện còn là một họa sĩ vẽ tranh thủy mặc độc đáo. Ông đã cho tổ chức khoảng 30 cuộc triển lãm tranh khắp nơi trên thế giới và nhận được nhiều lời khen ngợi. *** Một mùa đông nữa lại đến. Đêm đã về khuya, anh vặn nhỏ đèn bàn, chui vào chăn thì nghe tiếng gõ nhẹ lên kính cửa. - Ai ngoài đó? - Dạ em. Anh đoán không ra giọng người con gái ấy là ai, vẫn quần đùi, chân trần anh vội mở cửa, rồi để mặc cho cô ta khép lại, gài then, còn mình thì lao vào ổ chăn vì lạnh và xấu hổ. Cô gái đó là Tiêu Tiêu, nữ sinh trung học. Tiêu Tiêu tháo khăn len trùm kín đầu làm lộ rõ khuôn mặt trắng bạch, giá lạnh. Anh hốt hoảng hỏi gấp: - Có chuyện gì phải không, Tiêu Tiêu? - Dạ không - Tiêu Tiêu ngẩng đầu nhìn anh, lúc này anh vẫn ngồi trên giường và đôi chân giấu kín trong chăn. - Mở lò sưởi đi, chết cóng rồi kìa. Tiêu Tiêu cùng một toán học sinh trung học tự nguyện đến cơ quan anh đi thực tế tham gia phong trào, và nhanh chóng cũng phân chia thành hai phái. Cô bé này và một vài bạn nữa ngã về phe anh, nhưng rồi như gió thổi, dao động không kiên định, ồn ào được mấy hôm là chuồn thẳng, chỉ mỗi Tiêu Tiêu còn ở lại. Khác với bạn học của mình hung hăng sôi nổi, Tiêu Tiêu rất tĩnh lặng ngồi nghe, xem báo, hoặc sao chép đại tự báo; cô gái viết bút lông cũng khá, và nhẫn nại, chịu khó. Lần ấy chép xong loạt bài đại tự báo, căng dán đây đó hoàn tất thì đã chín giờ đêm, Tiêu Tiêu bảo nhà cô ta ở Cổ Lâu, thuận đường về anh đã đèo Tiêu Tiêu luôn một thể, anh bảo Tiêu Tiêu cùng vào phòng mình nấu tí mì lót dạ. Anh tiếp tục đèo Tiêu Tiêu đến một con hẻm thì cô ta nhảy xuống, chưa kịp nghe hai chữ “đến rồi”, anh chẳng còn thấy Tiêu Tiêu đâu nữa. - Em ăn uống gì chưa? Tiêu Tiều gật đầu, lửa lò sưởi làm ấm căn phòng và làm đôi má cô ta ửng đỏ. Cũng đã lâu anh và Tiêu Tiêu không có dịp gặp nhau nên rất nóng lòng muốn biết lí do vì sao giữa đêm hôm khuya khoắt thế này mà cô bé phải đường đột xuất hiện. - Dạo này đang làm việc gì? - Dạ không làm gì cả. - Thế ở nhà trường cũng không nốt hay sao? - Tất cả các cánh cửa kính đều bị đập vỡ tan tành, gió lùa vào lạnh ngắt, chẳng ai buồn đến lớp; chỉ chạy lung tung đây đó, không còn biết làm gì. - Như vậy lại càng tốt, được nghỉ học, không thích à? Tiêu Tiêu im lặng, anh rướn lên kéo cái quần dài định mặc vào để xuống giường thì cô gái ngăn anh: - Anh cứ nằm thế, chẳng có việc gì đâu, đến nói chuyện với anh cho đỡ buồn. ... Mời các bạn đón đọc Kinh Thánh Của Một Người của tác giả Cao Hành Kiện.
Kẻ Vô Luân - André Gide
Cuốn sách này đáng giá bao nhiêu, tôi xin trao cho người với giá đó. Ấy là một Trái Cây chứa chất những tro than chát ngấm. Nó giống như loại Dưa Đắng ở Sa Mạc, mọc tại những vùng khô cằn nung nấu, và chỉ ban cấp cho cơn khát nước của con người một trận cháy bỏng càng thê thảm tàn khốc thêm; nhưng nằm trên mặt cát vàng (hoàng sa) không phải là không đẹp. Nếu như tôi có ý đưa nhân vật mình ra làm gương mẫu (cho người soi) thì phải nhìn nhận rằng tôi đã không thành công chi lắm; một vài kẻ hiếm hoi hỉ hữu nào đã vui lòng chú tâm hữu ý tới trận chìm nổi của Michel, ấy chẳng phải để cảm thông, mà chỉ là để nguyền rủa chàng, với tất cả lòng thiện lương sôi nổi của họ. Tôi đã không hoài công trang điểm Marceline bằng xiết bao đức hạnh; người ta không tha thứ được cho Michel đã vị kỉ không yêu chuộng nàng hơn thân mình. Nếu rằng tôi có ý muốn đưa cuốn sách ra đời nhằm cứu cánh lên án Michel, thì ắt là tôi cũng chẳng thành công gì ráo, chẳng đạt mục đích hơn được chút nào. Bởi vì không một ai người, ai kẻ, ai con, vui lòng cảm tạ tôi vì mối phẫn nộ của họ đối với những nhân vật. Phẫn nộ đối với Michel, và từ Michel cơn phẫn nộ tràn lan tới tác giả. Mép bờ rất mong manh. Một chút xíu thôi, và người ta đã muốn lẫn lộn tôi và nhân vật. Nhưng thật ra tôi không có ý muốn đưa cuốn sách ra đời như một cuộc lên án, mà cũng chẳng phải là trận biện hộ biện minh, và tôi đã tự giữ mình không thôi lời phán đoán. Công chúng độc giả ngày nay không cho phép tác giả được quyền làm khán giả suông. Tác giả sau khi miêu họa cơn kia, cuộc nọ xong, lầm lì không đưa lời nhận định, không bày tỏ lập trường, hoặc đứng phía này hoặc thiên về phía nọ, - đó là điều công chúng khổng thể tha thứ cho... Hà huống...? Hơn nữa, ngay cả trong giờ diễn tiến tồn lưu của tấn tuồng phù động, người ta còn muốn rằng tác giả phải liên tiếp bày tỏ lập trường, phải phán định rõ ràng rành mạch là mình đứng về phía của A hoặc của B, của Bê hoặc của Bối, mình ở bên cánh Philinte hay là bên phe Alceste, mình tán đồng Hamlet hay biểu đồng tình với Ophélie, mình theo chân Faust hay là bén gót theo Marguerite, mình lân mộ Adam hay là sùng mộ Jehovah? Mình tơ tưởng Nausicaa hay là mình nhớ nhung Pénélope? Mình muốn cùng Ulysse vượt trùng dương về trở lại cố hương Ithaque, hay là mình còn lưu luyến mãi cái hương mùi hương dị dị trong lãnh cốc Thần Nữ Calypso? Mình muốn xổ bồ đánh trận vây hãm thành Troie, hay là mình muốn bôn ba lùa bò về lên đầu non đồi sim trái chín? Quả thật, tôi không chủ trương rằng trạng huống trung lập (tôi suýt nói: tình huống lưỡng lự dùng dằng) là dấu hiệu vững chắc của một đầu não hoang viễn huệ năng; nhưng tôi tưởng rằng nhiều bộ óc hoằng đại thông tuệ đã từng chán ghét vô ngần cái lôi kết luận dứt khoát - và: đặt định chính xác một vấn đề, không phải là cho rằng vấn đề đã được giải quyết từ trước. Tiếng “vấn đề” tôi dùng tại đây, là dùng một cách miễn cưỡng. Lòng không muốn, mà buộc phải dùng. Tình phi đắc dĩ... Thật ra, nói cho đúng, thì trong lĩnh vực nghệ thuật, trong miền cõi địa hạt văn chương, không hề có vấn đề nào mà tác phẩm nghệ thuật lại chẳng là lời giải đáp viên túc tự tại tự như. Nếu bằng tiếng “vấn đề” người ta ngụ ý thể hội nghĩa "tấn tuồng” tôi có được phép nói rằng cái tấn tuồng cuốn sách này kể lại, dẫu rằng nó diễn ra trong linh hồn nhân vật của tôi, vẫn cứ là một tấn tuồng quá phổ quát, không thể nào chịu nằm lì giới hạn trong cuộc phiêu bồng chìm nổi dị biệt riêng tây của mình. “Vấn đề” kia, tôi không có ý tự phụ cho rằng mình phát minh ra nó. Nó vốn dĩ đã tồn lưu trước khi cuốn sách này xuất hiện. Thì dẫu... Thì rằng... Rằng Michel thắng cuộc hoặc thua cơn, rằng Michel thong dong duỗi dậy hoặc đồi phế rụng rơi, dù sao thì dù, “vấn đề” vẫn tồn liên tiên trình thị hiện; và cả cơn thắng, cả cuộc thua, tác giả đều không cho đó là một kết quả thu hoạch, vốn dĩ là, đã thế, đã thôi, (đã xong, đã xuôi, đã đành, đã đủ). Nếu rằng một vài tinh thần thông tuệ cao nhã chỉ chấp nhận nhìn thấy trong tấn tuồng kia, bản trình bày một trường hợp oái oăm quỷ dị: và chỉ nhìn thấy trong nhân vật kia, một kẻ bị bệnh hoạn éo le: nếu họ không biết rằng một vài ý tưởng cấp thiết liên can tới cõi chung rất mực rộng tầm, vẫn rất có thể âm thầm cư lưu trong tấn tuồng âm ỉ nọ - vâng, nếu họ quan niệm như thế, thì tội lỗi chẳng phải tại những ý tưởng kia hoặc tấn tuồng kia, mà tại tác giả. Tôi muốn nói: tại chỗ vụng về của tác giả, tại vì tác giả ăn nói không ra câu - mặc dầu y đã đặt vào trong sách này tất cả niềm tha thiết, tất cả những nước mắt sôi cuồng và xiết bao ân cần chăm sóc. Tuy nhiên, ý nghĩa tồn lưu thực tại âm thầm của cuốn sách và cái ý vị lân la mà công chúng tìm ra trong sách, đó là hai sự vụ khác biệt nhau vô cùng. Thiết tưởng: không cần quá nham nhở tự phụ hỗn mang, tôi nghĩ thế, người ta có thể liều chịu trận hững hờ trong buổi mới, không ai thèm ngó ngàng gì đến của lạ ngon ngọt ngẫu nhiên về ngày nhà ma thứ nhất - vâng thà như thế còn hơn là ngẫu nhĩ về gây cuồng hỉ tê mê cho một công chúng thèm ăn những vật đồ lai rai, rồi trôi biệt bỏ xuôi không có một ngày mai tao phùng trong cửa quỷ. Tuy nhiên? Chung quy, tôi chẳng có ý tìm hiểu chứng minh cái gì ráo, mà chỉ duy mong muốn hoạ sao cho nên hình và làm sao cho bức hoạ sáng tỏ với mù sương. TỰA của André Gide *** André Paul Guillaume Gide (22 tháng 11 năm 1869 – 19 tháng 2 năm 1951) là một trong những nhà văn xuất chúng của thế kỷ 20, người đoạt giải Nobel Văn học năm 1947. Sáng tác đầu tay của ông là cuốn tự truyện Les cahiers d'André Walter (Những cuốn vở của André Walter, 1891) viết bằng thơ và văn xuôi đầy chất thơ, kể về sự giằng xé, giày vò giữa thể xác và tâm hồn và sự tìm kiếm lối thoát trong các hình thái thần bí và thanh cao của tình yêu. Do bị bệnh lao không phải chịu quân dịch, những năm 1893-1894 André Gide du lịch sang Algérie và Tunisia, nơi ông phát hiện ra mình là người đồng tính luyến ái. Thời gian khủng hoảng kéo dài được ghi nhận bởi sự bất ổn tinh thần và những kiếm tìm chân lý thể hiện trong truyện vừa Le Retour de l'Enfant prodigue (Cuộc trở về của đứa con du đãng, 1907). Về mặt phong cách, Gide đã khắc phục lối viết cầu kì ban đầu, đến với một ngôn ngữ giản dị rõ ràng. Năm 1908, ông trở thành người đồng sáng lập Tổng quan mới của nước Pháp, một trong những tạp chí có ảnh hưởng đối với sự phát triển nền văn học Pháp và thế giới. Tiểu thuyết châm biếm Les Caves du Vatican (Những động ngầm dưới Vatican, 1914) đặt vấn đề về sự chấp nhận một cách mê muội những tín ngưỡng và lý tưởng. Năm 1926, tiểu thuyết Les Faux-monnayeurs (Những kẻ làm bạc giả) ra đời mang lại nhiều thành công cho ông, đó là một đóng góp thực sự vào sự phát triển thể loại tiểu thuyết. Một năm sau khi xuất bản truyện vừa Thésée (Theseus, 1946) - mà ông coi như một bức di thư văn học - André Gide được bầu làm Giáo sư Danh dự trường Đại học Oxford và được tặng giải Nobel năm 1947. Năm 1950, André Gide xuất bản tập cuối cùng của bộ Journal (Nhật kí). Ông mất năm 1951 ở Paris.   Những nhân vật của Gide đều mang bóng dáng cuộc đời ông, như ông từng viết: “Kẻ khác có thể đã viết nên một tập sách; nhưng câu chuyện tôi kể ra đây, tôi đã hồi tưởng lại bằng cả tâm hồn”. Để hiểu về những tác phẩm gây chấn động của Gide, cần nhìn lại chính đời ông. Gide sinh ra vốn là đứa trẻ nhạy cảm, sống bản năng. Về sau, ông lại gặp thêm quá nhiều bão táp trường đời: Mất cha từ nhỏ, chiến tranh liên miên, bệnh tật và đặc biệt là cú sốc năm 26 tuổi, khi ông phát hiện ra mình là người đồng tính. Trước đó, Gide đã mối tình lãng mạn kéo dài với cô em họ Madeleine Rondeaux từ khi ông mới là cậu bé 12 tuổi (ông đã hồi tưởng lại mối tình đầy ngang trái này trong tác phẩm Khung cửa hẹp). Phát hiện này khiến ông bị rối loạn cảm xúc. Về sau, ông vẫn trân trọng và cưới Rondeaux nhưng đồng thời chạy theo những mối tình đồng giới và thật bất ngờ, lại có con với một người phụ nữ khác. Như con thiêu thân, Gide lao vào những cuộc sa đọa trác táng và không ngần ngại phô bày trên trang giấy. Nhiều người đã lên án Gide kịch liệt, coi những tác phẩm của ông như liều thuốc độc cho người đọc. Bạn bè trong giới văn chương cũng có phần dè chứng ông. Nhưng Gide không vì thế mà chùn bước. Ông vẫn trung thành với bản chất con người, coi thường những hình thức phù phiếm, giả tạo. Ông nâng tầm quan điểm của mình lên thành triết lý trong Kẻ vô luân, kể về Michel, kẻ vượt qua mọi rào cản đạo đức trong hành trình nổi loạn để khám phá con người thật của mình. Mời các bạn đón đọc Kẻ Vô Luân của tác giả André Gide.
Giờ Xấu - Gabriel Garcia Márquez
Giờ Xấu là một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Gabriel Carcía Márquez. Được xuất bản vào năm 1962, viết trước Trăm Năm Cô Đơn và Mùa Thu Của Vị Trưởng Lão, hai trong những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất làm nổi bật phong cách viết của Márquez. Với nhận định này, ta có thể nói Giờ Xấu là một cuốn tiểu thuyết thực sự hay. Đây không phải là cuốn tiểu thuyết viết theo trường phái hiện thực huyền ảo một trong những trường phái làm nên tên tuổi của Márquez. Tác phẩm này hoàn toàn hiện thực, nhưng đây là một câu chuyện thu hút và tưởng tượng hay đến mức không thể nào không đọc đến tận dòng chữ cuối cùng. Câu chuyện xảy ra tại một thị trấn nhỏ do một vị xã trưởng lập dị điều hành. Ngài giữ vai trò vừa là xã trưởng vừa là phó xã trưởng hay nói cách khác, ở nơi chốn ấy, ngài chính là luật lệ. Cư dân sống trong thị trấn phải đối mặt với một vấn đề rắc rối nhỏ. Cứ mỗi sáng ra, đều có một cư dân nào đó trong thị trấn tìm thấy một tờ rơi dán trên cửa nhà mình viết những mẩu chuyện lượm lặt về chính bản thân người đó hoặc về gia đình của họ. Lạ một cái là những chuyện được viết trong tờ rơi ấy, tất cả mọi người trong thị trấn ai cũng biết dù chẳng ai nói ra. Sự việc ấy khiến cho các cư dân trong thị trấn vô cùng căng thẳng, không phải vì những gì được viết ra mà là ai là tác giả của những tờ rời ấy. Giải quyết sự việc bí ẩn ấy là nhiệm vụ của vị xã trưởng, nhưng ngài không lấy làm quan tâm cho lắm. Ngài cho rằng cái trò ngồi lê đôi mách ấy sớm muộn gì cũng sẽ chấm dứt thôi. Trong Giờ Xấu, ngài xã trưởng giữ một vai trò hết sức thú vị vì ngài là một nhân vật có tính cách không rõ ràng. Khi lật mở các trang sách, người đọc có thể nhận ra rằng chẳng thể nói ngài xã trưởng – người chẳng có lấy cả cái tên – là người tốt hay kẻ xấu một cách đơn giản cho được. Ngài là một người phức tạp. Người dân ở thị trấn đó cũng thấy thế. Márquez đã khiến những con người ấy cùng với những câu chuyện hàng ngày thú vị của họ hấp dẫn và lôi cuốn đến độ người đọc cứ thế là lật mở cho tới trang cuối cùng của cuốn tiểu thuyết. Giờ Xấu đề cập đến những vấn đề chính trị, nhưng theo một cách cực kỳ tinh tế. Những tình tiết giải đáp về những thay đổi mà cái thị trấn phải đối mặt được tác giả đặt để khắp mọi nơi. Quá khứ có vẻ như đã từng tối tăm mù mịt, nhưng ta không bao giờ chắc chắn được điều đó. Márquez khai thác những đề tài nặng nề về Lịch sử Châu Mỹ Latinh đen tối với lòng chân thành, thái độ khoan dung và lối hài hước đặc biệt của riêng ông. Và cuối cùng, dường như chúng ta đã dành một khoảng thời gian sống cùng với các cư dân trong cái thị trấn đó. Tuy nhiên, cho dù ta có thấy cuốn tiểu thuyết hấp dẫn ta nhiều hay ít, cho dù có thể vào một ngày nào đó sắp tới, ta sẽ cầm cuốn tiểu thuyết này lên và đọc lại thì có lẽ ta sẽ không bao giờ có ý định trở lại nơi chốn ấy, thời kỳ ấy. *** Gabriel Garcia Márquez (sinh năm 1927) tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Columbia, ông là nhà văn nổi tiếng người Colombia. Ngoài viết văn ông còn là một nhà báo và một nhà hoạt động chính trị. Ông được biết đến với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả, Mùa thu của vị trưởng lão, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Trăm năm cô đơn... Gabriel Garcia Márquez sinh ra và lớn lên tại một gia đình trung lưu gồm 11 người con và ông là anh cả. Những năm đầu tiên học tại đại học Quốc gia Colombia Márquez đã bắt đầu tham gia viết báo và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Sau khi học được năm kỳ, ông quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Trong năm 1955, ông tới Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó qua Ý học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris sinh sống trong điều kiện vật chất vô cùng khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư). Năm 1982 ông nhận giải Nobel văn học cho những cống hiến của mình. Sau đó ông vẫn tiếp tục sáng tác và có nhiều tác phẩm giá trị, ngày càng khẳng định được tên tuổi trên văn đàn thế giới. *** Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: - Ký sự về một cái chết đã được báo trước (tiểu thuyết), Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983. - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983; 2001. - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989; NXB Văn Học, 2001. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1990; NXB Hội Nhà Văn, 1999.  - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995; NXB Văn Học, 2004. - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995; 2000. - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986; 1992; 1999; 2000. - 36 truyện đặc sắc (tập truyện ngắn), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001. - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1998; NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001. - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002. - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004. - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. - Ông già và đôi cánh khổng lồ, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NX B Quân Đội Nhân Dân, 1998; Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Làng này không có kẻ trộm, Quà Tết, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997. - Máy bay của người đẹp ngủ, Gió Bắc, Mùa hè hạnh phúc của bà Phorớt, Thánh bà, Người bạn Mutit của tôi, Thưa Tổng thống - chúc ngài thượng lộ bình an, Dấu máu em trên tuyết, Nguyễn Trung Đức dịch; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Nguyễn Kim Thạch dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986; Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Buổi chiều tuyệt vời của Bantaxa, Dương Tường dịch; Thần chết thường ẩn sau ái tình, Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999. - Biển của thời đã mất, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999; Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Bà Maria Dos Przeres, Đoàn Đình Ca dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000. - Đôi mắt chó xanh, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Thần chết thường ẩn sau ái tình, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004. *** Matêô đê Axit định bụng căn cứ theo tiếng gà gáy để đoán giờ. Cuca cùng anh tỉnh hẳn và không biết đích xác đã mấy giờ. - Mấy giờ rồi nhỉ? Nôra đê Hacôp vươn dài cánh tay trong bóng tối vớ lấy chiếc đồng hồ dạ quang ở trên bàn ngủ. Câu trả lời của bà cho thấy vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn. - Bốn rưỡi rồi – bà nói. - Của khỉ! Matêô đê Axit vùng dậy khỏi giường. Nhưng cơn đau đầu, cơn khát khô họng, đã buộc anh phải từ từ đứng dậy. Anh quơ chân tìm đôi giày. - Trời sáng bạch mất rồi và anh làm sao ra về được. Rõ khổ. - Hay quá đi mất! – Nôra nói. Bà thắp đèn và thấy mình đang trần như nhộng. – Có lẽ anh phải ẩn trong phòng này đợi đến ngày mai. Nôra đang khỏa thân hoàn toàn. Bộ phận sinh dục hầu như được che kín nhờ tấm ga trải giường. Ngay cả tiếng nói của bà cũng loãng ra cùng với ánh đèn tờ mờ. Matêô đê Axit đang đi giày. Anh to cao, lực lưỡng. Nôra đê Hacôp, vốn tiếp anh thường xuyên như thế này từ hai năm nay, bỗng thấy đau khổ trước nỗi bất hạnh vì có quan hệ vụng trộm với một người đàn ông mà đáng lẽ ra phải là nơi nương tựa của mình. - Nếu không cẩn thận anh sẽ béo ra đấy – bà nói. - Đó là cuộc sống sung sướng mà em. – Anh cãi lại bà để lẩn tránh nỗi chán chường của lòng mình. Anh cười rồi nói: Hình như anh có thai. - Để xem – Bà nói – Nếu đàn ông các anh mà đẻ con thì ít bị điều tiếng hơn. ... Mời các bạn đón đọc Giờ Xấu của tác giả Gabriel Garcia Márquez.
Nhà Khổ Hạnh Và Gã Lang Thang - Hermann Hesse
Tập tu ở tu viện Mariabronn, Narcisse nổi bật bởi năng lực trí tuệ và văn hoá của mình. Người ta giao phó cho thầy cậu học sinh Goldmund mà thân sinh cậu ta muốn định phận làm một tu sĩ: để chuộc tội cho cuộc sống xáo động trong quá khứ của thân mẫu cậu. Narcisse kết bạn với chú em thông minh ấy. Thầy cảm nhận khuynh hướng của cậu không phải ở tu viện, và giúp cậu chọn con đường đi. Từ ấy, Goldmund lao vào sống lang thang: trải qua các cuộc phiêu lưu tình ái, cậu tha thiết bắt gặp được tiện mạo lý tưởng của người phụ nữ "Êva vĩnh cửu", gương mặt thần tượng có thể thay cho thân mẫu cậu đã qua đời. Goldmund trải qua mọi nỗi gian truân, phạm nhiều lỗi lầm trong cuộc sống nay đây mai đó. Không phải Goldmund không ý thức về bản ngã, các điều đối lập nhau trong tâm hồn và xúc cảm của mình. Trong một giờ khắc suy tư tỉnh táo và sâu lắng, cậu quyết định trở thành một nhà điêu khắc: nghệ thuật là phương sách để tìm cái đẹp. Tuy vậy, cậu lại ra đi, cuốn hút theo cuộc sống lang thang... Narcisse và Goldmand kết thân với nhau; tư chất, lối sống, số phận của họ khác nhau, nhưng họ có những điểm gặp để hiểu và yêu quý nhau, để bổ sung cho nhau, khi còn trẻ cũng như về sau này. *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** Mùa hạ lướt qua, những loài hoa trổ bông mùa hè cũng tàn rụi dần rồi mất hẳn. Ếch nhái im tiếng trong ao vũng. Cò hạc tung cánh bay xa, và Đan Thanh trở về. Chàng về đến một buổi trưa, mưa bay lất phất, không vào tu viện, từ cổng lớn chàng bước thẳng vào xưởng mỹ nghệ. Chàng đi bộ, không mang theo ngựa. Bảo Ân giựt mình khi thấy chàng bước vào. Dù nhận ra chàng ngay thoáng nhìn đầu tiên, cậu ta vẫn bàng hoàng khi chào đón chàng, người trở về dáng dấp hoàn toàn khác lạ: không phải là Đan Thanh thật, mà già đi nhiều tuổi, mặt mũi bơ phờ, đầy bụi và nhăn nhíu, với đôi má hóp bệnh hoạn, cặp mắt như đau đớn, nhưng chàng không lộ vẻ gì thống khổ, nụ cười vẫn nở trên môi, một nụ cười quen thuộc, già cỗi và kiên nhẫn. Chàng bước đi khó nhọc, hai chân lê lết, có vẻ như nhuốm bệnh và quá mệt mỏi. Một Đan Thanh lột xác khác lạ đang nhìn cậu tập sự với đôi mắt dị thường. Chàng trở về trong âm thầm, như chưa hề rời xa nơi đây giây phút nào và bước vào xưởng như từ phòng bên cạnh. Chàng bắt tay Bảo Ân, không nói gì, không chào hỏi hoặc kể chuyện. Chàng chỉ nói: Tôi muốn ngủ,” dáng điệu thật mệt mỏi. Chàng gọi Bảo Ân đi chỗ khác và vào phòng riêng cạnh xưởng. Chàng cất mũ để nước mưa nhiễu xuống, cởi giày và đến gần giường. Bên trong là tượng Đức Mẹ phủ tấm vải che, chàng gật đầu nhưng không tháo vải che xuống để mừng đón. Chàng tiến đến khung cửa sổ, thấy Bảo Ân bứt rứt đứng chờ bên ngoài, chàng lên tiếng gọi: “Bảo Ân, cậu không cần nói với bất cứ ai là tôi đã về. Tôi mệt lắm. Hãy đợi đến mai!” ... Mời các bạn đón đọc Nhà Khổ Hạnh Và Gã Lang Thang của tác giả Hermann Hesse.