Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Aura

“HÃY ĐỌC THÔNG BÁO ẤY: một loại mời chào mà không phải ngày nào cũng đăng đâu. Hãy đọc đi đọc lại thông báo đó. Nó dường như nhằm vào bạn, chứ không phải bất kỳ ai khác,” cho đến khi bạn, hay chính là nhà sử học trẻ tuổi đang hồi thất nghiệp Felipe Montero, trả lời thông báo và bước chân vào ngôi nhà tăm tối, ẩm ướt và lạnh lẽo đến kỳ bí, nơi góa phụ 105 tuổi Consuelo Llorente sống cùng cô cháu gái mắt xanh Aura. Theo đề nghị của Consuelo, Felipe sẽ ở lại ngôi nhà để viết một cuốn hồi ký về người chồng quá cố nguyên là một tướng quân của bà, đổi lại là một khoản thù lao hậu hĩnh. Chàng trai trẻ bắt tay ngay vào công việc. Nhưng rồi, chàng rơi vào mối tình với Aura xinh đẹp, để rồi từ đó chàng dần dần chứng kiến những sự thật kinh hoàng về thân phận thật chính mình và hai người phụ nữ trong căn nhà ma quái… “Ông là một nhà văn đại tài, và (ngạc nhiên hơn) có phong cách viết rất đặc biệt ở thể loại truyện kinh dị.” – Pseudointellectualreviews *** Đàn ông đi săn và chiến đấu. Đàn bà mưu mô và mơ ước; là mẹ của trí tưởng tượng, của các vị thần. Đàn bà có được tầm nhìn thứ hai, những đôi cánh cho phép bay tới cõi hư vô của ham muốn và trí tưởng tượng… Các vị thần cũng giống như những người đàn ông, được sinh ra và chết đi trên ngực của một người đàn bà… Jules Michelet *** Review sách “Nàng Aura” – Carlos Fuentes Do năm nào cũng thấy Nàng Aura vào trong danh sách đại giảm giá của đợt Xả kho, nên mình muốn viết 1 bài giành lại justice cho tác phẩm này, rằng nó rất hay và độc đáo. Hy vọng trong những đợt dọn kho kế kiếp các bạn sẽ không “dòng người vội vàng lướt qua” em nó… NÀNG AURA VÀ OLALLA – MỐI TƯƠNG QUAN KÌ LẠ Năm 1885, khi đang rà soát lại bản thảo của cuốn sách rồi đây sẽ trở thành kinh điển – Chuyện về bác sỹ Jekyll và ông Hyde – Robert Louis Stevenson đã mơ một giấc mộng, để rồi sau này trở thành hiện thân cho tiểu thuyết ngắn Olalla. 77 năm sau, Carlos Fuentes viết ra một kiệt tác khác – Nàng Aura vào năm 1962 mà không dư hay thiếu chữ nào, để rồi sau đó sẽ bị cấm vì các dụng ý “gợi dục”. Cách nhau gần 80 năm, thế nhưng có thể nói ý tưởng về hai kiệt tác như cuộc “đồng mộng dị sàng” thú vị của hai nhà văn thuộc hai thời đoạn, hai nền văn hóa và hai phong cách hoàn toàn riêng biệt. * Có thể thấy rằng, Mỹ Latin dường như là cái nôi mắn đẻ cho những bối cảnh cần đến phép màu. Nơi đây không cần những người con sinh ra từ đất, mà ngay cả những bên tham chiến trong cuộc chiến tranh Bán đảo giữa khối Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha với Liên hiệp Anh cũng có thể mang trong mình một tàn lửa nhất định, và rất có thể Stevenson là một trong số đó. Không cần Freud giải mã giấc mơ, dường như chính miền đất huyền diệu ấy đã phôi thai và ám hương lên hình dung của Stevenson; để những câu chuyện kì dị, gothic, liêu trai thành hình, dù cho khái niệm gothic không đến từ vùng đất này. Riêng với Carlos Fuentes – gã khổng lồ của văn chương Mexico nói riêng và châu Mỹ Latin nói chung; vùng đất của ông vừa hoang dại nhưng cũng đậm dấu ấn một cách không ngờ. Trong văn chương của Juan Rulfo, người ta nhận ra cái nóng hầm hập ngày càng đi xuống như của một cổ quan tài, nơi không có gió và chỉ có riêng tiếng sỏi lạo xạo. Triển khai từ chính cái lặng im đấy, Fuentes mang gothic vào đô thị, nhưng giờ đây cũng triệt tiêu hoàn toàn dải âm nghe thấy, để đọng lại những tạp âm trắng duy nhất về sự xôn xao của một cõi lòng xáo động. BỐI CẢNH SONG SONG Câu chuyện của Fuentes và Stevenson nhìn chung là có sự tương đồng khá thú vị. Hai nhân vật chính đều là nam giới, và định mệnh run rủi cho họ vào một tình cảnh không thể đoan trước. Trong Nàng Aura, đó là nhà sử học Montero làm việc viết sử cho một góa phụ có chồng đã chết; trong khi Olalla là một chàng lính Anh nghỉ dưỡng sau khi bị quân đội bỏ lại. Cả hai đã hơn một lần khước từ ngẫu nhiên, để nằm sau các cách cấu thành cốt chuyện, đó là trò chơi định mệnh, khi Montero không chỉ thấy một lần mẫu tin rao vặt cần một sử gia thạo tiếng Pháp, còn chàng lính Anh cũng không nguôi được nghỉ dưỡng ở gia tộc nay suy tàn dẫu cho đã được cảnh báo. Bối cảnh cách nhau một thời gian dài, nhưng nhìn chung cả hai nhà văn đều mang được sắc màu của thời đại vào tác phẩm mình. Nếu Stevenson viết trong thời đoạn Chiến tranh Bán đảo, nơi dinh thự có các cầu thang đá lớn, cửa kiểu Moor; thì Fuentes hiện đại hơn, với tòa nhà phong cách Baroque Mexico cùng các tượng thánh, giàn nho phất phơ cũng như mùi rêu ẩm mốc cùng phong cách thuộc địa cũ. Gothic trong phong cách kiến trúc được hai nhà văn khắc họa một cách rõ ràng, dẫu ở đâu thì vùng đất ấy đã mang sẵn trong mình một sự huyền ảo. “Nhân sư” dẫn dắt nhân vật chính đi vào đóng hỗ lốn của mình cũng đặc biệt giống nhau. Nếu chàng Montero luôn được một thiếu phụ áo xanh, thân thể trắng muốt, dong dỏng cao dẫn dắt trong những mê lộ hành lang của căn nhà thiếu ánh sáng vì đô thị xung quanh xây chen; thì trong Olalla, người đảm nhận vai trò này, mà khốn thay, cũng trùng cái tên Filipe như chàng Montero – em trai của Olalla. Filipe được mô tả lúc thì ngây ngô hát những bài đồng dao, nhưng cũng có khi tàn ác như khi vặn cổ chú sóc. Hai dáng hình ấy đưa nhân vật vào một không gian chung của câu chuyện có phần tương đồng, nhưng chính ở đây mọi thứ rẽ khác. HIỆN THỰC – KÌ ẢO Nếu Stevenson mang được chất huyền ảo của Latin vào trong bối cảnh nhưng hầu như câu chuyện là thực; thì Fuentes tiếp nhận và nâng cao chất kì ảo đặc trưng của dải đất quê hương, nơi ông xây dựng Nàng Aura như một hỗn hợp vừa thực mà cũng không thực- vẩn vơ, bảng lảng và mù sương khói. Stevenson vẫn dùng văn chương thuần tuyến tính của phương Tây vào thời điểm đó, ông không cách tân lối viết, tuy có dùng những yếu tố như khởi nguồn đặc trưng sau này của châu Mỹ Latin, như hình tượng cơn gió độc, bà mẹ ủ ê, thú tính vật vờ trong ánh sáng ban ngày. Hoàn toàn ngược lại, Fuentes đóng kín nhân vật của mình trong ngôi nhà số 815 phố Donules, để người đọc thấy được vòng tròn quẩn quanh mà ông tạo ra, như một kiểu mê cung của Borges. Chàng sử gia Montero hết đi đến phòng trên cao rồi lại đến chỗ bàn ăn, từ bàn ăn đi vào phòng ngủ nơi chứa những tập bản thảo cũ mốc… Câu chuyện được tiếp diễn qua vài ba vòng lặp như thế, để cứ mỗi một lần như lát cắt phạm, Fuentes tung ra sự thật từng chút một; từ cô gái trẻ xanh xao không bao giờ dùng bữa, cho đến sự xuất hiện hầu như bất động khi có mặt đồng thời bà góa và cô nàng thanh xuân, cho đến con thỏ và cuối cùng là ba đêm tội lỗi. Tuy Stevenson rất có thể nói là người đặt nền móng cho yếu tố kỳ ảo đậm chất Latin trong tác phẩm của mình; thế nhưng Fuentes mới là người nhân nó lên và biến nó trở thành đặc biệt. Olalla của Stevenson đến sau cùng vẫn tồn tại và có thật, cô không giống Aura của Fuenets, mang nhiều dáng hình cũng như cảm xúc. Fuentes với cách viết nhiều vòng tròn đồng tâm lan ra từ từ, kết hợp với yếu tố gothic – kinh dị, khóa chặt người đọc vào văn bản của mình. Ông là nhà văn thiên về tâm lý, trong khi Stevenson chỉ đơn giản thuật lại, tuy là mới mẻ nhưng không đào bới tận cùng. Với hai cách diễn đạt khác nhau, nhưng bất ngờ thay, sau cuối cả hai đều là những câu chuyện tình đau thương. GIỌT MÁU CHUNG TÌNH Tuy tiếp cận câu chuyện từ hai hướng và hai phong cách viết, thế nhưng ẩn sau tầng tầng lớp lớp yếu tố kì dị, thì tình yêu ngăn cấm là thứ mà hai nhà văn hướng đến. Stevenson không những dùng sớm yếu tố kì ảo, mà còn cho thấy vấn đề muôn thủa của lục địa này, để rồi sau đó chính Marquez sẽ nhân nó lên làm thành tác phẩm huy hoàng nhất của mình – hôn phối cận huyết. Chính yếu tố sáng rõ này là thứ phân đôi tình yêu của Olalla và chàng lính trận, để kết thúc dòng máu suy vong, để ấn định cái kết của một gia tộc. Có lẽ nào chính ngọn gió độc, tiếng thét điên cuồng của bà mẹ điên trong đêm đen thẫm hay cơn khát máu bập vào thịt sống; là những dấu chỉ rõ nhất cho thứ bệnh điên cần được loại bỏ? Hơn một lần Olalla cầu xin chàng ta rời khỏi nơi đó, để cuối cùng trên ngọn đồi cắm phập thánh giá, một lần nữa họ gặp lại nhau để Stevenson “thánh hóa” sự hy sinh của tình yêu không được đền đáp. Lần gặp thứ hai như xác tín cho đức tin, sự minh triết cũng như những gì họ đã bỏ qua. Cũng thư thế, Fuentes mất đến ba đêm để chắc chắn thứ trước mắt chàng Montero không là ảo ảnh. Từ hành động lột da dê song song ở hai người đàn bà, một ở bếp và một ở phòng ngủ, Montero bắt đầu có những nghi ngại đầu tiên. Thế nhưng bởi dục vọng chìm đắm trong sắc đẹp của Aura, chàng đã ở lại với đôi mắt thỏ và những linh hồn lẩn khuất trong đêm. Đêm đầu tiên, chàng cảm thấy da thịt của một cô gái trẻ, đúng là Aura với chiếc váy xanh mà chàng thèm muốn. Thế nhưng đến đêm thứ hai, đó đã là da thịt trưởng thành, cứng lại, rắn đanh, mang dấu ấn thời gian của người đàn bà trung niên với tình yêu dường như đã đi qua một nữa đời mình. Đêm thứ ba, đêm cuối cùng; da thịt mơn man đã về lại với nhăn nheo ở quãng đời cuối, của sự co lại, gập gềnh núi đá lởm chởm, đó cũng là khi Montero biết mình dấn thân vào câu chuyện gì. Cả Fuentes và Stevenson không kết thúc một cách rõ ràng câu chuyện của mình. Montero bừng tỉnh trong đêm thứ ba và câu thoại (hay là tuân mệnh?) đi tìm Aura thanh xuân; trong khi anh lính trẻ không ngừng quay lại để thấy Olalla đứng mãi bên cây Thánh giá. Nàng đã hóa thánh, được gột rửa sạch và nhận hết mọi tội lỗi của dòng tộc suy vong; trong khi giờ đây Montero như bị thôi miên trong những vòng màu đan cài, giữa thời khắc của cổng thời gian kéo dài ba ngày, có thể mãi mãi hay không bao giờ đóng, liệu còn gắn bó hay sẽ chia phôi với Nàng Aura, ai biết. Nhưng dẫu sao đó là chuyện tình đau thương và đầy muộn phiền của sự đứt gánh. * Là mối tương giao kì lạ của hai nhà văn ở hai thời kì, Nàng Aura và Olalla mang trong mình sự tương đồng ở nhiều yếu tố trong cốt truyện, thế nhưng bằng phong cách viết cũng như triển khai cốt truyện khác nhau, phản ảnh 1:1 giữa hai tác phẩm cho ta góc nhìn thú vị về câu chuyện tình yêu vừa đẹp đẽ nhưng cũng đau đớn. Stevenson dưới cách thể hiện khác lạ nhiều yếu tố Latin mang đến Olalla lạ lẫm và đầy say mê; trong khi Fuenetes quán triệt đặc trưng của lãnh địa mình, hình thành một vòng thời gian khác lạ và đầy thôi miên. Một sự tương đồng độc đáo. Review của độc giả Ngô Minh – Nhã Nam reading club *** “NÀNG AURA” (Carlos Fuentes) – Nhân duyên tiền định hay dục vọng vô biên? Ra mắt năm 1962,*** Nàng Aura*** ***(Aura) ***là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của tác giả Carlos Fuentes, cũng là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của nền văn học Mỹ Latin đương đại. Vinh dự được trao giải thưởng cao quý Miguel de Cervantes Saavedra, tác phẩm đã đưa Fuentes trở thành một trong những tượng đài lớn của văn học Mỹ Latin bên cạnh Gabriel Garcia Marquez, Mario Vargas Llosa, … Câu chuyện của Nàng Aura bắt đầu từ đoạn tình cảm lỡ dở, gập ghềnh và trắc trở kéo dài 27 năm đằng đẵng giữa Giorente và Consuelo. Khi còn trẻ, họ đã đến với nhau bởi tiếng sét ái tình và trở thành đôi vợ chồng đầu ấp tay gối đến tận lúc đầu bạc răng long. Tưởng rằng cái c.h.ế.t sẽ là dấu chấm hết cho mối tình đẹp đẽ, nhưng Consuelo lại không nghĩ như vậy. Consuelo sở hữu một pháp lực trời ban, cùng niềm khao khát thanh xuân vĩnh cửu, bà đã nhập thân vào hình hài cô gái đôi mươi Aura để sống một cuộc đời trẻ mãi không già. Nhưng cũng bởi vậy, bà cũng phải chứng kiến sự già đi rồi chết dần của Giorente, người mình yêu thương nhất. Cứ vậy, suốt 27 năm về sau, Consuelo, trong thân phận “nàng Aura”, vẫn sống một kiếp đời bất tử trong nỗi nhớ nhung da diết giày vò từng ngày từng đêm. Để rồi khi một chàng trai trẻ tên Felipe xuất hiện, ngọn lửa tình yêu cuồng nhiệt lại nhen nhóm trong Consuelo một lần nữa. Bởi Consuelo biết, anh chính là chuyển thế của Giorente, được định mệnh sắp đặt để tái ngộ với bà. Cách Felipe đến với “nàng Aura” hệt như Giorente thuở nào, từ ánh mắt si tình chỉ trong lần đầu gặp gỡ “nàng Aura”, đến cái cách anh nâng niu từng trang sách lịch sử, những trang hồi ký của người chồng quá cố. Tiếc rằng, chỉ có khuôn mặt kia, đã không còn là Giorente bà từng biết nữa. Nhưng với ma pháp cao cường của Consuelo, bà rắp tâm biến mọi thứ không thể phải thành CÓ THỂ. Một âm mưu kinh hoàng dần được bày ra, với hàng loạt những ám thị nối đuôi nhau. Những bí mật khuất lấp dần được hé lộ, về người đàn bà Consuelo, và về ngôi nhà cổ quái của bà ta. Một bí mật về tuổi xuân vĩnh cửu, về dục vọng ẩn sâu. Và đó cũng là câu chuyện tình vượt thời gian, vượt qua cả cái c.h.ế.t, bất chấp mọi giới hạn mà con người có thể tưởng tượng ra. Bằng một câu chuyện giản đơn chỉ vỏn vẹn chưa đầy trăm trang giấy, Carlos Fuentes đã dẫn độc giả bước vào không gian Mỹ Latin cổ xưa đậm chất Gothic ma mị nhưng không kém phần quyến rũ. Lồng ghép trong một câu chuyện tình vượt thời gian, cốt truyện cũng sử dụng những nút thắt mở tài tình, khiến cho độc giả phải xoay mòng mòng trong những giác cảm mơ hồ giữa thực và mơ, giữa quá khứ và hiện tại. **Nàng Aura **bắt đầu bằng một không gian Mỹ Latin đầy hoài niệm: đó là khung cảnh những dinh thự cổ có kiến trúc kiểu Baroque Mexico từ thời thuộc địa, với những bức tượng thánh cổ quái cùng những hành lang tróc sơn cũ kĩ. Ở nơi đó cũng thấp thoáng những dấu hiệu chuyển giao thời đại, với những khu dân cư hỗn tạp đủ mọi mọi ngành nghề dần chiếm chỗ khu dinh thự, với nhịp sống hối hả và bộn bề tấp nập đang từng bước thay thế đời sống cũ. Những đoạn văn gợi tả đó, dù chỉ ngắn gọn trong vài trang đầu, nhưng đủ để làm nền cho cảnh trơ trọi lẻ loi của ngôi nhà cổ quái của Consuelo giữa trung tâm khu phố xưa, làm bật lên vẻ ma mị đáng sợ cổ quái với những ai ghé thăm nơi đây lần đầu tiên. Motif kinh dị lãng mạn của** Nàng Aura** có thể nói là không quá mới mẻ, nhưng chất liệu Mỹ Latin lại là nhân tố đáng chú ý khiến mình phải lưu tâm tới. Không gian trong Nàng Aura được bao trùm bởi màu sắc hiện thực huyền ảo hiển hiện trong nhiều chi tiết, từ sự già đi bất thường của “nàng Aura” đến màn hóa thân gây choáng váng của nàng. Nó còn ẩn hiện trong những hành tung kì quái và sự xuất hiện đồng thời của cả hai người phụ nữ là Consuelo và “nàng Aura”, đến những ảo giác ma quỷ thoắt ẩn thoắt hiện trong tiềm thức Felipe mỗi đêm. Không chỉ vậy, Carlos Fuentes cũng thể hiện xuất sắc trong việc khắc họa bầu không khí Gothic vừa quỷ dị vừa huyền ảo trong căn nhà của Consuelo. Ngôi nhà bị bao trùm bởi bóng tối dày đặc, chìm nghỉm lúc nhúc giữa các tòa nhà hiện đại đan xen nhau, tựa như hình ảnh người chủ nhân phải chịu cảnh cô đơn hiu quạnh suốt năm tháng. Trong cái không gian chật hẹp đó, những tiếng mèo kêu nhức óc, lũ chuột và con thỏ mắt đỏ được thêm thắt vào như là những yếu tố gợi mở đầy ẩn ý. Trong căn phòng được bày ngổn ngang các dụng cụ thờ cúng, nhưng thực ra lại để dành cho một nghi thức tà đạo ma quái. Chỉ có ánh nến lờ mờ dường như là nguồn sáng duy nhất hiện diện giữa bóng tối u minh. Nhưng đâu ai biết, những lúc chập chờn, lúc chạng vạng có hay mới là lúc ma quỷ hiện diện rõ ràng nhất. Sự khắc họa những góc tối sâu thẳm trong nhân tâm của truyện cũng khiến mình băn khoăn rất nhiều, trước khi nút thắt cuối cùng được bật mở. Đó là một Consuelo bị ám ảnh bởi cái c.h.ế.t và tuổi xuân vĩnh hằng. Đó là Giorente – kẻ mà dù ở kiếp nào, dù mang hình hài Llorente hay Fellipe, đều tỏ rõ là hạng người dễ bị cám dỗ bởi dục vọng và dường như không có khả năng kháng cự lại nó. Nực cười là, Giorente đã từng chê trách rằng Consuelo “đã từ thiên thần hóa quỷ dữ”, rằng bà đã quá tham lam khi cố níu kéo thanh xuân, nhưng chẳng phải chính bản thân ông ta, ở cả hai kiếp sống, cũng không thể cưỡng lại sự ham muốn với vẻ đẹp của “ác quỷ” đó sao? Chẳng phải chính ông cũng giấu trong lòng cơn thèm khát không thể tả bằng lời với nét thanh xuân rạng rỡ của “nàng Aura” sao? Tuy vậy, khi gấp lại cuốn sách, mình hoàn toàn không cảm thấy đáng sợ hay căm ghét họ, bởi xét cho cùng, dục vọng của họ chỉ là đại diện cho ước mơ muôn thuở của con người. Khi còn trẻ, chúng ta giống Felipe, khao khát yêu đương, khao khát sống hết mình vì tuổi trẻ. Còn khi về già, chúng ta trở thành Giorente và Consuelo, lại hoài niệm về thanh xuân, hoài niệm đến ăn mày dĩ vãng, dẫu cho đó là điều bất khả không bao giờ trở thành hiện thực được, chỉ trừ trong** Nàng Aura.** Review của độc giả Kiên Trần – Nhã Nam reading club Mời các bạn mượn đọc sách Nàng Aura của tác giả Carlos Fuentes & Phạm Triệu Lập (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dám Hạnh Phúc
Triết gia Ai cũng có thể hạnh phúc ngay từ giây phút này. Chỉ có điều, chúng ta không thể hưởng thụ hạnh phúc nếu chỉ đứng yên tại chỗ. Cần phải tiếp tục tiến bước trên con đường mình đã đặt chân lên. Cậu đã tiến một bước đầu tiên. Đã tiến một bước dài. Tuy nhiên, cậu đang nhụt chí, định thoái lui chứ không chỉ dừng lại. Cậu có biết tại sao không?  Chàng thanh niên Thầy bảo tôi không có khả năng chịu đựng?  Triết gia Không hề. Cậu chỉ chưa đưa ra được “lựa chọn lớn nhất của cuộc đời” thôi.  Chàng thanh niên Lựa chọn lớn nhất của cuộc đời? Thầy bảo tôi lựa chọn gì cơ?  Triết gia Tôi nói vừa nãy rồi đấy. Là “tình yêu”.  Chàng thanh niên Trời, một từ đó thì làm sao mà tôi hiểu được! Đừng nói một cách trừu tượng để tránh né nữa!!  Triết gia Tôi nghiêm túc mà. Những vướng mắc trong lòng cậu bây giờ đều được gói gọn trong một từ “tình yêu”. *** Vậy là bản dịch tiếng Việt cuối cùng cũng được xuất bản! “Dám Hạnh Phúc”. Đây là phần tiếp theo của cuốn sách bán chạy mà có thể mọi người đã từng nghe đến: “Dám Bị Ghét”. Đợt ở bên Nhật mình đã có cơ hội được cầm trên tay cả 2 cuốn bằng tiếng Nhật nhưng chỉ đọc kĩ cuốn phần 1. Được cầm trên tay bản dịch tiếng Việt phần 2, mình đã dành 2 ngày để đọc nó, và công nhận là cuốn sách rất hay nhưng vẫn có nhiều chỗ khó hiểu, hoặc do não mình chậm. Cuốn sách Dám Bị Ghét    Nói một chút về cuốn sách này. Cuốn sách này giới thiệu với người đọc về tâm lý học Adler thông qua cuộc trò chuyện giữa một chàng thanh niên và triết gia. Các bạn có thể search google “review sách Dám bị ghét” và có rất rất nhiều trang web cũng như blog đánh giá và tóm tắt cuốn sách này.    Cá nhân mình thấy cuốn này rất hay bởi mình không hề biết một tí gì về tâm lý học cũng như tư tưởng Adler. Có những quan điểm mà lần đầu đọc khiến mình chỉ muốn thốt lên “WTF?!”, ví dụ như “sang chấn tâm lý không hề tồn tại”. Bên cạnh đó, cũng có những quan điểm mà mình đồng tình ngay khi đọc được nó, ví dụ như “hạnh phúc chính là cảm giác cống hiến”, hay “sống hết mình ngay tại đây, vào lúc này”. Nhìn chung, cuốn sách dẫn tới một kết luận là: nếu muốn sống hạnh phúc thì phải biết chấp nhận việc bị ghét. Nếu ai chưa đọc cuốn này thì mình super recommend. Hay cơ mà hơi hack não, đến mình bây giờ vẫn chưa thể hiểu được hết nữa là. Review sách Dám Hạnh Phúc    “Dám Hạnh Phúc” là phần tiếp theo của cuốn “Dám Bị Ghét”. Chàng thang niên đã được thầy triết gia “thông não” tư tưởng Adler, nhưng 3 năm sau anh chàng quay lại gặp ông thầy và than phiền rằng những quan điểm này không hề thực tế và gần như không thể áp dụng được. Và thế là 2 người lại có một đêm không ngủ để ngồi tranh luận với nhau về tư tưởng Adler.    Chàng thanh niên than phiền về việc anh đã áp dụng tư tưởng Adler khi dạy học ở trường, ví dụ như “không được khen ngợi cũng không được mắng mỏ”, và kết quả là lớp học trở nên náo loạn hơn. Và anh cho rằng, tư tưởng của Adler chỉ là lý thuyết suông trên giấy, không giúp ích gì trong xã hội hiện đại.    Triết gia lắng nghe chàng thanh niên, đồng thời giải thích cụ thể hơn về những hiểu nhầm về tư tưởng Adler. Mời các bạn đón đọc Dám Hạnh Phúc của tác giả Koga Fumitake & Kishimi Ichiro.
Thiên Đường Tiền Xu Tập 2
Thiên đường Tiền xu vẫn vậy, luôn làm vui lòng khách đến , vừa lòng khách đi. Ngặt một nỗi đám bánh kẹo ở tiệm lạ làng quá, khiến họ mê mẩn hết rồi. Đến nỗi lần nào Beniko cũng phải cẩn thận dặn dò khách về những tai ương có thể ập đến nếu lỡ ăn bánh kẹo không đúng cách, vậy mà người thì quên béng, người thì nghe rồi bỏ đấy. Để rồi cuối cùng có thể bị cuốn vào một thế giới xa lạ... *** Hiroshima Reiko, sinh tại tỉnh Kanagawa, Nhật Bản và là một tác giả sách thiếu nhi lừng danh. Năm 2005, bà đoạt giải Juniorboukenshousetsu với tác phẩm Suiyou no mori. Bà cũng là tác giả của vô số các tác phẩm văn học thiếu nhi, kỳ ảo nổi tiếng khác. jyajya, sinh tại Fukuoka, từng làm nhân viên cho một công ty phát triển các ứng dụng trên điện thoại. Năm 2011, jyajya bắt đầu ra làm thiết kế tự do và hiện đã lấn sân sang cả lĩnh vực vẽ minh họa. *** Bánh cuộn siêu trộm Hidemoto vừa thở hổn hển vừa chạy vào một con hẻm tối. Hắn có cảm giác dù mình có chạy thế nào, chạy kiểu gì những kẻ phía sau vẫn sẽ đuổi kịp. Khỉ thật. Là đám cảnh sát đây mà. Cảnh sát gì mà lại đi rình bắt cả trộm vặt như mình chứ. Đúng là lũ rỗi hơi. Muốn bắt thì bắt bọn trộm tài sản kia kìa. Hidemoto bất giác chửi thầm trong bụng. Đúng vậy, Hidemoto là một tên trộm. Hơn thế nữa còn là một tên trộm vặt vãnh tầm thường. Hắn chẳng những vụng về mà còn nhát gan. Hắn chỉ dám đột nhập khi chủ nhà đi vắng hoặc lấy cắp đồ ở cửa hàng tiện lợi, ấy vậy mà toàn hỏng việc. Lần này cũng thế. Đói quá nên hắn định sẽ trộm cơm nắm ở cửa hàng tiện lợi, ai ngờ đúng lúc đó mấy người đàn ông rần rần từ đâu kéo tới. Thôi chết rồi! Cũng may hắn vẫn còn có trực giác của một tên trộm, nhận ra đám người đó chính là cảnh sát mặc thường phục, Hidemoto lập thức tháo chạy. Hắn lao ngay vào con hẻm bên cạnh, rồi chỉ biết phó mặc cho đôi chân chạy bán sống bán chết. Hắn còn chẳng rõ mình đang chạy đi đâu, chỉ biết phải chạy cho thật nhanh. Chạy được một lúc cuối cùng hắn cũng phải dừng lại vì không còn chút sức lực nào nữa. Hắn dỏng tai nghe ngóng nhưng không thấy động tĩnh gì. Xem ra thoát rồi. Trời tối đen như mực làm hắn lao phải con hẻm này nhưng hóa ra lại hay. Hidemoto thở dốc, ngồi thụp xuống nền đất bẩn thỉu. Đầu gối hắn vẫn run bần bật, hơi thở vẫn gấp gáp. Nói gì thì nói hắn đã bốn mươi sáu tuổi rồi. Hồi mười mấy, hai mươi chạy trốn kiểu này có thấm gì với hắn, nhưng giờ ở tuổi này âu cũng lực bất tòng tâm. Lần tới có khi hắn sẽ chạy không nổi, cứ ngồi đấy chờ bị tóm cũng nên. Cảm giác sợ hãi đó vẫn dai dẳng đeo bám tâm trí Hidemoto. Hắn muốn được thanh thản. Hắn muốn được giải thoát khỏi nỗi sợ khủng khiếp này. Đúng lúc thâm tâm hắn đang vang lên những suy nghĩ đó, Hidemoto chợt có linh cảm, hắn quay người lại. Ở ngay phía sau, sâu tận cùng con hẻm có một cửa hàng nhỏ. Cửa hàng trông có vẻ lâu đời với biển hiệu khang trang đề tên “Thiên đường tiền xu”. Gần nửa đêm rồi mà chừng như ở đây vẫn đang mở cửa. Tò mò không biết đó là cửa hàng gì, Hidemoto căng mắt ra nhìn. Thế rồi hắn ngạc nhiên khi thấy trong quầy bày vô số các loại bánh kẹo đủ sắc màu. Ra là một tiệm bánh kẹo à. Hồi nhỏ hắn cũng hay đến tiệm bánh kẹo lắm. Nhắc mới nhớ, lần đầu tiên hắn ăn trộm cũng là ở tiệm bánh kẹo. Hắn đã qua mắt được bà chủ tiệm, lén lút nhét một cục thạch màu đỏ vào túi, sau đó bước ra khỏi cửa trong khi trống ngực vẫn đập thình thịch. Kể từ đó, hắn bắt đầu rời xa con đường đúng đắn, sa chân vào trộm cắp. Hidemoto vừa hồi tưởng lại cảm giác hối hận pha chút hoài niệm, vừa tiến đến gần tiệm bánh kẹo như thể bị lôi cuốn bởi một sức hút lạ kỳ nào đó. Cảnh sát có thể đuổi kịp hắn bất cứ lúc nào. Hắn phải rời khỏi đây ngay lập tức. Bụng nghĩ vậy, nhưng đám bánh kẹo trong tiệm cứ níu chặt lấy trái tim hắn không rời. Bánh giầy mến mộ, Nước chanh giả bệnh, Hạnh nhân hải tặc, Kẹo thời tiết, Bánh xèo lộn xộn, Soda Tengu[1], Pinocchio Pick[2], Bánh đậu đỏ nửa đêm. Toàn những loại bánh kẹo hắn chưa thấy bao giờ, Hidemoto bỗng vui mừng khôn xiết. Hắn say sưa ngắm nghía hết loại này đến loại khác, cùng lúc đó một cái bóng to lớn chậm rãi trượt đến từ bóng tối sâu bên trong cửa tiệm. Hidemoto sửng sốt, cái bóng giờ đã biến thành một người phụ nữ cao to đứng trước mặt hắn. Người này có tạng người to con, cao hơn Hidemoto cả hai cái đầu. Chị ta mặc bộ kimono màu đỏ tím, mái tóc được tô điểm bởi vô số những trâm cài đầu. Mặt chị ta trông vẫn còn trẻ, thế nhưng tóc lại bạc trắng hết cả. Đôi môi tô son đỏ chót nở một nụ cười bí hiểm đầy ẩn ý. Người này không xoàng đâu. Hidemoto bắt đầu run lên, nhưng hắn không thể chạy trốn nổi. Toàn thân hắn không tài nào cử động, như thể nó đã bị khâu lại với cái bóng của chính mình vậy. Thế rồi, người phụ nữ lịch sự cúi đầu. “Chào mừng quý khách đến với Thiên đường tiền xu bán hàng cả ban đêm của chúng tôi. Mời quý khách cứ từ từ xem hàng.” “À, chẳng là, tôi...” “Tiệm bánh kẹo Thiên đường tiền xu của chúng tôi có thể biến điều ước của những khách hàng may mắn thành hiện thực. Chắc chắn quý khách sẽ tìm thấy món đồ mình đang cần. Nếu quý khách ngại tìm, ta sẽ tìm giúp. Nào, xin đừng khách sáo, hãy cho ta biết quý khách muốn gì.” Dứt lời, bà chủ tiệm lập tức tiến lại gần Hidemoto. Bị áp đảo bởi khí thế ấy, Hidemoto buột miệng nói ra suy nghĩ thật của mình. “Tôi muốn trở thành một tên trộm tài giỏi, một siêu trộm huyền thoại, xuất sắc hơn người, và không bao giờ bị tóm.” Nói xong, Hidemoto biết mình đã lỡ miệng. Nói vậy khác nào hắn vừa tự thú mình chính là một tên trộm. Hidemoto định chống chế rằng đó chỉ là lời nói đùa. Thế nhưng, mới đó mà bà chủ tiệm đã gật đầu mất rồi. “Nếu vậy, có một món lý tưởng cho quý khách đây. Xin quý khách đợi một lát nhé.” Nói rồi bà chủ tiệm lấy thứ gì đó từ giá đựng đồ tận trong cùng ra. Đó là một chiếc bánh mì ngọt. Mặt trên của bánh phủ lớp đường trắng trông như bánh mì chiên hoặc bánh rán vòng, nhưng hình dáng lại khác. Chiếc bánh này có hình giống cặp ria mép. Trên chiếc túi ni lông trong suốt bọc ngoài ghi dòng chữ “Bánh cuộn siêu trộm”. Trái tim Hidemoto đập rộn ràng trong lồng ngực. Chiếc bánh này là của mình! Định mệnh bảo nó phải là của mình! Trong đời hắn chưa bao giờ khao khát thứ gì đến vậy. Hắn thấy trân quý và coi trọng món bánh mì ngọt nhỏ bé này còn hơn cả vàng bạc lẫn đá quý. Bà chủ tiệm khẽ thì thầm những lời đường mật vào tai Hidemoto lúc này còn đang dán mắt vào món bánh đầy thèm thuồng. “Đây là Bánh cuộn siêu trộm. Tôi nghĩ nó chính là thứ quý khách đang tìm. Quý khách thấy sao? Chiếc bánh này có một trăm yên thôi?” Hidemoto vội vàng thọc tay vào túi tìm tiền lẻ. Không hiểu sao hắn không hề có ý định lấy cắp chiếc bánh. Đúng hơn là ý nghĩ trộm cắp thậm chí chưa từng xuất hiện trong đầu hắn. Bà chủ tiệm tươi cười nhận đồng một trăm yên từ Hidemoto. “Ồ. Quả nhiên. Đúng là đồng một trăm yên của năm Chiêu Hòa thứ năm mươi sáu rồi. Xin mời, bánh của quý khách đây.” Hidemoto giật lấy chiếc Bánh cuộn siêu trộm bà chủ tiệm đưa cho. Mình đã có nó! Mình đã có nó! Mình đã có nó rồi! Hidemoto vui mừng khôn tả, đầu óc hắn lâng lâng như thể vừa trúng vé số một trăm triệu yên. Đúng lúc đó, bà chủ tiệm lại thủ thỉ vào tai Hidemoto những lời vô cùng kỳ lạ. “Quý khách nên tiết chế vừa phải thôi. Trên đời này có những người còn may mắn hơn quý khách nhiều. Nếu quý khách quên mất điều đó thì...” Nhưng Hidemoto chẳng mảy may bận tâm tới lời cảnh báo đó. Mua được Bánh cuộn siêu trộm rồi, hắn cũng chẳng còn việc gì ở đây nữa. Hắn muốn được ở một mình nên lao như bay ra khỏi cửa hàng. Loáng một cái, Hidemoto đã đứng bên ngoài con hẻm khuất, tối tăm và yên tĩnh. Sau khi chắc chắn xung quanh không có người, Hidemoto mới nhìn ngắm chiếc bánh cuộn thật lung. Càng nhìn chiếc bánh, hắn càng bị lôi cuốn. Trên túi đựng có ghi những dòng chữ thế này: Ưu điểm của chiếc bánh này là việc có thể hành động ẩn danh dưới lớp cải trang tùy chọn. Nếu bạn khao khát được như siêu trộm Lupin tài hoa, người đã thực hiện thành công những phi vụ táo tợn và ngoạn mục mà không ai hay biết thì chiếc bánh cuộn siêu trộm này chính là dành cho bạn. Sau khi ăn bánh, ngay lập tức bạn sẽ sở hữu “năng lực trộm cắp”. Sẽ không người nào nhớ được khuôn mặt bạn và cũng sẽ chẳng ai phát hiện ra bạn được. Nào, cùng bước vào thế giới trộm cắp đẳng cấp thôi! Bước thì bước! Hidemoto xé túi ni lông, lấy chiếc bánh bên trong ra. Ở bên ngoài, Bánh cuộn siêu trộm lại càng hấp dẫn hơn. Lớp đường phủ trên mặt bánh sáng lấp lánh như những viên kim cương nhỏ xinh. Hidemoto cắn phập một miếng. Bánh ngon tuyệt vời. Vỏ ngoài giòn rụm, bên trong xốp mềm như bánh kếp. Lại thêm vị ngọt của lớp đường bọc ngoài không thể cưỡng lại được. Đang đói nên Hidemoto chỉ cắn bốn miếng đã hết bay chiếc bánh. Vừa ăn xong, hắn liền cảm thấy có gì đó rất khác thường. Dường như mọi thứ trên đời chẳng còn gì đáng sợ hết. Hidemoto đứng dậy, thong thả bước ra khỏi con hẻm. Hắn vừa ra tới mặt phố sáng đèn thì chạm trán ngay mấy người đàn ông. Hắn nhớ mặt một người trong số đó. Chính là một trong những tay cảnh sát mặc thường phục đuổi theo hắn ban nãy. Bình thường hắn đã giật nẩy mình lên, bấn loạn rẽ vào một con ngõ nào đó rồi. Hoặc hắn sẽ đột ngột quay gót, bỏ chạy thục mạng. Nhưng hẳn là nhờ ăn Bánh cuộn siêu trộm nên Hidemoto mới bình tĩnh thế này. Hắn tiến thẳng tới trước mặt đám người nọ. Khuôn mặt mấy người đàn ông mỗi lúc một gần hơn. Khi ánh mắt hai bên giao nhau, hắn mới chột dạ “Kiểu này có khi toi rồi”. Thế nhưng đám cảnh sát nhanh chóng nhìn về hướng khác, đi lướt qua hắn. Hidemoto nở nụ cười thỏa mãn. Bánh cuộn siêu trộm có năng lực thật rồi. Bọn chúng không nhớ mặt mình. Giờ mình đã có năng lực cải trang của Lupin. Hay quá! Từ giờ không còn phải canh cánh nỗi lo bị bắt nữa. Mình thích trộm gì thì trộm ấy thôi! Hidemoto nhảy cẫng lên vui sướng, chạy biến vào màn đêm. Thế rồi từ đó Hidemoto cứ trộm rồi lại trộm. Hắn không thèm đột nhập vào nhà trống hay trộm vặt vớ vẩn nữa. Giữa ban ngày ban mặt hắn đường đường chính chính bước vào những cửa hàng đá quý lớn, ních đầy đá quý vào túi ngay trước mặt nhân viên cửa hàng rồi lại thản nhiên đi ra. Vậy mà chẳng ai nhận ra hành vi phạm tội của hắn cả. Giả như ai đó có nhận ra đồ đạc của mình bị mất và đuổi theo hắn đi chăng nữa, họ cũng sẽ chẳng nhớ ra khuôn mặt hắn và cuối cùng đành bỏ cuộc thôi. Dĩ nhiên hành tung của tên trộm bí ẩn đã trở thành đề tài gây xôn xao dư luận. Hidemoto còn hân hoan phấn khích vì mỗi ngày hắn đều được báo đài nhắc tới. Mọi người đều đang đổ dồn sự chú ý vào mình. Mình cũng ra trò đấy chứ. Được rồi. Đã vậy mình sẽ học siêu trộm Lupin, gửi thư thách đấu xem sao. Gửi thư rồi mà vẫn trộm được đồ ngon lành cành đào, tên tuổi của mình lại chẳng càng nổi như cồn ấy à. Nghĩ là làm, Hidemoto gửi thư thách đấu tới đồn cảnh sát dưới danh nghĩa “siêu trộm Lupin”. “Vào ngày... tháng...,... giờ... phút, chiếc vương miện của của hàng đá quý ... sẽ thuộc về ta. Các người muốn ngăn cản ta thì cứ thử xem. Siêu trộm Lupin.” Thế rồi giữa vòng vây bảo vệ nghiêm ngặt của cảnh sát, hắn vẫn dễ dàng lấy được thứ mình muốn. Thật thú vị làm sao. Hắn tận hưởng sự hưng phấn và ly kỳ mỗi khi qua mặt được cảnh sát. Rồi cả cảm giác chẳng ai bằng mình, lẫn sự khoái trá khi báo đài công kích đám cảnh sát thiếu năng lực. Dù đây là điều hắn không tài nào hiểu nổi. Hidemoto càng ngày càng không thể dừng lại. Ham muốn sở hữu những món đồ dần biến mất, thay vào đó hắn chỉ còn cảm giác thích trộm cắp. Chuyện xảy ra sau khi hắn trở thành siêu trộm Lupin khoảng một tháng rưỡi. Hidemoto hay tin Nhật Bản mới mượn được một chiếc vương miện tuyệt phẩm từ nước ngoài. Chiếc vương miện vốn thuộc về hoàng tộc Nga, trên đó khảm những viên ngọc lục bảo và ngọc trai cỡ lớn, lộng lẫy đến sững sờ. Hidemoto liếm môi thán phục vẻ đẹp của chiếc vương miện. Đây chẳng phải là món đồ rất xứng đáng với tên tuổi của “siêu trộm Lupin” hay sao? Ồ. Ra nó đang được trưng bày tại bảo tàng à. Thế này là mỡ dâng tới miệng mèo rồi chứ gì nữa. Như thường lệ, Hidemoto gửi thư thách đấu cho cảnh sát và báo đài trước rồi mới tới bảo tàng. Biết tin siêu trộm Lupin đang nhắm tới chiếc vương miện, cảnh sát đã cho tăng cường bảo vệ rất nghiêm ngặt. Họ lại làm việc chu đáo thế này thật cảm kích quá, Hidemoto cười thầm trong bụng. Tuy nhiên, xin chia buồn. Nỗ lực của các vị cũng đành vô dụng trước năng lực của Bánh cuộn siêu trộm mà Hidemoto này sở hữu thôi. Hidemoto vừa cười khẩy vừa len lỏi qua các cảnh vệ, thoắt cái đã đứng trước chiếc vương miện. Chiếc vương miện tỏa sáng lấp lánh bên trong một hộp kính đặc biệt. Nó lộng lẫy gấp bội lần những hình ảnh trên tivi và tạp chí. Mình sẽ bổ sung nó vào bộ sưu tập chứ không bán. Thi thoảng lấy ra đội cho giống vua chúa, nghe cũng được đấy chứ. Hidemoto nghĩ bụng, thế rồi hắn chạm tay vào hộp kính. Tức thì, khóa hộp bật mở đánh tách. Hidemoto nhàn nhã lấy chiếc vương miện từ trong hộp ra, cho vào túi. Xung quanh rất đông người nhưng không ai tri hô lên cả. Bởi vì họ đâu có nhìn thấy việc Hidemoto làm. Chắc phải một phút sau khi Hidemoto cao chạy xa bay họ mới nhận ra được. Hidemoto vừa cười đắc thắng vừa lướt qua đoàn người, đi về phía lối ra. Đột nhiên có tiếng lách cách, thế rồi cổ tay hắn truyền đến một cảm giác lạ thường. Đồng thời, một giọng nói vang lên sang sảng. “Siêu trộm Lupin! Anh bị bắt vì đã thực hiện hành vi trộm cắp!” Hidemoto sửng sốt ngoảnh lại. Đó là một người đàn ông trung niên lực lưỡng. Đôi mắt sắc sảo của người này đang nhìn Hidemoto chằm chằm. Theo phản xạ, Hidemoto định chạy trốn, nhưng hắn không thể. Tay hắn đã nằm gọn trong còng số tám. Tại sao! Tại sao hắn ta lại biết? Tại sao mình lại bị tóm cơ chứ! Lòng hắn rối như tơ vò tới nỗi cơ thể kiệt quệ sức lực. Giữa lúc đó, tiếng bàn tán xôn xao mỗi lúc một lớn. “Chiếc vương miện biến mất rồi!” “Này, nghe nói Lupin bị bắt rồi...” “Nhìn kìa, có phải đằng kia không? Có phải hắn không?” “Gì chứ. Chỉ là một ông chú thôi mà. Có đúng là Lupin không vậy?” Một nhóm cảnh sát đẩy những người xung quanh sang một bên, rầm rập ập tới. “Thanh tra Mikawa!” “Tôi đây. Như các cậu thấy, tên này là Lupin. Không phải nói nhiều, bằng chứng đây.” Người đàn ông được gọi là thanh tra Mikawa kia giật lấy túi của Hidemoto, lấy chiếc vương miện ra. Xung quanh trở nên náo loạn, những lời bàn tán xì xào mỗi lúc một lớn hơn. “Người đó là thanh tra trong truyền thuyết đấy.” “Tôi cũng biết ông ấy. Ông Mikawa này chính là người đã bắt được thủ phạm cướp ngân hàng Tokugawa.” “Cả vụ bắt cóc ở Kyoto nữa. Tôi vẫn nhớ vụ đó.” “Lần này lại bắt được Lupin nữa... Cảnh sát đúng là cừ quá.” Mọi người đổ dồn sự chú ý về phía thanh tra Mikawa. Chẳng ai buồn để ý tới tên siêu trộm Lupin, tức Hidemoto đang thất thểu kia. Điều này càng khiến Hidemoto thêm phần suy sụp. Hidemoto bị dẫn giải lên xe cảnh sát giữa những ánh đèn chớp không khoan nhượng của mấy tay phóng viên ảnh. Ngồi trong chiếc xe chật chội, cuối cùng Hidemoto mới định thần lại. Mình bị bắt rồi. Rõ ràng mình không thể bị bắt, vậy mà giờ bị tóm gọn rồi. “Tại... tại sao chứ!” Hidemoto bất giác ôm lấy đầu, hét lên. “Không thể thế này được. Tao là siêu trộm Lupin. Tao không thể nào bị bắt. Đây chỉ là mơ thôi! Giấc mơ thôi! Sao có thể thế này chứ.” “Không đâu, là thật đấy.” Chẳng biết từ lúc nào, thanh tra Mikawa đã ngồi cạnh Hidemoto, ném ánh nhìn sắc sảo về phía hắn. “Tao mới nằm viện vì tai nạn không lâu mà hình như mày đã làm loạn ghê quá nhỉ. Tên khốn này. Mày dám đem cảnh sát bọn tao ra làm trò đùa đấy à. Giờ thì vào tù mà ăn năn hối cải đi nhé.” Hidemoto run lẩy bẩy khi nghĩ đến chuyện mình sẽ bị tống vào phòng giam. Nhưng hắn vẫn không thể chấp nhận thực tế và kêu gào thảm thiết. “Đây là mơ! Không thể như vậy được! Tao không thể bị bắt...” “Sao mày có thể chắc chắn như thế?” “Bởi vì tao là Lupin. Tao đã ăn bánh ở tiệm bánh kẹo ấy. Lũ cảnh sát các ngươi làm sao bắt được siêu trộm Lupin...” “Tên kia!” Thanh tra Mikawa đột ngột túm lấy cổ áo Hidemoto. Vẻ mặt viên thanh tra hơi biến sắc. “Tiệm bánh kẹo mày nói có phải tiệm Thiên đường tiền xu không?” “Hả?” Hidemoto trợn tròn mắt. Tại sao gã thanh tra này lại biết về tiệm bánh kẹo đó? “Mày... mày... mày... tiệm bánh kẹo đó...” “Đúng vậy, tao biết tiệm bánh kẹo đó đấy.” Mặt Hidemoto mỗi lúc một tái nhợt. Tim hắn dội lên những tiếng thình thịch khó chịu. “Mày đã mua gì ở đó?” “... Bánh cuộn siêu trộm.” “Hừm, đúng là ở đó có thứ như vậy thật. Thế là mày đã mua nó à? Vậy thì chấp nhận đi thôi.” “Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Nói đi. Sao mày lại biết tiệm bánh kẹo đó?” Thanh tra Mikawa đột nhiên phì cười, buông cổ áo Hidemoto ra. “Từ hồi còn là đứa trẻ ranh, tao đã muốn trở thành một người ra tay trừng trị kẻ xấu. Sau khi nhập học trường cảnh sát, có lần tao tình cờ bắt gặp tiệm bánh kẹo đó. Và tao đã mua món bánh Pudding thanh tra anh hùng, đồng minh của chính nghĩa. Có lẽ nhờ món bánh ấy mà cho đến giờ tao chưa hề bỏ sót một tội ác nào hết.” Thanh tra Mikawa nở nụ cười giễu cợt. “Chuyện là như vậy đấy, siêu trộm Lupin à. Mày đã bị đồng minh của chính nghĩa bắt rồi, bỏ cuộc đi thôi.” “Tao... tao vẫn không hiểu!” Hidemoto gào lên. “Chẳng... chẳng phải cùng một tiệm bánh kẹo sao? Vậy mà tại sao Bánh cuộn siêu trộm của tao lại yếu hơn Pudding thanh tra anh hùng của mày chứ. Không... thể chấp nhận được!” Vừa dứt lời, Hidemoto chợt nhớ lại. Những lời cuối cùng của người phụ nữ ở tiệm bánh kẹo đó... “Quý khách nên tiết chế vừa phải thôi. Trên đời này có những người còn may mắn hơn quý khách nhiều. Nếu quý khách quên mất điều đó thì...” Thanh tra Mikawa nói với viên cảnh sát ngồi sau tay lái, “Lái xe đi.” Chiếc xe cảnh sát lăn bánh, chở theo Hidemoto với khuôn mặt như người đã chết. * * * Eshiro Hidemoto. Bốn mươi sáu tuổi. Người đàn ông có đồng một trăm yên năm Chiêu Hòa thứ năm mươi sáu. Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Tiền Xu Tập 2 của tác giả Hiroshima Reiko.
Người Thổi Thủy Tinh Xứ Murano - Marina Fiorato
"Người thổi thủy tinh xứ Murano" là tiểu thuyết mang đầy không khí thần bí về lịch sử và truyền thống thổi thủy tinh của người dân ở đảo Murano, thành Venice, một trong 3 thành phố nổi tiếng của Italy. Nghề thổi thủy tinh là nghề sống còn thành phố này và những tấm gương được làm từ đây đắt hơn vàng. Được những kẻ giết người từ Hội đồng thành phố canh cẩn mật, nhiều người thợ thủy tinh xứ Murano gần như bị cầm tù trên đảo của họ. Nhưng một bậc thầy của nghề là Corradino Manin đã bán các phương thức và linh hồn mình cho vua Louis XIV (Pháp), nhằm bảo vệ cô con gái bí mật của ông. Nhiều thế kỷ sau, hậu duệ của ông, Nora Manin - một phụ nữ Anh trẻ tuổi - vì muốn thoát khỏi cuộc sống không hạnh phúc của mình ở London, đã quyết định đến Venice và theo học nghề thổi thủy tinh ở thành phố của tổ tiên mình. Sôi nổi và tài năng, tên họ nổi tiếng của cô đã đặt cô vào nguy hiểm bên trong các xưởng thủy tinh cổ xưa khi các kình địch của cô xuất hiện. Tìm thấy được cuộc sống mới và tình yêu ở Venice, số phận của Nora trở nên gắn bó chặt chẽ với ông tổ Corradino; và lúc này, những bí mật về sự phản bội của ông lộ ra. *** Marina Fiorato là nhà văn nữ gốc Venice. Cô tốt nghiệp ngành lịch sử tại Đại học Oxford, từng theo học chuyên ngành về kịch Shakespeare tại Đại học Venice. Sau khi tốt nghiệp đại học, nhà văn theo đuổi hội họa và trải qua nhiều nghề: diễn viên, nhà phê bình phim và họa sĩ minh họa. Cô từng thiết kế chuyến du lịch bằng hình (visual tour) cho ban nhạc U2 và Rolling Stones. Cô kết hôn tại Venice và hiện sống ở North London với chồng, con trai và con gái. Nữ nhà văn được xem là một "Rowling thứ hai" khi vừa viết sách vừa trông con trong một quán cà phê. Fiorato đang thương thảo việc chuyển nhượng bản quyền để chuyển thể tác phẩm này thành phim. *** Khi Corradino Manin nhìn những ngọn đèn của San Marco lần cuối cùng. Venice bên kia phá với chàng dường như là một chòm sao vàng óng trong màn đêm nhung xanh thẫm. Bao nhiêu ô cửa trong số những ô cửa sổ đó, điểm trang kinh thành của chàng như những viên đá quý, mà chàng đã làm ra bằng chính đôi tay mình? Giờ đây chúng là ánh sao lấp lánh soi đường chàng cuối cuộc hành trình của đời chàng. Dẫn lối cho chàng cuối cùng cũng trở về quê nhà. Khi con thuyền chạy vào San Zaccaria, chàng không nghĩ – một lần này thôi – là mình có thể diễn tả cảnh này trong thủy tinh bằng một pulegoso 1 với vàng lá và đá da trời nóng ra sao, mà là chàng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy khung cảnh dấu yêu này nữa. Chàng đứng trước mũi thuyền, hình chạm đầu mũi thuyền lấm tấm nước biển, nhìn sang trái về Santa Maria della Salute, đôi mắt nhìn cái khối mái vòm trắng lờ mờ hiện ra trong màn đêm vẻ tinh khôi của nó. Người ta đã đặt móng cho ngôi nhà thờ lớn vào năm 1631, năm Corradino chào đời, để cảm tạ Đức Mẹ Đồng Trinh đã cứu thành khỏi Trận dịch. Tuổi thơ và thời trai trẻ của chàng đã sánh bước với công trình đang dần hình thành. Giờ nó đã hoàn thành, năm 1681, năm chàng chết. Chàng chưa từng được thấy sự rỡ ràng trọn vẹn của nó dưới ánh sáng ban ngày, và giờ thì sẽ không bao giờ nữa. Chàng nghe thấy một người trèo traghetto 2 thê lương mời khách khi băng qua Kênh lớn. Chiếc thuyền đen của ông gợi nhớ một chiếc gondola 3 đưa tang. Corradino rùng mình. Chàng cân nhắc xem có nên gỡ cái mặt nạ bauta trắng ra không ngay khi chân chàng đặt lên bờ; một khoảng khắc nên thơ – một cử chỉ cao cả khi chàng trở về Serenissima 4. Không, mỉnh còn một việc nữa phải làm trước khi họ tìm thấy mình. Chàng cài kín chiếc áo choàng đen trên vai chống lại sương mù tăm tối và đi qua Piazzetta dưới lớp che của chiếc mũ ba sừng và bauta. Bộ trang phục tabarro 5 truyền thống, đen từ đầu đến chân trừ chiếc mặt nạ trắng, phải giúp chàng đủ vô danh để kéo dài thời gian chàng cần. Bản thân cái bauta, một phiến mặt nạ ma quái hình thù như cái xuổng của phu đào huyệt, có cái mũi ngắn và cằm dài có thể biến đổi giọng một cách kỳ quái nếu chàng phải nói. Chẳng mấy lạ là, chàng nghĩ, cái mặt nạ vay mượn tên nó từ ngữ "baubau", "ác quỷ" mà các ông bố bà mẹ cầu khẩn để làm mấy đứa con lang thang của họ khiếp sợ. Theo thói quen do mê tín, Corradino đi nhanh vào màn đêm qua giữa hai cây cột San Marco và San Teodoro vươn lên, trắng và đối xứng. Vị Thánh và con quái vật đứng trên đỉnh trán tường của hai cây cột chìm trong bóng tối. Nấn ná lại đây là xui xẻo, vì các tội nhân bị hành quyết giữa hai cây cột này – bị treo bên trên hoặc chôn sống ở dưới. Corradino làm dấu thánh giá, tự nhận ra mình và mỉm cười. Còn vận rủi nào nữa có thể xảy đến cho chàng? Ấy thế mà chàng vẫn rảo bước. Vẫn còn một tai họa có thể làm hỏng mình: bị ngăn cản không hoàn thành được việc cuối cùng. ... Mời các bạn đón đọc Người Thổi Thủy Tinh Xứ Murano của tác giả Marina Fiorato.
Người Trong Bóng Tối - Paul Auster
Ngày 19/8, độc giả nước Mỹ cầm trên tay cuốn tiểu thuyết 'The man in dark' của nhà văn Paul Auster. Và cùng ngày này, bản dịch cuốn sách do dịch giả Trịnh Lữ thực hiện với tựa 'Người trong bóng tối' cũng xuất hiện trên các kệ sách. Người trong bóng tối là câu chuyện về August Brill, một nhà phê bình văn học 72 tuổi, bị tai nạn phải ngồi một chỗ. Trong khi ông ngồi trên xe lăn hay nằm lì trên giường, chong chong mất ngủ, thì một thế giới khác, một "thực tại song hành" đang diễn ra với đầy những phức tạp và phi lý. Thực tại ấy đúng là do trí tưởng tượng của August Brill tạo ra, đưa đẩy ảo thuật gia Owen Brick vào một nước Mỹ khói lửa của cuộc nội chiến lần thứ hai, như cách lý giải của tác giả: "Chuyện chiến tranh. Cứ mất cảnh giác một tí thôi là chúng ào đến, từng trận một, từng trận một". Và chiến tranh vẫn chỉ là cái cớ để Paul Auster kể những câu chuyện nhiều ngụ ý của mình. Trước đó, hai tác phẩm của Paul Auster là Trần trụi với văn chương và Nhạc đời may rủi đã được dịch và phát hành tại Việt nam. *** Paul Auster sinh năm 1947 tại thành phố Newark, bang New Jersey (Mỹ) trong một gia đình Do Thái trung lưu gốc Ba Lan. Tốt nghiệp đại học Columbia năm 1970, ông sang Paris và sống bằng việc dịch văn học Pháp. Năm 1974, ông trở lại Mỹ và bắt đầu sáng tác. Tên tuổi Paul Auster bắt đầu nổi lên khi bộ ba tiểu thuyết The New York Trilogy (đã được dịch sang tiếng Việt với tựa Trần trụi với văn chương), trong đó ông tạo nên hình thức hậu hiện đại riêng biệt của mình. ***  Tôi một mình trong bóng tối, đang quay cuồng vật lộn với một cơn mất ngủ nữa, một đêm trắng nữa trong chốn hoang mạc Mỹ vĩ đại. Trên gác, con gái và cháu gái tôi đang ngủ trong phòng của chúng, đứa nào cũng một mình. Miriam, bốn mươi bẩy tuổi, đứa con duy nhất của tôi, đã ngủ một mình từ 5 năm qua, và Katya hai mươi ba tuổi, đứa con duy nhất của Miriam, trước đây vẫn ngủ với một thanh niên tên là Titus Small, nhưng giờ thì Titus đã chết rồi, và Katya ngủ một mình với con tim tan nát của nó.   Sáng trưng, rồi bóng tối. Nắng dội xuống từ mọi ngả trời, sau đó là đêm đen, những vì sao im lặng, gió xao động lá cành. Lệ thường là vậy. Tôi đã sống trong ngôi nhà này được hơn một năm nay, suốt từ ngày họ cho tôi xuất viện. Miriam cứ nhất định là tôi phải về đây. Lúc đầu chỉ có hai bố con, với một hộ lý hàng ngày đến chăm tôi trong lúc Miriam đi làm. Thế rồi, ba tháng sau đó, tai họa giáng xuống đầu Katya, và nó bỏ dở trường điện ảnh New York để về nhà với mẹ ở Vermont.   Cha mẹ thằng bé ấy đã lấy tên đứa con trai của nhà danh họa Rembrandt ngày xưa để đặt cho nó, thằng bé của những bức tranh, đứa nhỏ tóc vàng với cái mũ đỏ, cậu học trò mơ mộng ngỡ ngàng với những bài học của mình, thằng bé đã lớn lên trong bệnh tật và chết khi mới trên hai chục tuổi đầu, hệt như Titus của Katya[1]. Một cái tên tuyệt mệnh, nhẽ ra phải bị cấm tiệt từ lâu rồi. Tôi thường nghĩ đến cái chết của Titus, câu chuyện khủng khiếp của cái chết ấy, những hình tượng của cái chết ấy, đám tro tàn trắng xóa của nó bao phủ lên đứa cháu gái buồn khổ của tôi, nhưng tôi không muốn lại về miền ý nghĩ ấy nữa, nhất là bây giờ, tôi phải tránh xa nó, càng xa càng tốt. Đêm còn rất dài, và khi tôi nằm trên chiếc giường này nhìn vào bóng tối, một thứ bóng tối đậm đặc đến mức cả trần nhà cũng không còn thấy đâu nữa, tôi bắt đầu nhớ đến câu chuyện mình đã bắt đầu đêm hôm trước. Đó là việc tôi làm khi giấc ngủ không chịu đến. Tôi nằm trên giường và tự kể chuyện cho mình. Có thể những câu chuyện ấy chẳng đi đến đâu, nhưng cứ còn sống với chúng thì tôi còn không phải nghĩ đến những thứ mình vẫn muốn quên đi. Nhưng tập trung cũng không phải là dễ, và thường thì cuối cùng tâm trí tôi vẫn cứ trôi khỏi câu chuyện mình đang cố kể và dạt vào những thứ mình chẳng muốn nghĩ đến chút nào. Chẳng biết làm sao được. Tôi vẫn cứ thua như thế, thua nhiều hơn được, nhưng không có nghĩa là tôi không chịu gắng hết sức mình. ... Mời các bạn đón đọc Người Trong Bóng Tối của tác giả Paul Auster.