Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Trẻ Cát

Tahar Ben Jelloun sinh năm 1944, nhà văn người Ma-rốc viết bằng tiếng Pháp. Đứa trẻ cát xuất bản năm 1985, được báo chí Pháp ca ngợi và độc giả đón đọc say mê ngay từ khi vừa phát hành. Đêm thiêng là phần tiếp nối và bổ sung cho đề tài Đứa trẻ cát nổi tiếng đã đưa ông đến với giải Goncourt 1987.   Chuyện xảy ra tại một khu đông dân của một thành phố Ả Rập, ông chủ lò gốm cay cú vì vợ sau bảy lần sinh chỉ toàn là con gái. Cảm thấy xấu hổ, nhục nhã vì không có con trai thừa kế, ông ta đã đi đến một quyết định thách thức với số mệnh rằng dù thế nào đi nữa, đứa con sắp ra đời dứt khoát phải là một thằng con trai. Thật oái oăm, đứa thứ tám chào đời vẫn là con gái. Thế rồi Ahmed - tên đứa trẻ sơ sinh - được trình làng và nuôi dạy như một đứa con trai. Nhưng sau bao năm tháng, cậu bé lớn lên, bối rối khám phá ra ý nghĩa đích thực của cái mà người ta vẫn che giấu cậu: giới tính.   Những di chứng quái gở của tôn giáo, sự ngu muội ở một bộ phận cộng đồng là lí do dẫn dắt ông bố đi đến một quyết định sai lầm kéo theo sau đó bao nhiêu tai họa cho gia đình, cho đứa con mà ông bất chấp mọi quy luật áp đặt nên. Và đó cũng là mục tiêu mà tác giả cũng đã tập trung phê phán trong một số tiểu thuyết khác của ông. Và không chỉ có vậy, François Nourissier, viện sĩ Viện hàn lâm Pháp, trong khi đánh giá về tiểu thuyết của Tahar Ben Jelloun, đã gọi đó là những tiểu thuyết của sự lưu đày, của trạng thái không thể hòa nhập, của sự chia rẽ của hai nền văn hóa!  ***  Tahar Ben Jelloun (Tiếng Ả Rập: الطاهر بن جلون‎) (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1944 tại thành phố Fes, Ma-rốc) là một nhà thơ, nhà văn người Ma-rốc. Mặc dù ngôn ngữ mẹ đẻ của ông là tiếng Ả rập nhưng hiện nay, các tác phẩm của ông đều được viết bằng tiếng Pháp.   Học trung học ở một trường song ngữ (tiếng Ả Rập và tiếng Pháp), sau đó Ben Jelloun học tiếp tiếng Pháp ở thành phố Tangier miền bắc Ma-rốc cho tới năm 18 tuổi. Đỗ vào trường đại học Mohamned-V ở Rabat, ông theo học ngành triết học. Trong những năm học đại học, ông đã viết nên những bài thơ đầu tiên của mình (được tập hợp trong tập thơ Hommes sous linceul de silence (1971)).   Tốt nghiệp, Ben Jelloun trở thành giáo sư dạy triết học ở Tetouan rồi sau đó ở Casablanca, Ma-rốc. Năm 1971, sau sự việc môn triết không được dạy bằng tiếng Ả Rập nữa, ông rời Ma rốc và đến Pháp để tiếp tục sự học môn triết của mình. Ở Pháp, ông bắt đầu viết nhiều hơn.   Đầu năm 1972, Ben Jelloun bắt đầu viết bài cho tờ Le Monde (Thế giới). Năm 1975, ông được công nhận học vị tiến sĩ về tâm thần học. Với những kinh nghiệm về tâm lý liệu pháp (nhờ vào những khảo cứu và lòng say mê), ông viết cuốn La Réclusion solitaire vào năm 1976.   Năm 1985, Ben Jelloun xuất bản cuốn tiểu thuyết L'enfant de sable (Đứa trẻ cát) được ca tụng rộng khắp. Ông được trao giải Goncourt năm 1987 cho tiểu thuyết La Nuit Sacrée (Đêm thiêng).   Năm 1997, cuốn Le Racisme expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) được ông cảm tác dựa trên những thực tế trong gia đình mình được xuất bản.   Ông thường xuyên được mời diễn thuyết hoặc thỉnh giảng tại các trường đại học ở Ma-rốc và trên khắp châu Âu.   Năm 2004, Ben Jelloun giành được giải thưởng văn học quốc tế IMPAC Dublin cho tác phẩm This Blinding Absence of Light (do Linda Coverdale dịch sang tiếng Pháp). Ông cũng giành được giải Prix Ulysse vào năm 2005 cho toàn bộ sự nghiệp của mình.   Tháng 9 năm 2006, Ben Jelloun giành được giải đặc biệt vì “hòa bình và tình hữu nghị giữa người với người” tại Lễ hội văn hóa Lazio between Europe and the Mediterranean Festival được tổ chức tại Rome, Lazio nước Ý.   Ngày 1/2/2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã trao cho ông Huân chương Bắc đẩu Bội tinh.   Ben Jelloun có 4 người con và hiện đang sống tại Paris.   Hai cuốn tiểu thuyết L'Enfant de sable (Đứa trẻ cát) và La Nuit sacrée (Đêm thiêng) đã được dịch ra 43 thứ tiếng. Cuốn Le racism expliqué à ma fille (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) đã được dịch ra 33 thứ tiếng. Bản thân ông cũng tham gia vào việc chuyển ngữ những tác phẩm của chính mình.     Tác phẩm chính:   Harrouda (1973)  Solitaire (Cô đơn) (1976)  The Sand Child (Đứa trẻ cát) (1985)  The Sacred Night (Đêm thiêng) (1987)  Silent Day in Tangiers (Ngày yên lặng ở Tangier) (1990)  With Downcast Eyes (Mắt cúi gằm) (1991)  Corruption (Tham nhũng) (1995)  The Fruits of Hard Work (Thành quả lao động) (1996)  Praise of Friendship (Ca ngợi tình bạn) (1996)  L'Auberge des pauvres (1997)  Racism Explained to My Daughter (Giảng cho con gái nghe về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc) (1998)  Islam Explained (Về đạo Hồi) (2002)  This Blinding Absence of Light (2003)  La Belle au bois dormant (Người đẹp ngủ trong rừng) (2004)  The last friend (Người bạn cuối cùng) (2006)  Yemma (2007)  Leaving Tangier (Rời bỏ Tangier) (2009)  The Rising of the Ashes (Tàn tro bốc cao) (2009)   *** Ấn tượng đầu tiên là khuôn mặt ấy dài ngoẵng bởi những nếp nhăn chạy dọc, những nếp nhăn giống như những vết sẹo bị cày xới bởi những trận mất ngủ triền miên, một khuôn mặt râu cạo nham nhở, bị thời gian tàn phá. Cuộc sống - cuộc sống nào đây? Một ngoại hình kì dị được sinh ra để rồi bị lãng quên - có bổn phận ngược đãi, ngáng trở, và thậm chí phải làm cho anh ta tức tối. Người ta có thể đọc hoặc có thể đoán ra được trên gương mặt ấy nỗi đau khổ ê chề mà chỉ cần một cử chỉ vụng về của bàn tay, một ánh mắt bênh vực, một con mắt dò xét hoặc ác ý cũng đủ làm cho vết thương ấy lại tấy lên nhức buốt. Anh ta thường tránh phô bày thân hình ra giữa ánh sáng chói chang và giấu hai con mắt vào sau làn tay áo. Ánh sáng của ban ngày, của một ngọn đèn, hoặc của mặt trăng rằm, đều làm cho anh ta đau đớn: tia sáng ấy muốn lột trần thân xác anh ta, len lỏi vào từng làn da thớ thịt và khám phá ra ở đó nỗi tủi hổ xót xa và những giọt nước mắt thầm kín. Anh ta cảm thấy luồng ánh sáng đó lướt qua cơ thể như một ngọn đuốc thiêu cháy tất cả những chiếc mặt nạ của anh, như lưỡi dao lần lần lột bỏ tấm voan bằng thịt ngăn cách anh ta với những người khác. Anh ta sẽ ra sao nếu khoảng không gian bảo vệ, ngăn cách anh ta với những người khác bị xóa bỏ? Lẽ nào anh ta lại bị phơi ra trần truồng, không một phương tiện tự vệ, trong tay những kẻ luôn rượt đuổi anh chỉ vì muốn thỏa mãn thói tò mò, tính đa nghi và thậm chí chỉ vì một mối hận thù dai dẳng; bọn họ không bao giờ bằng lòng với sự im lặng và trí thông minh của một kẻ luôn gây phiền hà cho họ bằng sự hiện diện độc đoán và đầy bí ẩn.   Ánh sáng lột trần cơ thể anh ta. Tiếng ầm ĩ làm cho anh ta bấn loạn. Từ ngày giam mình trong căn phòng nhìn ra sân thượng, anh ta không còn bị cái thế giới ồn ào kia tra tấn nữa, mỗi ngày một lần, anh ấy tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua việc mở cửa cho Malika, bà giúp việc vẫn thường đưa thức ăn, đồ uống, báo chí và một bát hoa cam vào phòng cho anh. Anh ta rất quý mến bà lão vì bà đã trở thành một thành viên của gia đình. Kín đáo và dịu dàng, bà không khi nào lục vấn anh ta bất cứ điều gì, mà cả hai cứ như những kẻ tòng phạm, nhờ vậy họ rất gắn bó với nhau.   Tiếng ồn. Tiếng ồn của những giọng nói the thé hoặc nhạt nhẽo. Tiếng ồn của những tiếng cười thô lỗ, từ những tiếng hát chói tai phát ra từ chiếc radio. Tiếng ồn của những xô nước hắt ra ngoài sân. Tiếng ồn của lũ trẻ đang hành hạ một con mèo mù hay một con chó chỉ còn ba chân bị lạc vào giữa những đường phố hẹp, nơi những con vật và những người điên thường bị vướng bẫy. Tiếng ồn của những lời than vãn, nỉ non của những người ăn mày. Tiếng ồn chói tai của một chiếc loa phóng thanh, năm lần mỗi ngày, rè rè phát lời mời cầu nguyện. Đôi khi tiếng loa không còn là lời gọi mời cầu nguyện nữa mà là một cử chỉ xúi giục làm loạn. Tiếng ồn của mọi giọng nói và những tiếng la ó từ ngoài phố vọng vào và neo lại ở kia, ngay phía trên căn phòng của anh ta, đã đến lúc gió hãy cuốn chúng đi hoặc giảm bớt âm lượng của chúng.   Anh ta đã khuếch trương những dị ứng đó; cơ thể quá nhạy cảm và dễ xúc động của anh ta đón nhận mọi thứ dị ứng dù chỉ là một chấn động rất nhỏ, hấp thụ và giữ cho chúng luôn phát huy tác dụng, vì thế giấc ngủ của anh ta thật khó khăn nếu không muốn nói là không thể. Các giác quan của anh ta không hề bị rối loạn như người ta vẫn nghĩ. Mà ngược lại, chúng trở nên đặc biệt sắc sảo, năng động và không biết mệt mỏi. Chúng thực sự phát triển và chiếm lĩnh toàn bộ vị trí trong cái thân xác mà cuộc sống đã làm đảo lộn và số phận bị đổi hướng.   Khứu giác của anh ta có khả năng phân biệt được tất cả. Lỗ mũi đem đến cho anh ta mọi thứ mùi, ngay cả những thứ mùi không còn ở đó nữa. Anh ta nói rằng anh ta có khứu giác của người mù, thính giác của một xác chết đang ấm nóng và thị giác của một nhà tiên tri. Nhưng cuộc sống của anh ta không phải là cuộc sống của một vị thánh, tuy nhiên, cuộc sống ấy cũng có thể trở nên tốt đẹp như thế nếu như anh ta không có quá nhiều thứ phải làm.   Từ khi lui về ẩn dật trong căn phòng trên cao này, anh ta chẳng tiếp chuyện bất cứ ai. Anh ta cần một thời gian dài, có thể là nhiều tháng để thu nhặt các bộ phận của mình, sắp xếp lại quá khứ theo trình tự thời gian, sửa chữa cái hình ảnh bi thảm mà mọi người xung quanh đã dành cho anh ta trong thời gian gần đây, thu xếp một cái chết mà anh ta đã kí thác vào đó tất cả: cuốn nhật ký riêng tư, những điều bí mật của anh ta - có thể chỉ có cuốn sổ này là điều bí mật duy nhất - và cũng có thể đây là bản phác thảo một câu chuyện mà chỉ mình anh ta nắm giữ chìa khóa mà thôi.   Một màn sương mù dày đặc bao bọc dai dẳng xung quanh anh ta, che chắn cho anh những ánh mắt đầy ngờ vực và những lời thị phi của những người bà con và hàng xóm vẫn to nhỏ với nhau trước ngõ. Bức màn màu trắng này làm cho anh ta bình tâm trở lại, đưa anh ta vào giấc ngủ yên lành và nuôi dưỡng những giấc mơ tuyệt vời của anh.   Chuyện ẩn cư của anh ta không làm cho gia đình phải suy nghĩ nhiều. Họ đã quen với cảnh nhìn anh ta đắm chìm trong sự câm lặng ghê người, hoặc trong những cơn cáu giận bùng phát hết sức phi lí. Có cái gì đó không thể xác định được một cách minh bạch đã xen vào giữa anh ta và những người còn lại trong gia đình. Chắc hẳn là anh ta có những lí do riêng, và chỉ có mình anh ta là có thể nói ra được thôi. Anh ta quả quyết rằng thế giới của anh ta chỉ thuộc về anh ta mà thôi, và rằng cái thế giới ấy ưu việt hơn rất nhiều so với thế giới của bà mẹ và các chị của mình - nói tóm lại là rất khác nhau. Thậm chí anh ta còn nghĩ rằng mẹ và các chị không thể có một thế giới riêng nào hết. Họ bằng lòng sống ở bề ngoài sự vật, không đòi hỏi gì lớn, tuân theo quyền uy, những luật lệ và ý muốn của anh ta. Mặc dù không nói với nhau, nhưng phải chăng bà mẹ và những người chị gái đều cho rằng anh ta đã lựa chọn và chấp nhận lối sống lặng lẽ ấy, bởi lẽ anh ta không còn làm chủ được bản thân, không làm chủ được hành vi và sự biến thái trong con người mình do những cú sốc thần kinh căng thẳng tột độ lúc nào cũng chực làm anh ta mất trí? Ít lâu nay, bước chân của anh ta đã bớt đi dáng vẻ của một người đàn ông độc đoán, một chủ nhân không bị ai tranh ngôi đoạt vị trong gia đình, một người đàn ông thay cha quán xuyến mọi việc trong gia đình.   Lưng anh ta đã bắt đầu còng xuống, đôi vai buông xuôi một cách vô duyên, trở nên nhỏ hẹp và mềm nhũn, chúng k còn ý định làm chỗ dựa êm ái cho mái đầu của người tình hoặc là chỗ đặt bàn tay thân tình của bạn bè. Anh ta cảm thấy một khối nặng vô hình đè lên lưng, đến nỗi mỗi bước đi phải gắng ngẩng mặt lên và giữ cho thật cân bằng để khỏi ngã. Anh ta lết đi từng bước, nặng nhọc di chuyển thân mình, âm thầm chống chọi với những cơn đau dồn dập ập đến.   Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Cát của tác giả Tahar Ben Jelloun.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kitchen Nhà Bếp (Yoshimoto Banana)
Dù các nhân vật trong “Kitchen” (Nhà Bếp) của Banana Yoshimoto luôn chìm đắm trong buồn bã và cô độc thì cuốn sách vẫn tỏa ra hơi ấm đặc biệt, rất dịu dàng và bình yên. Banana Yoshimoto mang vào cuốn sách của bà hai câu chuyện gồm Kitchen và Moonlight Shadow. Hai câu chuyện có vẻ như chẳng liên quan nhưng chính bầu không khí uể oải, vị cô đơn toát ra từ các nhân vật đã gắn kết chúng lại. Như 2 thực thể sống luôn cùng song hành nhưng không thể bủ đắp đủ đầy cho nhau, từng người lại tự kể những câu chuyện riêng mình. Câu chuyện đầu tiên có cùng tên gọi với cuốn sách - Kitchen kể về Mikage, cô gái mồ côi sống một côi sau khi bố mẹ, ông bà lần lượt ra đi. Tuyến nhân vật thứ hai là Yuichi, cậu chàng sống với người mẹ chuyển giới (mà thực ra người đó là bố cậu).. Kitchen là những dòng tự sự của Mikage, cô gái yêu bếp và tìm đến sự ấm áp trong gian bếp. Sau cái chết của bà, Mikage trở thành một người mồ côi đúng nghĩa khi không có bất cứ người thân nào ở bên, chỉ còn mình cô "với bếp". Cô khám phá ra giữa tất cả mọi phòng trong căn nhà rộng lớn, gian bếp là nơi Mikage cảm thấy được ngủ ngon nhất. Cô thấy bớt cô quạnh khi được nhắm mắt bên cạnh tiếng ro ro của chiếc tủ lạnh. Mikage yêu bếp dù đó nó sạch bong kin kít hay cáu bẩn lộn xộn. Trong khi cô độc giữa căn nhà lớn, Mikage nhận được lời mời dọn về sống cùng từ Yuichi - bạn của người bà đã mất, một chàng trai ít nói nhưng có trái tim ấm áp. Yuichi sống cùng với mẹ (là một người đàn ông chuyển giới) tên là Eriko. Thế rồi cả ba người họ sống cùng nhau trong một mối quan hệ khó gọi tên. Tìm mua: Kitchen Nhà Bếp TiKi Lazada Shopee Kitchen chứa bầu không khí buồn man mác nhưng dịu dàng khó tả. Sự cô đơn của các nhận vật cứ dài ra bất tận nhưng không ai trong số họ nhìn nó là… sự bất hạnh. Tất cả đều cố gắng sống và cố gắng hạnh phúc. Mikage tìm hơi ấm, niềm vui trên chiếc ghế sô pha đặt ngoài phòng khách, trong gian bếp… Cô đi tìm sự bình yên trong mỗi món ăn mà cô làm, trong những cuộc nói chuyện nhẹ nhàng với Eriko vào mỗi sớm mai.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kitchen Nhà Bếp PDF của tác giả Yoshimoto Banana nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kira Kira (Cynthia Kadohata)
Cuốn sách có thể dễ dàng được đọc bởi một người 41 tuổi hay một đứa bé 14 tuổi. Nó thật xuất sắc và lay động lòng người. Đó là những lời mà báo chí Mỹ dành cho Kira - Kira, tiểu thuyết đoạt giải thưởng đóng góp xuất sắc cho Văn học thiếu nhi Mỹ 2005 của nhà văn Cynthia Kadohata. Kira - Kira mở đầu với cuộc sống tuổi thơ yên ả của hai chị em người Nhật sống cùng cha mẹ tại tiểu bang Iowa (Mỹ), nơi có những ruộng bắp trải dài ngút ngàn, nơi hằng đêm, khi hai chị em nằm chơi ngắm nhìn bầu trời đầy sao ở con đường vắng trước nhà. Và chị Lynn của Katie Takeshima đã dạy cô bé từ đầu tiên mà theo chị Lynn là tuyệt diệu nhất thế gian Kira - Kira. Trong tiếng Nhật, Kira - Kira nghĩa là sáng lấp lánh:...Tôi dùng từ Kira - Kira để miêu tả tất cả những thứ mà tôi thích: bầu trời xanh trong trẻo, lũ chó con, mèo con, lũ bướm, những tấm khăn giấy nhiều màu sắc. Và chị Lynn cũng nói với em gái mình: Màu xanh của bầu trời cũng là màu xanh đặc biệt nhất trên thế gian, bởi vì nó vừa xanh thẳm lại vừa trong vắt... biển cũng vậy và mắt con người cũng vậy. Trên cái nền chủ đạo là thứ ánh sáng lấp lánh ấy, bằng giọng văn trong sáng, chứa chan tình cảm, Kira - Kira dẫn người đọc vào chuỗi hồi ức thơ mộng, nghịch ngợm và buồn bã đến nao lòng của cô bé người Nhật Katie về tuổi thơ nghèo khó của gia đình, về người chị thông minh, xinh đẹp, giỏi giang nhưng vắn số. Do nghèo khó, mất việc làm, cha mẹ cô bé Katie dắt díu gia đình dời nhà từ bang Iowa đến sống tại một thị trấn nhỏ ở Georgia. Nơi đây, họ sống trong một căn hộ xập xệ, cũ kỹ. Khi người lớn bán sức lao động, cật lực làm việc ở các nhà máy hòng trang trải cuộc sống, thì trẻ con, với tâm hồn và cái nhìn ngây thơ, vẫn có cuộc sống thú vị của riêng chúng. Nhưng rồi một ngày, sự bạc bẽo của cuộc đời vén bức màn tuổi thơ lên: bệnh tật, nghèo đói, sự đàn áp về chính trị, tệ kỳ thị sắc tộc... Cô chị Lynn đã làm một phép tính: Chỉ có mỗi 31 người Nhật trong toàn thị trấn này, mà thị trấn này lại có hơn 4.000 người lận, và 4.000 chia cho 31 là... họ đông hơn mình quá trời. Từ phép tính đơn giản đó là tiếng kêu phản kháng thảng thốt của đứa bé: Em có để ý là bạn bè của ba mẹ chỉ toàn là người Nhật thôi không? Đó là vì đám người kia coi mình như không. Họ khinh mình - họ coi bọn mình giống như giẻ rách - hoặc như sâu như kiến gì đó. Nước Mỹ trong câu chuyện là nước Mỹ những năm 1950, đời sống của những gia đình người Nhật trên đất Mỹ hậu kỳ Đại chiến thế giới lần 2 được miêu tả rất trung thực: những xưởng làm việc với guồng máy công nghiệp xem con người chỉ là những công cụ sản xuất. Sự vùng dậy của những người công nhân như thành lập công đoàn, đấu tranh đòi giảm giờ làm... được khéo léo lồng vào câu chuyện với liều lượng vừa phải, qua cái nhìn của một cô bé đã giúp độc giả nhí dù thuộc quốc gia nào cũng đều có thể cảm và hiểu được sự bất công, phi lý đến lạnh lùng, tàn nhẫn của một xã hội ích kỷ. Sáng sớm 17/1/2005, nhà văn Cynthia Kadohata nhận được điện thoại từ Ủy ban trao giải thưởng Newbery (lấy theo tên của John Newbery, một người bán sách nổi tiếng ở Anh thế kỷ 18 - giải thưởng được trao tặng từ năm 1922 cho đến nay) thông báo cuốn Kira - Kira của cô được trao tặng giải thưởng Newbery. Trong bối cảnh xã hội nước Mỹ luôn có những xung đột về sắc tộc, sự chia cách giàu nghèo, nạn khủng bố, bạo động, tội ác... thì Kira - Kira chính là bài ca đẹp về niềm hy vọng, tin tưởng vào cuộc sống, tình yêu thương, quý trọng, san sẻ giúp đỡ lẫn nhau giữa những người trong cùng một gia đình và giữa con người với con người trong cùng nhau một xã hội. Và trên tất cả, thông điệp đằng sau Kira - Kira là: cuộc sống này rất phức tạp nhưng kỳ diệu biết bao. Bạn không nên đánh mất khả năng cảm nhận điều kỳ diệu đó dù là ở những điều nhỏ bé nhất trên đời. Tôi muốn những đứa trẻ biết rằng thế giới này tràn ngập niềm hy vọng và cái đẹp, Cynthia Kadohata đã nói như thế. Tìm mua: Kira Kira TiKi Lazada Shopee Sau khi được dịch và phát hành thành công ở Nhật, Trung Quốc, Đức, Italy, Phần Lan, Đức, Serbia và Montenegro, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ. Tháng 12 này, quyển Kira - Kira, vừa đến Việt Nam với tên gốc là Kira - Kira do dịch giả Lưu Anh chuyển ngữ, NXB Trẻ phát hành. Nhìn lại dòng văn học thiếu nhi ở Việt Nam và trên thế giới, có một điều thú vị phải thừa nhận: một tác phẩm văn học thiếu nhi thành công và nổi tiếng không giới hạn độ tuổi độc giả. Bạn đọc Việt Nam thuộc mọi lứa tuổi từng say mê và háo hức thưởng thức những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi (hay nói về thiếu nhi) của tác giả nước ngoài, điển hình như: Hoàng tử bé của St.Exuypéry, truyện cổ Andersen, truyện cổ Grim và gần đây là loạt truyện Harry Potter của J.K. Rowling, Nhật ký Mã Yến của cô bé Trung Quốc Mã Yến... Vì thế, sự xuất hiện của Kira - Kira tại Việt Nam hứa hẹn sẽ gây ấn tượng mạnh với độc giả Việt và góp phần làm phong phú những góc nhìn về dòng văn học thiếu nhi trong nước. Đọc Kira - Kira lại nhớ đến Mắt biếc - tác phẩm đem lại giải Nobel Văn học 1992 cho nhà văn Toni Morisson, Vừa nhắm vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc Thuần, Harry Potter của J.K. Rowling. Tất cả các cuốn sách đó đều viết về nội tâm cũng như thế giới của những đứa trẻ, về cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác, cái bất công trong cuộc sống. Điểm độc đáo của Kira - Kira còn là sự kết hợp hài hòa giữa chất phương Đông và phương Tây trong câu truyện. Nét hóm hỉnh, tinh nghịch, hài hước tình huống kiểu Mỹ lẫn cái nhẹ nhàng, thâm trầm, sâu kín của Nhật; sự lãng mạn, mơ mộng đứng bên cạnh hiện thực nghiệt ngã; niềm hạnh phúc dâng tràn bên cạnh sự chia ly, mất mát; cái ngô nghê, trong trẻo trẻ thơ bên cạnh sự trưởng thành, già dặn của những tâm hồn bé con đang dần lớn lên theo từng ngày. Tôi giấu những giọt nước mắt của mình không cho ba mẹ thấy. Nhưng mặt biển bắt đầu làm tôi thấy hạnh phúc trở lại. Ở nơi đây từ mặt biển - đặc biệt là từ mặt biển - tôi có thể nghe thấy giọng nói của chị mình trong tiếng những làn sóng vỗ: Kira - Kira! Kira - Kira. Cái kết thúc đẹp này chẳng khác nào một khúc đồng dao bất tận lấp lánh niềm tin trẻ thơ. ***CHỊ TÔI, LYNN, đã dạy cho tôi nói cái từ đầu tiên: kira-kira. Tôi đã phát âm nó thành ra ka a-a, nhưng chị chẳng hiểu nổi tôi muốn nói gì. Trong tiếng Nhật, kira-kira có nghĩa là “sáng lấp lánh”. Lynn kể là khi còn nhỏ, chị thường dắt tôi đi trên con đường trống vắng của bọn tôi vào ban đêm, rồi hai đứa tôi nằm ngửa xuống, nhìn lên những ngôi sao trên trời và chị cứ nhắc, “Katie, nói kira-kira, kira-kira xem nào.” Tôi rất thích từ này! Khi tôi lớn thêm, tôi dùng từ kira-kira để miêu tả tất cả những gì mà tôi thích: bầu trời trong trẻo, lũ chó con, mèo con, lũ bướm, những tấm khăn giấy nhiều màu sắc. Mẹ bảo chúng tôi đã lạm dụng từ đó nhiều quá, người ta không thể gọi một tấm khăn giấy là kira-kira được. Mẹ rất rầu về việc hai đứa tôi không giống người Nhật một chút nào và thề là sẽ đưa chúng tôi về Nhật một ngày nào đó. Tôi không quan tâm mẹ sẽ đưa chúng tôi tới đâu, một khi tôi có chị Lynn bên cạnh. Tôi sinh ra ở Iowa năm 1951. Tôi biết khá nhiều chuyện về mình hồi nhỏ, bởi vì chị Lynn có ghi nhật kí. Bây giờ tôi vẫn giữ cuốn nhật kí đó trong ngăn kéo cạnh giường. Tôi rất thích cái việc những kí ức của chị vừa giống y hệt tôi, nhưng cũng lại vừa khác. Ví dụ như một trong những kỉ niệm đầu tiên của tôi là cái ngày chị Lynn cứu tôi. Tôi gần lên năm, và chị gần lên chín. Bọn tôi đang chơi trên con đường vắng gần nhà. Những cánh đồng bắp cao tít trải dài ngút tầm mắt, nhìn đâu cũng thấy bắp. Một con chó lông xám, dơ dáy từ cánh đồng gần bọn tôi chạy ra, rồi lại chạy vào. Lynn vốn yêu thích những con vật. Và mái tóc dài đen mượt của chị cứ mất hút sau đám lá xanh sau khi chị đuổi theo con chó. Bầu trời mùa hè xanh biếc và trong vắt. Tôi thoáng thấy sợ khi Lynn biến mất vào trong mấy bụi bắp. Lynn luôn ở bên cạnh tôi mỗi khi chị không đi học. Cả ba mẹ tôi đều đi làm. Trên lý thuyết thì tôi được gởi suốt ngày ở nhà một người phụ nữ ở cuối đường, nhưng trên thực tế thì Lynn mới là người trông nom tôi. Sau khi Lynn chạy vào trong cánh đồng, tôi chẳng còn thấy gì khác ngoài bắp.Tôi kêu to “Lynnie!.” Bọn tôi chơi không xa nhà lắm, nhưng tôi cảm thấy sợ. Tôi khóc òa lên.Rồi thì Lynn bỗng ló ra sau lưng tôi và “Hù!” một cái, và tôi lại khóc to dữ hơn nữa. Chị bật cười, rồi ôm lấy tôi và nói “Em là đứa em dễ thương nhất thế giới!.” Tôi rất thích nghe chị nói như vậy, và tôi nín khóc. Con chó chạy đi mất. Bọn tôi ngả lưng xuống nằm ngay giữa mặt đường, nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Có những ngày mà chẳng có ai chạy xe qua con đường nhỏ của chúng tôi. Bọn tôi có thể nằm ngửa suốt cả ngày mà chẳng hề bị xe cán.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kira Kira PDF của tác giả Cynthia Kadohata nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kino (Haruki Murakami)
Truyện ngắn Kino này, cùng với Scheherazade, được in trong tuyển tập truyện ngắn của Haruki Murakami có nhan đề 女のいない男たち (Những người đàn ông không có đàn bà), xuất bản tại Nhật tháng 4 năm 2014. Nguyễn Huy Hoàng dịch từ bản tiếng Anh (do Philip Gabriel dịch từ nguyên tác tiếng Nhật), đăng trên The New Yorker, Feb 23, 2015 issue (số kỷ niệm 90 năm phát hành tạp chí, 1925-2015).Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Haruki Murakami":Những Người Đàn Ông Không Có Đàn BàTôi Nói Gì Khi Nói Về Chạy Bộ1Q84 - Trọn Bộ 3 TậpKinoNgày Đẹp Trời Để Xem KangarooSau Cơn Động ĐấtTazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành HươngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kino PDF của tác giả Haruki Murakami nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kim Các Tự ( Kinkakuji ) - Yukio (Mishima)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kim Các Tự ( Kinkakuji ) - Yukio PDF của tác giả Mishima nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.