Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển - Jean-Marie Gustave Le Clézio

Daniel hầu như ko nói chuyện với ai và cũng ko có bạn bè. Người ta thấy nó thường mơ mộng với đôi mắt mở to. Nó có dáng vẻ như đến từ nơi khác. Đáng lẽ nên gọi nó là thuyền trưởng Sinbad, bởi nó đọc nhiều những chuyện phiêu lưu ấy, và đó là cuốn sách duy nhất nó thuộc nằm lòng: mắt nó sáng rỡ chỉ khi nói chuyện về biển cả và việc du hành. Nhưng, nó chưa bao giờ nhìn thấy biển. Rồi một ngày tháng mười một, chẳng bảo ai, nó ra đi và không bao giờ trở lại… *** Jean-Marie Gustave Le Clézio, một trong những nhà văn lọt vào danh sách để xét giải Nobel văn học năm 1999, đã thành danh từ khá sớm. Những năm 60 của văn học Pháp là những năm khó khăn với các cuộc tìm tòi thí nghiệm, những quan niệm mới và những khuynh hướng mới. Chính vào thời kỳ ấy, cụ thể là vào năm 1963, “một chàng trai trẻ, cao lớn, đẹp trai, có mái tóc vàng”, ít nói, đã "trình làng" với cuốn tiểu thuyết Biên bản (Le Procès - verbal), in tại Gallimard, một nhà xuất bản lớn hàng đầu, có uy tín ở Pháp. Cuốn tiểu thuyết lập tức thu hút sự chú ý của bạn đọc cũng như giới phê bình không những vì nó đoạt giải thưởng Renaudot, mà chủ yếu vì nó đã đặt ra nhiều vấn đề lý thú cho thể loại tiểu thuyết dường như đang ngắc ngoải. Thế là, mặc dầu anh còn quá trẻ (23 tuổi) để thành tên tuổi, người ta vẫn cứ “xếp hạng” và anh “có chỗ” trong làng văn Pháp đương đại đang khá là nhốn nháo. Tính đến nay, cầm bút được hơn 30 năm, Le Clézio đã có 47 đầu sách gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận và dịch thuật, trong đó có 4 cuốn viết chung. Ðó là chưa kể đến rất nhiều bài viết ông đăng trên các tạp chí, các báo... và hoạt động giảng dạy của ông ở các trường đại học tại Pháp, Mỹ, Mexique, Thái Lan.   Bảo vệ xuất sắc khoá luận cao học về H.Michaux vào năm 1964, sau đó Le Clézio bảo vệ luận án tiến sĩ về Lautréamont. Le Clézio và những tác phẩm của ông đã là đề tài nghiên cứu của 21 cuốn sách và 29 luận án cao học và tiến sĩ (riêng ở Nice, thành phố quê hương ông có 7 luận án). Năm ông 49 tuổi (1989) tạp chí Sud đã ra số chuyên san về sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1994, tạp chí Lire mở cuộc điều tra xã hội học với câu hỏi “Ai là nhà văn Pháp ngữ lớn nhất trong số hiện đang còn sống?” đã có 13% độc giả trả lời đó là Le Clézio.   Cùng một số nhà văn khác, Le Clézio đã làm cho bức tranh toàn cảnh của văn học Pháp thế kỷ XX đỡ màu ảm đạm: “Suốt cả thế kỷ, người ta nói đến “cái chết của văn học”, bị giết bởi báo chí, điện ảnh, truyền hình, những trò giải trí đại chúng v.v… Vậy mà, nó không chết. Người ta viết và công bố nhiều hơn. Thành công của những tác phẩm cách tân, những tác phẩm hay và có giá trị (chúng đa dạng biết bao) của Claude Simon hay Marguerite Duras, của Jean-Marie Gustave Le Clézio hay Georges Perec đã làm cho chúng ta trở nên lạc quan”.   Thói quen của các ngòi bút phê bình nghiên cứu hay dẫn chúng ta đến việc “xếp loại” “sắp đặt” các nhà văn ngồi chỗ này, chỗ kia... hoặc thuộc trường phái này, khuynh hướng nọ... Đối với Le Clézio và các sáng tác của ông, việc này quả là không dễ dàng (có thể nói là không thể). Bởi vì, hình như ông thuộc về nhiều trường phái và hình như cũng chẳng thuộc về khuynh hướng nào cả.   Cuốn tiếu thuyết đầu tay xuất hiện khi ông còn rất trẻ đã khiến người ta xếp ông vào “chủ nghĩa hiện thực mới”. Có lẽ đó là một cách nói để làm rõ vấn đề và để đối sánh với các khuynh hướng “Tiểu thuyết Mới” “Phê bình mới” đang rất rầm rộ lúc đương thời. Vậy thì “Chủ nghĩa hiện thực mới” của Le Clézio không phải như chủ nghĩa hiện thực thời Balzac. Muốn hiểu cho rõ ngọn ngành vấn đề này, ta không thể nói trong phạm vi một hoặc vài trang giấy. Để tham khảo, chúng tôi chỉ xin nêu ở đây ý kiến của các tác giả trong cuốn Văn học Pháp từ 1945 đến 1968. Khi viết về Le Clézio họ đã dùng một cái tít lạ thường “Cách viết địa chấn học” (Une écriture sismographique). Đó là cách viết tuân theo quy luật tự nhiên, ghi theo kiểu máy đo độ rung của trái đất, ghi lại “những độ rung nhỏ nhất của những điều nhạy cảm, đem lại sự sống náo nhiệt của thế giới”. Bởi vì theo Le Clézio, thế giới vô cũng sống động. Trong tiểu luận Thế giới sống động ông đã viết: “Đây chính là điều cần phải làm: đi về nông thôn, như một họa sĩ đi vào ngày chủ nhật, cùng với một tờ giấy lớn và bút chì. Hãy chọn một nơi thanh vắng, một thung lũng xung quanh là đồi núi, ngồi trên mỏm đá và ngắm nhìn thật lâu xung quanh mình. Và rồi, khi đã nhìn thật kỹ, cầm lấy giấy, và miêu tả bằng chữ những gì ta đã thấy”. Đó là đoạn mở đầu tác phẩm. Đọc tiếp những câu cuối, ta có cảm giác như là “nghệ thuật thơ ca” của Le Clézio, một quan niệm thật giản dị: “Đó. Thế giới sống động như thế, trong những tiếng động nhỏ xíu, những cú trượt, tiếng rả rích của dòng nước. Trong những lùm cây, trong hang động, trong đám cây cối chằng chịt, rối rắm, thế giới hát ca, cùng ánh sáng hoặc bóng tối, nó sống một cuộc sống nổ tung, không ngừng nghỉ, đầy tai biến và chết chóc. Cần phải sống cùng nó, như thế, hàng ngày, nằm áp má xuống đất, tai nghe ngóng, sẵn sàng lắng nghe tất cả những tiếng ồn ào và tất cả những tiếng thì thầm. Dây thần kinh cắm sâu vào đất như rễ cây và tự nuôi dưỡng bằng sức mạnh quật khởi khó mà hiểu nổi; cần phải uống thật lâu ở suối nguồn của sự sống và cái chết, rồi sẽ trở thành vô địch không ai thắng nổi”.   Xét về mặt nội dung các tiểu thuyết của Le Clézio đều có thể kể được, có nhân vật, cùng với các “phụ tùng” của nó: Adam Polo trong cuốn Biên bản (1963), Franois Besson trong Cơn hồng thủy (Le déluge, 1966), cô gái Lalla trong tiểu thuyết Sa mạc (Désert, 1980), tác phẩm đoạt Giải Lớn Paul Morand, Alexis trong Người tìm vàng (Le chercheur d'or, 1997) v.v... Có vẻ như những lời tuyên ngôn hùng hồn của N. Sarraute trong tác phẩm nổi tiếng Thời đại hoài nghi cùng các quan điểm cách tân táo bạo của Tiểu thuyết Mới hầu như chẳng thấy có khúc xạ nào qua sáng tác của Le Clézio.   Chính bản thân ông từng kể lại: “Khi tôi đưa bản thảo tiểu thuyết đầu tay của tôi đến Nhà xuất bản Gallimard, tôi đã nói rõ rằng tôi không có quan hệ gì với Tiểu thuyết Mới”. Thế nhưng, không phải hoàn toàn không có những điểm tương đồng nào đó giữa ông và các nhà Tiểu thuyết Mới. Thậm chí người ta còn tìm thấy sự tiếp nhận những tư tưởng từ Roland Barthes trong Lời tựa cho cuốn sách thứ hai của ông có tên là Cơn Sốt.   Trong một cuộc phỏng vấn P.Lhoste có nói với Le Clézio về những từ được lặp đi lặp lại trong các tác phẩm của ông. Nhà văn đồng ý với nhận định đó và cho rằng đó “là những điểm mốc” để có thể khẳng định là mỗi người đều có một “huyền thoại cá nhân” (mythologie personelle). Ðề cập đến vấn đề này có thể Le Clézio có liên hệ gì đó với khái “huyền thoại cá nhân” (mythe personnel) của Ch.Mauron, nhà phê bình phân tâm học đã nhấn mạnh đến việc nghiên cứu quá trình vô thức trong sáng tạo của nhà văn.   Cũng trong cuộc nói chuyện ấy, Le Clézio đã gợi lên sự hàn gắn giữa nhà văn và thầy phù thủy. Cả hai đều có một “thao tác ma thuật”, có một “mã” (code) và những ký hiệu để “hành nghề”, tất nhiên là những ký hiệu khác nhau, thầy phù thuỷ với những ký hiệu của cây lá, của rắn... nhà văn với “những ký hiệu chính xác của từ ngữ gắn bó với các hình ảnh đặc biệt sẽ cho phép độc giả thực hiện thao tác có tính chuyển đổi thành một hiện thực khác, cao hơn”. Nghe đến những “ký hiệu”, đến “mã”, chúng ta có cảm giác như lại sắp bước sang một lĩnh vực khác…   Là một người đọc rất nhiều, ngay từ đầu Le Clézio đã quan tâm đến những vấn đề thuộc lý luận văn học. Ở Lời tựa với hình thức như một bức thư nho nhỏ gửi đến bạn đọc trong tiểu thuyết Biên bản, nhà văn đã dành nhiều dòng cho độc giả, một nhân tố tạo thành quan trọng được chú ý đặc biệt ở văn học thế kỷ XX với tư cách là người tiếp nhận. Ngay cách viết Lời tựa với hình thức hoàn toàn như một bức thư gửi đến bạn đọc có lẽ cũng là một cách để nói rõ thêm quan điểm này của nhà văn.   Như vậy có thể thấy một quan niệm mở của Le Clézio, chấp nhận cùng lúc mọi lối biểu hiện của thực tiễn sáng tác văn học đa dạng và phong phú. Đó là xét về mặt lý luận, còn trong sáng tác, nhà văn đã thể hiện điều đó, trước hết trong tiểu thuyết. Về mặt hình thức được trình bày trên trang giấy, bản thân các tiểu thuyết của ông không phải toàn các con chữ bình thường theo lối viết xưa nay. Văn bản được gài xen vào đủ thứ: từ các bức họa, các công thức toán, lý, hoá, các con số, các đoạn thơ, nhật ký, các mẩu quảng cáo, các mẩu báo chí (có khi được in ở giữa những trang đầu hoặc cuối), có cả những đoạn chữ bị xóa vẫn còn nguyên dấu gạch chéo X… Với cách đó, dường như ông đã thu hẹp lại khoảng cách giữa hư cấu và hiện thực. Hiện thực tràn vào trang giấy bằng của bản thân nó, chứ không phải bởi uy quyền tối cao và độc đoán của nhà văn. Các sáng tác của Clézio vào những năm đầu thể hiện rõ điều này; Biên bản (1963), Cơn hồng thủy (1966), Những người khổng lồ (Les géants, 1973)... Thậm chí có những đoạn tác giả còn để nguyên tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc xen lẫn giữa toàn bộ văn bản bằng tiếng Pháp. Những tiếng vọng đến từ xa được thể hiện thành nhiều con chữ trên mặt giấy: i i i i i i i i i i i…, woou woou woou…, hom! hom!, hom!, hom!, hom!, v.v…   Ðọc tiểu thuyết của Le Clézio chúng ta thấy ông một mặt vẫn ràng buộc với tiểu thuyết truyền thống qua những đặc điểm cơ bản nhất, mặt khác, ông đã tạo ra một lối của riêng mình. Điều đó được thể hiện không chỉ ở việc làm “vỡ tung" văn bản, thay đổi hình thức trình bày của nó, mà chủ yếu là “việc xâm nhập các thể loại trong tác phẩm” của ông, Trong tiểu thuyết của ông có cả thơ, có tiểu luận, có sử thi, huyền thoại cả cổ tích. ... Mời các bạn đón đọc Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển của tác giả Jean-Marie Gustave Le Clézio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Triệu Phú Khu Ổ Chuột - Vikas Swarup
Tên sách: Triệu phú khu ổ chuột (full prc, pdf, epub) Tên gốc: Q&A Tác giả: Vikas Swarup  Thể loại: Sách hay, Tiểu thuyết, Văn học Ấn độ Công ty phát hành Nhã Nam Nhà xuất bản NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển 520 grams Kích thước 14x20.5 cm Dịch giả Nguyễn Bích Lan Số trang 448 Ngày xuất bản 09/2009 Nguồn: tuoitre.com.vn Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www. dtv-ebook.com Giới thiệu: Sức hấp dẫn của Triệu Phú Khu Ổ Chuột ở chỗ, nó khơi dậy trắc ẩn trong mỗi con người, nó đưa độc giả qua ngõ ngách của những khu ổ chuột tồi tàn, nó kể lại cảnh sống khốn cùng khi người ta đánh mất quyền được tồn tại như một con người, sống trong sự chờ đợi một chiếc xe jeep có thể đến đưa mình đi vì hàng ngàn tội lỗi vô cớ. Trong bóng tối của xã hội Ấn Độ hỗn tạp, bùng nhùng những nghèo đói, bệnh tật, nhà thổ, giết thuê, mafia ấy, lại có người chiến thắng một trăm triệu rupi trong một chương trình truyền hình nổi tiếng “Ai là triệu phú”: một anh bồi bàn. Ram Mohammad Thomas, cái tên mang trong mình nhiều tôn giáo, phức tạp như chính những biến cố trong cuộc đời mình, đã bị bắt ngay sau khi giành được giải thưởng lớn. Người ta không tin kẻ xuất thân nghèo hèn có thể làm được điều kỳ diệu đến thế. Thực chất, người ta không muốn chi trả cho anh một khoản tiền khổng lồ như vậy, người ta, bao gồm cả cảnh sát - người chấp pháp, người thi hành công lý, đã tra tấn kẻ chiến thắng cùng khổ, chỉ để anh nói rằng: “Tôi đã gian lận”. Câu chuyện sẽ kết thúc nếu không có sự xuất hiện của một nữ luật sư trẻ, tạm thời giải cứu và tình nguyện làm người làm chứng cho câu chuyện thật của cậu. Triệu Phú Khu Ổ Chuột từ đầu đến cuối trung thành với mạch tự sự ngôi thứ nhất, với cách sắp xếp đảo chiều thời gian để phù hợp với mạch kết nối là 12 câu hỏi của trò chơi. Câu chuyện không có tính trò chơi, nó chỉ mượn hình thức trò chơi để diễn tả những điều rất đời, cũng như nó vay mượn một câu chuyện có thực về người chiến thắng một triệu rupi trong lịch sử Ấn Độ để nói về một câu chuyện còn thực hơn cả sự thực. Mỗi trải nghiệm trong cuộc sống của Thomas là lời giải cho một câu hỏi trong cuộc chơi. Trong chuỗi hồi tưởng ấy, người đọc bắt gặp những hình ảnh trẻ thơ thiên thần xuất thân từ bùn lầy của xã hội: Cậu bé Ian - con trai bất hạnh của mục sư Timothy, cô bé Gudya bị chính cha mình lợi dụng, Salim với ước mơ trở thành một diễn viên nổi tiếng, đã phải đối mặt với cú sốc lớn nhất đời mình khi bị thần tượng đồng tính luyến ái giở trò trong rạp chiếu phim... Những số phận ấy bị vùi đi trong lớp bụi của lầm than, trong váng dầu nhơ bẩn của xã hội, mà ở đó: kẻ có tiền là người làm chủ vận mệnh. Tất cả dựng nên một góc nhìn xã hội vừa bi đát, vừa hài hước, vừa hiển nhiên, vừa căm phẫn và chua chát đến cùng cực. Mỗi chươngTriệu Phú Khu Ổ Chuột là một cuộc phiêu lưu, bằng cách kể nhẩn nha, chi tiết, ít bày tỏ xúc cảm trực tiếp, Thomas chậm rãi tua lại cuốn băng của cuộc đời mình để rồi viết lên bài ca của nỗi thống khổ và lòng nhân ái. Cái gọi là đồng xu may mắn thực ra cả 2 mặt đều ngửa, cái gọi là chớp lấy may mắn thực ra đều do con người chủ đích tạo nên, cái gọi là lòng nhân ái thực sự ẩn sâu trong những cử chỉ cao đẹp nhất giữa người với người, cho dù, họ là những người tồn tại bất hợp pháp trong cuộc đời mình. Hình ảnh Thomas đấu tranh đến phút cuối cho mạng sống của Shankar đang bị bệnh dại hành hạ, những câu nói trôi chảy nhất trong cuộc đời của một hoàng tử bị bỏ quên là về chính người mẹ - bà hoàng đã cố tình quên đi sự tồn tại của cậu; Thomas, người không ngớt bị ám ảnh phải kiếm bằng mọi giá số tiền 400.000 rupi lại dễ dàng cho một người không quen toàn bộ số tiền ấy để ông ta mua thuốc cho con trai bị bệnh dại; Thomas, con người sẵn sàng đánh đổi cả mạng sống của mình để trả thù cho người yêu bị Prem Kumar dày vò, cũng vô tư như khi anh từng nhiều lần quên mình vì những người cùng cảnh ngộ khác. Một anh bồi bàn ở dưới đáy xã hội, không gia đình, không mơ ước, liệu có thể trở thành triệu phú? Cuộc đời có tồn tại may mắn? Điều gì sẽ chiến thắng sau cùng: quyền lực hay lòng nhân ái? Triệu phú khu ổ chuột sẽ giải đáp tất cả câu hỏi đó của bạn cũng như nó từng làm với hàng triệu độc giả trên thế giới, lấy đi nước mắt của họ và mang lại cho họ niềm tin vào cuộc đời. Vì Vikas Swarup đâu chỉ viết bằng ngôn ngữ Ấn Độ, ông đã viết chuyện đời Thomas bằng thứ tiếng của chung của loài người. Mời các bạn đón đọc Triệu Phú Khu Ổ Chuột của tác giả Vikas Swarup.
Truy Tìm Dracula - Elizabeth Johnson Kostova
NXB Văn học và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam vừa cho ra mắt cuốn sách Truy Tìm Dracula, tác phẩm đầu tay của Elizabeth Johnson Kostova. Ngay sau khi ra đời, Truy Tìm Dracula đã được dịch ra 28 thứ tiếng, giành giải Hopwood Award cho Tiểu thuyết đang hoàn thành (2003), Quill Award cho Tác phẩm đầu tay (2005) và giải thưởng Book Sense Award dành cho Tiểu thuyết xuất sắc nhất (2006). Tác phẩm gần như một kỳ tích trong ngành xuất bản khi tác giả của nó, khi ấy còn là một nhà văn vô danh, đã nhận được hai triệu đôla Mỹ nhuận bút ứng trước, gấp nhiều lần mức trung bình dành cho một tác giả ở cùng tầm cỡ.  Năm 2007, Sony đã mua bản quyền dựng phim tác phẩm này. Elizabeth Kostova đã mất 10 năm để viết ra Truy Tìm Dracula, từ những cảm nhận mơ hồ và nhờ trí tưởng tượng vô cùng phong phú của bà. Những gì đã được viết mở ra hành trình khám phá thú vị cho bạn đọc, như Victoria A. Brownworth đánh giá trên tờ Baltimore Sun "vừa là chuyện kinh dị, vừa là lịch sử, vừa là chuyện tình lãng mạn... Kostova có một khả năng kể chuyện sắc sảo, cùng một câu chuyện kỳ diệu để thuật lại với chúng ta". “Cuốn tiểu thuyết hoành tráng với một phụ nữ thông minh vừa là nhân vật chính vừa là người kể chuyện sẽ kéo bạn vào từng trang sách, bạn sẽ đọc suốt đêm và sẽ thoáng rùng mình khi những cơn gió mùa rền rĩ bên ngoài cửa sổ.” - Uma Mahadevan-Dasgupta, Indian Express “Kostova đã tái tạo một Dracula vừa kinh hoàng vừa đáng sợ như hình ảnh ma cà rồng hút máu đã từng in đậm trong truyền thống văn hóa dân gian qua câu chuyện kể của Bram Stoker từ năm 1897… Nhưng trong phần kết thúc, có lẽ Kostova còn xuất sắc hơn cả Stoker.” - USA Today “Mê hoặc như thôi miên… Gần như không thể bỏ cuốn sách xuống được… Một cảm giác rùng mình ớn lạnh xuyên suốt câu chuyện.” - Brian Richard Boylan, Denver Post. “Truy tìm Dracula là loại sách mà người ta không thể nửa chừng bỏ xuống được.” - Charles Matthews, San Jose Mercury News “Gần như không thể bỏ Truy tìm Dracula xuống một khi đã đụng đến gáy sách.” - Michael D. Clark, Houston Chronicle “Một bí ẩn lịch sử đồ sộ… với tham vọng can thiệp vào lịch sử, căng thẳng hồi hộp, lãng mạn, đầy tri thức… Kostova đã dần dần làm sáng tỏ truyền thuyết về ma cà rồng.” - Sherryl Connelly, New York Times News “Không chỉ là câu chuyện lịch sử súc tích, phong phú đậm chất văn hóa và phiêu lưu, Truy tìm Dracula còn là một truyện trinh thám thần bí thông minh và đáng đọc.” - Lev Grossman, Time Tác giả Elizabeth Johnson Kostova: Nhà văn Elizabeth Johnson Kostova Elizabeth Johnson Kostova sinh năm 1964 tại Mỹ, tốt nghiệp đại học Yale và lấy bằng Thạc sĩ Văn chương tại Đại học Michigan. Tháng Năm 2007, Elizabeth Kostova thành lập một quỹ mang tên cô. Quỹ này sẽ hỗ trợ việc sáng tác và dịch thuật các tác phẩm văn học đương đại của Bungari, đồng thời tăng cường tình hữu nghị giữa các tác giả Bungari vàcác tác giả Anh, Mỹ. Elizabeth Kostova vừa ra mắt tiểu thuyết mới nhất, “The Swan Thieves”, vào ngày 12 tháng 1 năm 2010 vừa qua. Mời các bạn đón đọc Truy Tìm Dracula của tác giả Elizabeth Johnson Kostova.  
Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp - Andrew Lang
Tên ebook: Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp (full prc, pdf, epub) Tác giả : Andrew Lang Thể loại: Cổ đại, Sách hay, Tiểu thuyết, Thần thoại, Văn học phương Tây Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa thông tin Xuất bản năm:  2008 Khổ: 13 x 20.5 cm Số trang : 556 Thực hiện ebook : hoi_ls Nguồn: thuvien-ebook.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp - Andrew Lang Giới thiệu: Thành Troy có thực sự tồn tại hay không? Cuộc chiến và con ngựa khổng lồ thành Troy là huyền thoại hay là một thực tế lịch sử? Theo sử thi Iliad của Hy Lạp, hoàng tử Paris thành Troy đã "nẫng" mất nàng Helen xinh đẹp tuyệt trần từ tay vua Hy Lạp Menelaus chồng nàng. Vì hành động này mà hai nước vốn giao hảo với nhau bỗng nổi can qua, và cuối cùng người anh hùng Achilles đã dẫn đoàn quân Hy Lạp sang vây hãm thành Troy để "rửa mối quốc nhục". Theo truyền thuyết, nhà thơ Homer viết thiên sử thi này vào khoảng thế kỷ VIII - IX trước CN, sau cuộc chiến tranh khoảng vài trăm năm. Phần lớn tác phẩm, từ nhân vật cho đến diễn biến, đều mang nặng màu sắc huyền thoại. Hơn nữa, không có một bằng chứng nào về sự tồn tại của cả Achilles lẫn Helen. Tác giả Andrew Lang: Nhà văn Andrew Lang             Andrew Lang sinh ngày 31 tháng 5 năm 1844 tại Selkirk, Scotland, mất ngày 20 tháng 7 năm 1912. Mọi người thường gọi ông là anh bạn Scots của những lá thư bởi trong suốt cuộc đời mình ông đã viết rất nhiều thư. Ông là một nhà thơ, một nhà tiểu thuyết, một nhà phê bình văn học và là người có nhiều đóng góp cho ngành Nhân loại học. Hiện tại, ông được mọi người biết đến nhiều nhất với tư cách là nhà sưu tầm những câu chuyện dân gian và thần thoại. Tại trường đại học St Andrews, các bài học được đặt tên theo tên của ông.             Ông học tại Học viện Edinburge, Đại học St. Andrews và đại học Balliol, Oxford. Năm 1868, sau khi học xong năm cuối, ông trở thành nghiên cứu sinh và sau này là Hội viên danh dự của Trường cao đẳng Merton. Sau khi tốt nghiệp, ông vừa viết báo, vừa làm thơ, vừa là nhà phê bình và nhà lịch sử, chính vì vậy ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng với tư cách là một trong những nhà văn có tài và có năng lực nhất vào thời bấy giờ. Nhưng chuyên ngành ông dành nhiều thời gian và tâm huyết là Chuyện dân gian và Nhân loại học.             Ngày nay, Lang được biết đến nhờ những cuốn sách về chuyện dân gian, những câu chuyện thần thoại và tôn giáo. Tác phẩm xuất bản đầu tay của ông là Phong tục và thần thoại, Nghi lễ và Tôn giáo (1887), trong hai tác phẩm này ông giải thích những nhân tố "phi lý" của thần thoại chính là những gì còn sót lại của những hình thức nguyên thuỷ. Cuốn Đi theo Tôn giáo của ông chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng Người nguyên thuỷ quý tộc vào thế kỷ XVIII. Trong tác phẩm này, ông đề cập đến sự tồn tại của những ý tưởng tinh thần siêu nhiên giữa những bộ tộc được gọi là "hoang dã", nó tồn tại song song với những mối quan tâm hiện đại vào thời bấy giờ về những sự kiện huyền bí ở nước Anh.   Truyền thuyết thành Troy và Hi Lạp được xuất bản lần đầu tiên năm 1902 bao gồm những câu chuyện mang màu sắc thần thoại, huyền bí, hấp dẫn. Sau đó cuốn sách được tái bản nhiều lần và được in bằng nhiều thứ tiếng trên thế giới. Nó lôi cuốn bao thế hệ trẻ em và cả người lớ cho đến tận bây giờ. Tiếp theo là một loạt các tuyển tập chuyện thần thoại khác của ông được xuất bản, tạo thành Những cuốn sách thần thoại của Andrew Lang. Mời các bạn đón đọc Truyền thuyết thành Troy và Hy Lạp của tác giả Andrew Lang.
Buồn Nôn - Jean Paul Sartre
BUỒN NÔN   Thông Tin     Tên truyện: Buồn Nôn Tác giả: Jean Paul Sartre Dịch: Phùng Thăng Thể loại: Tiểu thuyết, Triết học, Nhật ký, Văn học phương tây. Tạo ebook © Romance Book, 2013 Thực hiện: Summer Scent, Nguyet Anh, Vũ Vũ, Nini Quynh Cảm ơn Russie, thành viên diễn đàn TVE đã scan sách để nhóm thực hiện ebook này. Edit ebook lần 2: Kayako Saeki Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com   Giới Thiệu   Với phương pháp mô tả theo hiện tượng học, nền văn nghệ thời mới đã thực hiện được cuộc hôn phối toàn bích với khoa triết lý. Trong số những triết gia ở trên đỉnh cao của thời hiện đại, Sartre là hình ảnh biểu trưng toàn vẹn cho lời quả quyết trên, nhờ vào thiên tài văn nghệ và sức sáng tác phong phú của ông. Dòng máu văn nghệ luân lưu trong huyết quản Sartre đã chuyên chở đến cho quần chúng độc giả những chất liệu cần thiết để đi vào tư tưởng Sartre, và còn gây nhiều ảnh hưởng quan trọng hơn là những bộ tiết luận vĩ đại của ông. Tác phẩm Buồn Nôn (La Nausée, 1938) là một trong số những tác phẩm giá trị nhất của nền văn học thế kỷ thứ XX, đồng thời cũng là tác phẩm thuộc vào loại khó đọc, vì ngoài giá trị về phương diện thẩm mỹ, tác giả còn muốn đưa ta chạm mặt thực sự với một trực giác nguyên uỷ, làm trung tâm điểm cho nền hiện sinh vô thần của ông: trực giác về hiện hữu của sự vật. Tất cả cố gắng của Roquentin – nhân vật chính và cũng là tác giả tập Nhật ký này - nhằm xoáy sâu cái nhìn, xuyên thủng qua những lần vỏ ngoài bao bọc, đề đạt đến tri kiến đích thực về bản chất của thực tại. Tri kiến ấy là tri kiến của hiện tính (existence) của vạn vật. Sự vật hiện hữu. Sự hiện hữu ấy mang tính chất lầm lì, dày đặc, bất khả giải ngộ và ngẫu nhiên. Chính cái tính cách bất tất (contingence) của sự vật là chất men gợi dậy cơn Buồn Nôn. Người ta bị đẩy vào trong cõi bao la đồng nhất của hiện hữu, một hiện hữu thoát vượt ra ngoài mọi tương quan để chỉ còn giữ lại mối tương quan duy nhất là tính chất “dư thừa” của những sự vật với nhau. Tất cả dư thừa nên tất cả đều là phi lý. Mọi sự đều phi lý: đây không phải là tiếng kêu phẫn hận với cuộc đời mà là một nỗi cay đắng âm thầm phát sinh từ trực giác về hiện hữu của sự vật. Ông cho tận cùng nỗi cay đắng ấy, con nguời lại tìm thấy sinh lộ giải phóng trực giác về hiện hữu dẫn đến sự khước từ Thượng đế và tự do trong trách nhiệm để tự thể hiện lý vận mệnh của mình. Người ta đã có lý khi xem Buồn Nôn là khai từ thơ mộng cho thiên triết luận hữu thể và vô thể, hồng tâm của tư tưởng Sartre. Giờ đây, chỉ còn buông mình theo lời kể và dần dà đánh thức dậy anh chàng Roquentin đang ngủ im trong mỗi người chúng ta.