Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khói Lửa

Henri Bacbuyxơ (Henri Barbusse, 1873 – 1935) là một nhà văn cách mạng lớn đã đặt nền móng cho phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Pháp. Ông là một chiến sĩ cộng sản kiên quyết bênh vực những kẻ bị áp bức bóc lột, dũng cảm đấu tranh cho tự do và tiến bộ. Hội nhà văn quốc tế đánh giá ông là “người chiến sĩ phản đối chiến tranh đế quốc đầu tiên và lớn nhất trong văn học thế giới”. Và G. Đimitrôp viết: “Tên tuổi của H. Bacbuyxơ sẽ chói lòa trên những lá cờ của hàng triệu người đấu tranh chống lại thế giới cũ, thế giới của sự bóc lột, của sự nô lệ và của những cuộc chiến tranh ăn cướp”.[1]   Henri Bacbuyxơ sinh ngày 17 tháng 5 năm 1873 tại Axnierơ (quận Xen) nước Pháp. Cha ông, Anđriên Bacbuyxơ, là một nhà viết báo và viết kịch. Mẹ, Eni Benxơ, là con một chủ trại ấp người Anh. Bà mẹ chết lúc Bacbuyxơ mới lên ba tuổi.   Lúc còn là học sinh, Bacbuyxơ đã tỏ ra có biệt tài về văn thơ. Năm 1895, sau khi tốt nghiệp đại học, ông chính thức bước vào nghề viết văn, làm báo. Cũng chính năm đó, ông cho xuất bản tập thơ đầu tay, một tập thơ được Catuylơ Mendet (một nhà thơ Pháp nổi tiếng đương thời) hết sức ca ngợi.   Năm 1903, Bacbuyxơ viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Những người van xin (Les suppliants) và năm 1908 viết cuốn Địa ngục (L’Enfer). Hai cuốn này được các nhà văn Mateclink và Anatôn Franxơ coi là những tác phẩm lớn của một nhà văn có thiên tài.   Trong giai đoạn sáng tác này, Bacbuyxơ đã bắt đầu đi theo phương hướng hiện thực chủ nghĩa, nhưng mãi đến những năm chiến tranh 1914 – 1918, ông mới thực sự bước vào con đường sự nghiệp của một nhà văn và nhà chiến sĩ cách mạng.   Ngày 19 tháng 7 năm 1914, cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Nguyên nhân chủ yếu của cuộc chiến tranh này là những mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa bọn đế quốc Anh và đế quốc Đức. Với mục đích đòi chia lại thị trường thế giới, ngay trong những năm 1879 – 1882 Đức đã liên minh với Áo, Hung và Ý nhằm chống lại Nga, Pháp và Anh. Và từ đầu thế kỷ XX, ở châu Âu đã dần dần thành hình hai phe đối địch. Cuộc chiến tranh thế giới năm 1914 đã lôi cuốn 28 nước với số dân trên một tỷ rưỡi, và có đến 74 triệu người bị động viên.   Lúc đó, Henri Bacbuyxơ đã ngoài bốn mươi, đã quá tuổi tòng quân. Nhưng dù tuổi cao, sức yếu, ông vẫn tình nguyện gia nhập quân đội. Ông vào quân đội không phải để phiêu lưu, mạo hiểm mà là để làm bổn phận đối với tổ quốc và nhìn cho rõ thực chất ghê tởm của chiến tranh đế quốc, đặng vạch trần nó, góp phần tiêu diệt nó. Tháng chạp năm 1914, ông được điều ra mặt trận với trung đoàn bộ binh 231, sống với một tiểu đội mà ông đã mô tả sâu sắc trong tác phẩm Khói lửa (Le Feu) bất hủ.   Sau những ngày lăn lộn ở chiến hào, sát cạnh những người lính bình thường, hàng ngày đụng đầu với gian khổ, khủng khiếp và chết chóc, Bacbuyxơ mang về hậu phương một quyển sổ ghi chép bết bùn. Từ quyển sổ tầm thường ấy, bắt đầu từ cuối năm 1915 và sau 6 tháng, Khói lửa ra đời.   Từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1916, Khói lửa được đăng dần trên báo Sự nghiệp, (Œuvre), bị kiểm duyệt cắt mất nhiều chỗ, và năm 1917, được xuất bản thành sách. Ngay từ lúc đầu, độc giả đã nhiệt liệt hoan nghênh, mặc dầu những công kích của bọn sô vanh chủ nghĩa. Tác phẩm đoạt giải thưởng Gôncua (Goncourt) và đến nay đã được dịch ra trên sáu mươi thứ tiếng.   Sau Khói lửa, cuốn Ánh sáng (Clarté), ra đời năm 1919, là một tác phẩm khác nổi tiếng của Bacbuyxơ. Ánh sáng có thể được coi là tiếng lòng của tác giả và của cả một lớp người trẻ tuổi đáp lại tiếng vọng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga. Viết Ánh sáng, H. Bacbuyxơ đã gửi vào đấy một mối hy vọng: Từ cảnh chết chóc của chiến tranh, do sức mạnh của quần chúng, một thế giới mới sẽ ra đời, trong đó con người được nảy nở toàn diện và cuộc sống thật là tốt đẹp.   Từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, Bacbuyxơ càng ra sức hoạt động chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Ông đã thành lập Hội cựu binh và thương binh ở Pháp (năm 1919) và Tổ chức cứu tế của Cựu binh sĩ (năm 1920). Cũng năm 1920, cùng với Raymôn Lơfevrơ (Raymond Lefevre) và Pôn Vayăng Cutuyriê (Paul Vaillant Couturier), ông sáng lập tạp chí Ánh sáng, cơ quan của nhóm Ánh sáng, một nhóm còn có tên là Tổ chức quốc tế của tri thức. Trong những năm đầu, tạp chí Ánh sáng đã có ảnh hưởng khá lớn, được sự cộng tác của các nhà trí thức tiến bộ toàn thế giới.   Từ năm 1917, trong những bài báo và diễn văn của mình, Bacbuyxơ luôn luôn lên tiếng ca ngợi Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa cộng sản. Đến năm 1923, giữa lúc chính phủ phản động Pháp ráo riết đàn áp phong trào của giai cấp công nhân, lùng bắt các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản, Henri Bacbuyxơ đã chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Ông tuyên bố: “Tôi đã lấy tư tưởng của họ làm tư tưởng của tôi thì ngày nay tôi phải chịu đựng những gian nguy mà họ phải chịu”.   Dưới lá cờ của Đảng, H. Bacbuyxơ càng có thêm nhiệt tình và phương hướng đúng đắn đấu tranh cho chân lý, cho sự nghiệp giải phóng những người bị áp bức bóc lột. Tiếng nói chính nghĩa của ông đã không ngớt vang lên tố cáo mọi bất công và tàn bạo. Năm 1925, ông đã kêu gọi chống chiến tranh xâm lược Marôc. Khi bọn thống trị ở Bancăng tiến hành khủng bố trắng đối với nhân dân vùng này, ông đã sang tận nơi điều tra, đã thành lập những ủy ban bảo vệ nhân dân của cuộc khủng bố và lúc về nước Pháp, đã viết bản tố cáo đanh thép Những tên đao phủ (Les bourreaux) (1925).   Cạnh những hoạt động chính trị có ý nghĩa lớn đó, Bacbuyxơ vẫn hăng say tiếp tục sự nghiệp văn học của mình, một sự nghiệp văn học tích cực phục vụ hoạt động chính trị chân chính. Năm 1925, ông cho xuất bản cuốn Những sự trói buộc (Enchainements) một cuốn sách vạch trần nguyên nhân đầu tiên của mọi tội lỗi: nạn người bóc lột người.   Năm 1926, cuốn Sức mạnh (Force), tập truyện ngắn, và năm 1927, cuốn Jêdu (Jésus) của ông ra đời. Cũng trong năm 1927, Bacbuyxơ đã đi thăm Liên-xô, và ở Mạc-tư-khoa, ông đã tham dự vào việc thành lập Tổ chức quốc tế của các nhà văn cách mạng, mà sau này ông là một trong những người lãnh đạo. Khi trở về Pháp, ông đã viết cuốn Đây, người ta đã làm gì cho xứ Georgi (Voici ce qu’on a fait de la Géorgie) (1927). Năm 1928, Bacbuyxơ sáng lập tờ tuần báo Thế giới (Le monde). Tờ báo được coi như là một công cụ để giải phóng trí thức và là cơ quan liên lạc của những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa.   Năm 1932, Bacbuyxơ viết tác phẩm Đời Zôla (La vie de Zola). Trong công trình lịch sử và phê bình văn học này ông đã vạch rõ tác dụng tích cực và những hạn chế của Zôla và của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học. Ông cũng đã trình bày tính chất và nhiệm vụ của văn học là phải thật sự hiện thực và phải phục vụ cho sự nghiệp giải phóng con người.   Trong những năm cuối cùng của đời mình, Bacbuyxơ đã ra sức chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh đang đe dọa thế giới, mặc dầu sức khỏe của ông ngày càng giảm sút. Ông đã tham dự và lãnh đạo nhiều cuộc hội nghị quốc tế chống chiến tranh và chủ nghĩa phát xít. Năm 1933, ông đã sang tận nước Mỹ nói chuyện trước nhiều cuộc mít-tinh và thành lập Liên đoàn chống chiến tranh và chủ nghĩa phát xít ở châu Mỹ.   Xtalin một thế giới mới nhìn qua một con người (Staline, un monde nouveau vu à travers un homme) ra đời năm 1935, là tác phẩm cuối cùng của đời ông. Trong cuốn sách này, ông đã hết lòng ca ngợi ý chí, tài năng của Xtalin, người đồng chí, người bạn và người kế nghiệp của Lênin.   Tháng 7 năm 1935, nhận lời mời của các nhà văn Xô-viết, ông lại sang thăm Liên-xô và đã tham dự Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế cộng sản. Lúc này, thân thể ông đã suy nhược, lại bị bệnh sưng phổi, nên ngày 30 tháng 8 năm 1935, ông đã từ trần tại Mạc-tư-khoa.   Nhân dân Pháp, nhân dân Liên-xô và nhân dân thế giới hết sức thương tiếc Henri Bacbuyxơ. Suốt trong ba ngày, nhân dân thành phố Mạc-tư-khoa liên tục diễu qua trước linh cữu ông. Sau đó, linh cữu ông được đưa về Pháp và ngày 7 tháng 9 tang lễ đã được cử hành trọng thể ở Pa-ri.   Đối với Việt Nam chúng ta, thân thế và sự nghiệp văn học của Henri Bacbuyxơ đã có ảnh hưởng lớn đến các nhà văn và các nhà hoạt động cách mạng ngay trong những năm trước Cách mạng tháng Tám. Bacbuyxơ đã nghiêm khắc lên án chế độ thuộc địa vô cùng tàn bạo của thực dân Pháp. Đã từ lâu, báo chí Việt Nam đã có những bài giới thiệu H. Bacbuyxơ như một nhà văn dùng nghệ thuật của mình để phục vụ nhân dân, phục vụ chân lý, phục vụ chủ nghĩa xã hội.[2]   Khói lửa mà Henri Bacbuyxơ gọi là “Nhật ký của một tiểu đội” và đề tặng hương hồn những bạn đồng đội đã hy sinh bên cạnh mình ở Cruy và trên sườn đồi 119, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng không những trong sự nghiệp sáng tác của Bacbuyxơ mà cả trong nền văn học hiện đại Pháp.   Có thể khẳng định rằng giá trị chủ yếu của Khói lửa là ở chỗ đã chống đối mãnh liệt chiến tranh đế quốc. Annet Viđan (Annette Vidal), nữ thư ký của H. Bacbuyxơ, đã từng phân tích Khói lửa, coi đó là cuốn tiểu thuyết của chiến tranh, của chiến hào, của người lính, của sự thật và là cuốn tiểu thuyết viết cho nhân dân. Ý nghĩa phản đối chiến tranh đế quốc của tác phẩm biểu lộ trước hết ở chỗ vạch trần sự thật khủng khiếp và cái vô lý của chiến tranh.   Trong Khói lửa, những người phải trực tiếp ra mặt trần phần lớn là công nhân, nông dân và dân nghèo. Lấy tiểu đội của tác giả làm ví dụ: hầu như không có ai là nghệ sĩ, tri thức hoặc tư sản. Dưới bề ngoài bình thường và phức tạp, họ chứa chất những tình cảm dịu hiền, lành mạnh. Họ hết sức thương yêu bố mẹ, vợ con, làng mạc, quê hương, trân trọng giữ từng lá thư nhà để sưởi ấm lòng. Blerơ đã từng chăm chú mài giũa làm chiếc nhẫn tặng vợ, Fuiat những lúc rảnh rỗi đã từng mơ tưởng về quê hương yêu dấu. Pôteclô vì mong thấy mặt vợ mà quên hết mọi gian nguy và trước hoàn cảnh éo le, những ý nghĩ ghen tuông của anh đã pha trộn nhiều niềm tha thứ. Lamuydơ coi trọng tình đồng đội, nhiều lúc quên mình để cứu bạn. “Họ không phải là lính tráng, họ là những con người…”. Nhưng chiến tranh đã bắt buộc người lính làm những điều trái ý muốn và tâm tư của họ. Ở trận địa có khi họ đánh đổi một mạng người lấy một bao diêm, một cặp ống chân lấy một đôi bốt. Họ phải trở thành ích kỷ, phải xoay sở, giành giật lẫn nhau. Có người đã phải kêu lên: “Tiến đến đây, thì ai cũng như thú dữ. Sống mãi như súc vật rồi đến thành súc vật cả nút”… Chiến tranh còn là chia ly, tan tác. Một lá thư của Bikê gửi an ủi mẹ, một bà mẹ suốt đời chỉ sống vì con bị trả về tiểu đội anh khi anh đã vĩnh viễn lìa đời: chiến tranh đã đẩy mẹ anh phiêu bạt không biết đi đâu. Lamuydơ bị đạn đại bác cướp mất Ođôxi và, khi anh được tự do gần nàng, ôm nàng thì nàng đã thành một trong những cái xác rữa nát, hôi thối dưới cái hầm bị sập. Và Pôteclô lìa đời trong lúc hình ảnh vợ anh cười nụ bên cạnh mấy thằng sĩ quan Đức trong căn buồng đầy ánh sáng, ở miền bị Đức chiếm, chưa làm anh hết băn khoăn. Cả một tiểu đội gồm 17 người, đến cuối tác phẩm bị tiêu hao gần hết. Cảm động nhất là cái chết của Mexin Anđrê. “Hắn có sáu anh em… Bốn đứa đã ngoẻo rồi, hai đứa nghoẻo ở Anđat, một ở Sampanhơ và một ở Acgôn…” Và Mexin cũng đã hy sinh.   Trong lúc ấy, bọn giàu sang ở thành thị coi chiến tranh chỉ là một việc bình thường, và cho rằng mỗi người một nghề, chúng ở hậu phương buôn bán, bóc lột làm giàu, công lao cũng không kém những người ra trận!   Bên cạnh việc mô tả đầy tính chất hiện thực cuộc chiến tranh đế quốc với những thảm trạng và bất công của nó; Khói lửa còn phản ánh được quá trình giác ngộ của những người lính. Lúc đầu, họ hục hặc với tất cả, họ phá phách và đôi khi độc ác. Dần dần sự phản ứng ấy đã hướng được vào đúng chỗ. Từ thái độ đối với bọn nhà báo bồi bút, đến sự phản kháng có ý nghĩa trước cái chết của Caja, và cơn phẫn nộ đối với bọn phục hậu, dần dần, người lính đã thấy rằng “một sự khác biệt bắt đầu hình thành giữa những con người, một sự khác biệt thật sâu xa, không thể dung hòa được… sự khác biệt giữa những kẻ bóc lột và những người phải làm quần quật, phải hy sinh tất cả… còn những kẻ khác thì giẫm đạp lên họ, tiến lên, mỉm cười và toại nguyện…”. Bước đầu giác ngộ giai cấp đã khiến họ có những suy nghĩ đúng đắn về chiến tranh: “… từng đoàn quân chui vào lò sát sinh là để cho một giai cấp đeo lon vàng có thể ghi tên tuổi quí phái của chúng vào lịch sử, để cho những kẻ cũng đeo đầy vàng, cũng thuộc vào một đẳng cấp như bọn kia có thể ôm đồm kinh doanh nhiều hơn để phục vụ cá nhân chúng…” Họ biết mình sinh ra là để làm những người chồng, người cha, làm những con người đúng với nghĩa của nó, chứ không phải để làm những con thú dữ cắn xé nhau, gieo khổ cho nhau. Cái băn khoăn của Mactơrô về bọn lính Đức không thích xung phong mà sao vẫn cứ phải ra trận, câu chuyện của anh lính phi cơ ở trạm cấp cứu về những lời cầu nguyện giống nhau trong một buổi sáng chủ nhật của lính Đức và lính Pháp, càng khẳng định thêm tội ác gây chiến của bọn thống trị bóc lột. Họ đã tự đặt nhiệm vụ phải tiêu diệt chủ nghĩa quân phiệt ở Đức và ở tất cả các nước một khi nó bành trướng đến và phải trừ khử chiến tranh ngay trong lòng tất cả các nước. Mục tiêu chiến đấu của họ là rồi đây phải chống những điều tội lỗi chứ không phải chống riêng một nước nào. Xã hội cần có một sự đổi thay và họ “hé thấy một cuộc Cách mạng nào đó lớn lao hơn cuộc cách mạng kia[3]”.   Khi nắm được thực chất của chiến tranh đế quốc, họ đã xác định được lòng tin, tin ở sức mạnh của mình, tin ở ngày mai tươi đẹp, tin rằng xã hội xấu xa sẽ mất, chiến tranh sẽ bị tiêu diệt và tương lai sẽ rực rỡ, vì mặt trời vẫn tồn tại.   Vạch trần được nguyên nhân của chiến tranh, nêu được những mâu thuẫn xã hội, Khói lửa còn đề cao được mối tình quốc tế mới nhóm trong lòng những người lính bị đưa ra mặt trận. Trong bao nhiêu đau khổ và mất mát chung, lính Đức và lính Pháp dần dần hiểu nhau hơn, bước đầu thấy sự phân biệt chủng tộc là một điều vô lý và bịp bợm. Những người lính Pháp coi việc giết được nhiều lính Đức là một điều tội lỗi hơn là một vinh quang. Và lính Đức cũng thế, cũng chửi rủa chiến tranh, chửi rủa cấp chỉ huy của họ. Ở phần cuối của tác phẩm, những bọn dân tộc hẹp hòi được coi là quân dòi bọ và viên cai Bectrăng đã lớn tiếng ca ngợi Lepnick, một lãnh tụ của nhân dân Đức là “nhân vật đã vươn cao mình lên trên cuộc chiến tranh và sẽ luôn luôn sáng ngời vì lòng gan dạ đẹp đẽ và lớn lao…”   Khói lửa đã nghiêm khắc lên án chiến tranh đế quốc giữa lúc đa số đảng trong Đệ nhị quốc tế phản bội quyền lợi của giai cấp công nhân, chạy theo ủng hộ chiến tranh, giữa lúc bọn Trôtxky đề ra luận điệu lừa bịp “không thắng, không bại” nhằm lợi dụng chiến tranh chống lại bước tiến của Cách mạng. Khói lửa là tiếng nói của sự thật vọng lên từ những chiến hào bùn lầy, tuyết đọng, đầy thiếu thốn, và chết chóc. Khói lửa động viên và tập hợp những lực lượng trước kia còn phân tán để chống chiến tranh một cách tích cực hơn.   Không những về mặt nội dung, mà cả về phương pháp nghệ thuật, Khói lửa là một hiện tượng rất mới, rất đặc biệt, rất có ý nghĩa trong văn học Pháp đương thời. Giữa lúc văn học Pháp và văn học các nước phương Tây nói chung vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đang ngày càng sa vào những khuynh hướng đồi trụy, không lối thoát, giữa lúc chủ nghĩa tự nhiên còn ảnh hưởng khá sâu sắc đến các nhà văn có khuynh hướng tiến bộ, Khói lửa đã mang nhiều yếu tố của chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ngòi bút của Bacbuyxơ vừa phê phán sâu sắc, vừa gợi lên ý niệm về tương lai, bước đầu gây lòng tin tưởng ở cái mới rồi đây sẽ thắng cái cũ.   Điều chủ yếu là trong Khói lửa, Bacbuyxơ đã sử dụng một ngòi bút hiện thực thật sinh động. Chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi phải xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Khói lửa, như tác giả đã gọi, chỉ là một tập nhật ký, một tập ghi chép, không phải là một cuốn tiểu thuyết, không tập trung vào một nhân vật nhất định nào cả. Nhân vật ở đây là cả một tiểu đội binh sĩ, mỗi người một khía cạnh, một sắc thái đúc lại làm thành điển hình người lính Pháp trong đại chiến thế giới lần thứ nhất. Cảnh trong Khói lửa cũng thường thay đổi: khi là những chiến hào lầy bùn, âm u và ghê rợn, khi là chặng đường hành quân dài dằng dặc, khi là chỗ trú quân nơi sơn cước, khi là mặt trận khói đạn mù trời, khi là nơi hậu phương lúc nhúc những bọn phục hậu hèn nhát, khi là một làng đã hoàn toàn bị chiến tranh san phẳng v.v… Những cảnh đó, cộng lại, tiếp nhau, đã khiến người đọc hình dung được phần nào hình ảnh nước Pháp điêu đứng trong chiến tranh và làm thành môi trường hoạt động của nhân vật người lính.   Đối với nhà văn hiện thực, những chi tiết của cuộc sống có tầm quan trọng đặc biệt. Chi tiết đưa vào đúng lúc, đúng chỗ, sẽ phản ánh được cụ thể bản chất của sự vật, nâng cao thêm tác dụng phê phán. Bacbuyxơ đã thành công nhiều ở điểm này. Ông đã mô tả sự thật đúng như sự thật, nhưng đã mô tả có khuynh hướng. Không bỏ sót một tí gì tai nghe mắt thấy, ông đã để cho sự vật tự nói lên kết luận, làm cho người đọc với lương tâm và lý trí của họ, thấy hết những đen tối, xấu xa của chiến tranh đế quốc. A. Ivasenkô, tiến sĩ ngữ văn Liên-xô đã nhận xét: “Bacbuyxơ liên miên bất tận trong những mô tả tàn khốc, vì bản thân thực tại cũng tàn khốc. Ở nhà tự nhiên chủ nghĩa, sự thể hiện tự nó là mục đích; ở nhà hiện thực xã hội chủ nghĩa Bacbuyxơ, mô tả cái gì là đứng trên lập trường của một lý tưởng xã hội nhất định và nhằm phục tùng nhiệm vụ tác động đến thực tại về mặt tư tưởng…”[4]   Quan điểm tôn trọng sự thật vì hiểu được ý nghĩa của sự thật đã được Bacbuyxơ biểu hiện khá rõ rệt trong chương “Những lời văng tục”.   Tính chất hiện thực sâu sắc của Khói lửa thực tế đã tác động mạnh mẽ đến người đọc. Một nữ độc giả bình thường đã viết cho Bacbuyxơ: “Đọc xong tác phẩm của ông, tôi như vừa chui ở chiến hào ra…”[5] Có những lá thư khác, gửi từ mặt trận về đã viết: “Ông đã thét lên tiếng thét của chân lý… Tác phẩm của ông là bức tranh của cuộc đời tối tăm như địa ngục của chúng tôi. Chúng tôi cảm ơn ông đã trả thù cho chúng tôi, đã tố cáo chiến tranh, đã vạch cho chúng tôi một tương lai vô cùng vinh quang…”[6]   Cho đến nay (1962) Khói lửa ra đời đã gần năm mươi năm, nhưng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong văn học thế giới. Chủ nghĩa đế quốc vẫn còn, nghĩa là vẫn còn âm mưu gây chiến. Các nước đế quốc, cầm đầu là đế quốc Mỹ đang ra sức chạy đua vũ trang, gây tình hình căng thẳng trên thế giới. Các khối quân sự Bắc Đại Tây Dương, trung tâm, Đông nam Á và các khối quân sự khác đang đe dọa nghiêm trọng hòa bình và an ninh chung. Và ngay trên đất nước ta, đế quốc Mỹ đang tiến hành một cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc đối với nhân dân miền Nam Việt Nam.   Đọc Khói lửa, càng ghê tởm những thảm trạng của chiến tranh, càng căm thù bọn đế quốc gây chiến, nhân dân thế giới càng nâng cao thêm ý chí đấu tranh cho hòa bình. Cái quyết định là lòng người. Khói lửa nhen thêm trong lòng mọi người sự căm ghét chiến tranh, nhất định sẽ góp phần xứng đáng vào việc chặn đứng mọi âm mưu gây chiến. Đối với bạn đọc Việt Nam, Khói lửa sẽ góp phần nung nấu thêm chí căm thù bọn Mỹ – Diệm khát máu, nâng cao thêm quyết tâm đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.   NGUYỄN TRỌNG THỤ – LÊ VĂN TỤNG   Mời các bạn đón đọc Khói Lửa của tác giả Henri Barbusse.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cố Đô - Yasunari Kawabata
Tác phẩm xuất sắc nhất của Kawabata, tiểu thuyết Cố đô kể về cô gái trẻ Chieko, một đứa trẻ bị cha mẹ nghèo xơ xác bỏ rơi và được gia đình thương gia Takichiro nhận nuôi, ở đây cô được nuôi nấng dạy dỗ theo những nguyên tắc truyền thống của Nhật Bản. Chieko là một cô bé nhạy cảm, trung thành, nhưng thầm ấp ủ câu hỏi về thân thế của mình. Ở Nhật Bản, người ta cho rằng một đứa trẻ bị bỏ rơi sẽ khổ ải với tai ương suốt đời, thêm vào đó, theo một quan điểm hết sức lạ lùng của Nhật Bản, trẻ sinh đôi còn chịu sự nhục nhã đáng xấu hổ. Một ngày nọ tình cờ cô gặp một cô gái lao động xinh đẹp trong rừng tuyết tùng gần thành phố và phát hiện ra rằng cô là người em song sinh của mình. Họ gắn kết sâu sắc với nhau vượt qua hàng rào giai cấp xã hội - cô gái thô kệch, làm việc nặng nhọc Naeko và cô gái thanh nhã, luôn được bảo vệ cẩn mật Chieko, nhưng sự giống nhau lạ lùng giữa họ đã mau chóng làm phát sinh rắc rối, phiền toái. Toàn bộ câu chuyện được đặt trong bối cảnh năm lễ hội tôn giáo ở Kyoto từ mùa xuân anh đào nở rộ đến mùa đông lấp lánh tuyết. Cố đô là một trong ba tác phẩm của Yasunari Kawabata được Ủy Ban Giải Thưởng Nobel dẫn chứng khi tặng giải, có cốt truyện phức tạp liên quan tới một cặp chị em song sinh, đã bị chia cách từ lúc mới chào đời nhưng các yếu tố khiến cho các nhân viên cứu xét Giải Thưởng Nobel phải quan tâm, là do tác phẩm đã nói lên các vẻ đẹp của Thành Phố Kyoto và các truyền thống cổ, với các phụ nữ Kyoto còn giữ các vẻ duyên dáng, không bị nền văn hóa phương Tây làm biến chất. Cùng với phần lớn du khách, Kawabata ước muốn rằng lối sống cổ truyền Nhật Bản vẫn được duy trì. Bản thân thành phố thật sự là một nhân vật quan trọng, thủ đô của vương quốc xưa, từng là nơi đóng đô của Thiên hoàng và triều đình, sau hàng ngàn năm vẫn là một thánh địa lãng mạn, quê hương của mỹ thuật và hàng thủ công trang nhã, ngày nay tuy bị khai thác cho du lịch nhưng vẫn là địa điểm thăm viếng được ưa chuộng. Với các chùa chiền phật giáo và các đền thờ Thần đạo, khu thủ công xưa và vườn thực vật, nơi này mang trong nó chất thơ mà Kawabata thể hiện bằng một phong cách dịu dàng, nhã nhặn, không ủy mị mà tự nhiên như một sự hấp dẫn đầy xúc động. Ông đã sống qua thất bại nặng nề của đất nước và nhận thức chắc chắn rằng tương lai đòi hỏi những gì về tinh thần cầu tiến, nhịp điệu và sức sống công nghiệp. Nhưng trong làn sóng hậu chiến của sự Mỹ hóa mạnh mẽ, tiểu thuyết của ông là lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự cần thiết cứu lấy một cái gì đó trong vẻ đẹp và cá tính của Nhật Bản xưa cho một nước Nhật Bản mới. Ông mô tả những lễ nghi tôn giáo ở Kyoto một cách tỉ mỉ như thể chọn mẫu hoa văn trên khăn thắt lưng truyền thống trong trang phục phụ nữ. Những khía cạnh này trong tiểu thuyết có thể có giá trị tài liệu, nhưng độc giả thích thú với những đoạn mô tả sâu sắc như vậy như đoạn tả nhóm người trung lưu của thành phố thăm viếng vườn thực vật - vốn bị đóng cửa một thời gian dài vì lính Mỹ chiếm đóng lập doanh trại ở đó - để nhìn xem những con đường đáng yêu với hàng cây long não có còn nguyên và có thể làm vui sướng những con mắt thành thạo hay không. Với Kawabata, lần đầu tiên Nhật Bản bước vào thế giới những người đoạt giải Nobel văn chương. Điều cốt yếu dẫn đến quyết định này là, với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có tính thẩm mỹ và đạo đức cao (moral-esthetic cultural awareness) bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông Tây theo cách của ông. *** Chieko để ý thấy những đóa hoa tím đã nở trên cây phong. - Ôi cả năm nay nữa chúng cũng nở kìa? - Hơi thở mùa xuân mơn trớn thoảng vào Chieko. Trong khu vườn nhỏ bé cây phong hóa ra đồ sộ, thân nó to ngang hơn chính Chieko nhiều lắm. Nhưng lẽ nào có thể đem cái thân cây đầy rêu, phủ lớp vỏ chai sần, nứt nẻ, sánh với thân hình con gái của Chieko... Vừa đúng ngang tầm eo lưng, cây phong hơi vẹo về bên phải, rồi đến đoạn cao hơn đầu nàng lại thoắt vươn sang phải thành một vòng cung mà chính từ khúc cong này cành tỏa ra mọi phía, che phủ cả khu vườn. Những cành dài trĩu xuống vì sức nặng bản thân chúng, chạm đầu cành tới đất. Dưới chỗ thân cây đột ngột uốn cong một chút là hai hốc lõm con con, nơi những cây hoa tím mọc. Cứ xuân sang chúng lại trổ hoa. Trong chừng mực mà Chieko còn nhớ được thì trên thân cây vốn bao giờ cũng có hai khóm hoa. Khóm trên cách khóm dưới một khoảng trọn một xiaku 1. Khi đã là cô gái trưởng thành, Chieko thường hay tư lự: liệu có khi nào hai cây hoa tím trên dưới gặp được nhau không? Liệu chúng có biết đến sự tồn tại của nhau không? Nhưng với chúng thì các chữ "gặp", "biết" mang được ý nghĩa gì kia chứ?... Hoa nở không nhiều - thấy chỉ ba đến năm vành hoa nhỏ là cùng. Nhưng dù sao cứ xuân sang, trong hai hốc nhỏ bé trên thân cây phong, chồi mới lại nhú lên, hoa lại nở. Chieko thường ngắm hoa từ chỗ lối đi, hoặc khi đứng trước gốc cây. Nàng nhìn chúng, mắt ngước từ khóm dưới lên khóm trên mà lòng bồi hồi, lúc lấy làm ngạc nhiên cho "kiếp sống" khác thường ấy của loài hoa tím, lúc cảm thấy một cảm giác cô đơn đôi khi đến lạ. - Chính đây là nơi chúng đã lớn lên...Rồi sống...- nàng thầm thì. Khách khứa đến cửa hàng vẫn tỏ vẻ thán phục cây phong nhưng hầu như chả có ai để ý thấy những cây hoa tím đang khiêm nhường trổ hoa. Cái cây cổ thụ làm người ta kinh ngạc bằng sức mạnh của mình, mà khúc thân mọc điểm rêu xanh gợi ra sự nể trọng và tạo thêm cho cây phong một nét mỹ cảm riêng. Hai khóm hoa tím nhỏ nhoi, nương náu trên đó, dường như lu mờ hẳn trong khúc ngợi ca sự hùng vĩ và vẻ đẹp kia. Mời các bạn đón đọc Cố Đô của tác giả Yasunari Kawabata.
Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà - Nguyễn Đức Thiện
NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: .Viển vông quá phải không anh. Ngày mai em có thể chắng còn gặp anh nữa. Ngày mai có thể anh, có thể em sẽ là người của thiên cổ (Cũng sắp rồi còn gì). Ngày mai, có thể sẽ ngưng lại tất cả chấm dứt vòng quay trái đất… Thì em cũng cảm ơn anh đã trả cho em một chút tuổi trẻ. Cũng như anh đã từng cảm ơn em cho anh biết lại một thời nồng nàn. Chỉ nên thế thôi, cho ngày mai còn có mơ ước. Dẫu có muộn màng Đừng hôn em nữa, đủ rồi" NGƯỜI ĐÀN ÔNG NGHĨ: Nhưng không có sự đam mê của người thì sao? Ta sẽ đam mê một mình. Ta cứ mê ta. Một mình thôi, để chẳng làm phiền ai, và cũng chẳng ai làm phiền mình. Có vậy thì ta mới sống. Hãy cứ tin ở ta cái đã. NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: Nghe chuyện người ta đã khóc. Khóc vì một nỗi bất hạnh. Người đàn bà cô đơn, yêu cho đến chết một người không bản lĩnh. Giống như ta, đã một thời như thế. Người đàn ông ấy chỉ dám yêu mình không dám làm gì, chẳng dám vượt qua một chút trở ngại của cuộc đời. Họ sống hạnh phúc bên vợ và yêu hạnh phúc một người đàn bà khác. Họ lãng mạn và yếu hèn. Người đàn ông ấy hiền lành và không xứng đáng với một nửa trái tim ta. Bất chợt từ cõi lòng ta một nỗi chán chường đến kinh khủng, ta muốn từ bỏ hết thảy mọi người. Đừng ai yêu ta. Lũ đàn ông rồi sẽ phản bội. Ta thích một mình...)​ *** Bây giờ thì ông chỉ còn có một mình. Một mình trong căn nhà bé như cái hộp diêm quẹt. Bà ấy không đến, và ông cũng không đi tìm bà. Giữa hai người đã một lần, và chỉ có một lần bừng cuộn lên, nhưng rồi lại lắng xuống một hòn đá làm cho nó cuộn lên, nhưng khi những vòng tròn xoáy nước khép lại, thì mặt ao lại phẳng lặng như tờ. Lâu lâu có ngọn gió thổi qua, mặt ao dềnh lên chút ít nhưng cũng đủ gợn lên những con sóng, nhấp nhô, nhấp nhô. Ông thắp nhang lên bàn thờ. Mỗi ngày ông thắp một nén, loại nhang thơm. Không biết có khi nào ông có thể quên thắp nhang không. Nhưng đã thành quen rồi, đêm khi đi ngủ ông không thể thiếu mùi nhang toả ra từ trên bàn thờ. Có những lúc ông nghĩ, ông đang thắp nhang cho chính mình. Lại có lúc ông tưởng như thắp nhang cho một mối tình tưởng còn mà mất, tưởng mất mà còn và tưởng có mà không. Một đời người chỉ thế thôi ư. Ngày nào còn tươi trẻ là thế, nay đã nắng quá chiều hôm. Gắt gao đấy nhưng ngày đang tàn dần. Ông nhớ bà, nhưng hình như cái nhớ nó cũng khác ngày xưa khi còn trẻ. Khi còn trẻ, nhớ ai thì nhớ cồn cào, da diết và chỉ có nhớ người đó mà thôi. Nay nỗi nhớ cứ bị xen vào bởi những suy nghĩ khác. Nhớ mà chẳng đắm đuối chút nào. Nó cứ vẩn vẩn, vơ vơ, không như thời trai trẻ. Thèm gặp đấy nhưng rồi chợt nghĩ đến chuyện khác thế là lại quyên. Nhớ cũng vô tình mà nhớ, và quên cũng vô tình quên. Khi không lúc này mà còn gặp nhau. Trời sắp đặt đấy. Chớ cái tuổi ăn phải cái gì cưng cứng là phải trệu qua, trạo lại, mấy ai còn nghĩ đến chuyện yêu đương. Vây mà yêu đương mới lạ. Bữa đó, ông buồn, ông cô đơn. Đâu có phải đến khi đó ông mới buồn, mới cô đơn. Lần cuối cùng ông có gia đình cách nay đã hơn mười năm. Sau một cuộc cãi lộn vối người đàn bà mà ông để gần hết một đời người cung phụng, ông đã ra đi. Cuộc cãi lộn không lớn nhưng ông bị xúc phạm. Người ta biểu rằng ông chỉ là thứ người vô tích sự. Người ta biểu ông không lo toan được gì cho gia đình, cả một đời ăn bám. Ông đã ra đi sau một đêm trằn trọc. Và cuối cùng thì người ta ném vào mặt ông một câu: ông bây giờ thừa ra rồi. thì ông đi, ông tự cắt bỏ sự thừa thãi là mình, ra khỏi cái nơi một thời ông gắn bó, giống như người ta tự nguyện lên bàn mổ, cắt đi khúc ruột dư ra khỏi cơ thể mình. Không lẽ ngồi để mà kể ra với người đàn ông đã làm ra những cái gì cho gia đình tồn tại ngần ấy năm trời. Đi với hai bàn tay gần như trống trơn. Bạn bè chỉ cho ông một căn phòng nhỏ, vốn là nhà tập thể ở một cơ quan nào đó. Ông bỏ những đồng tiền cuối cùng để mua căn phòng và làm lại từ đầu trong căn phòng chỉ có mười sáu mét vuông kia. Làm lại từ đầu cho riêng mình thôi, chớ chẳng dại dột gì mà kháp với người đàn bà khác. Đàn bà họ có thế mạnh của họ. Thường trong những cuộc tình, lúc ban đầu thì quến rũ là của đàn ông, quyến rũ xong, quyền chủ động bắt đầu chuyển sang cho đàn bà. Người đàn bà muốn sờ mó đến từng công việc dù là rất nhỏ của của người đàn ông. Họ cho họ cái quyền như vậy. Anh đi đâu? Anh làm gì ở chỗ nào? Lương anh có bao nhiêu. Anh mang làm gì nhiều tiền trong túi thế? Sao người ta điện cho anh ngoài cơ quan mà không thấy, giờ đó anh làm gì ở đâu?… Hằng trăm câu hỏi mỗi ngày. Trả lời kiểu nào cũng không thoả mãn được người hỏi. Khi im đừng trả lời nữa cũng không được. Người ta sẽ biểu: làm sao tôi có thể sống được trong căn nhà cứ im lặng như nhà mồ thế này. Có người mong chế ra được một sợi chỉ vô hình, cột vào chân người đàn ông, để đàn ông đi đâu, đàn bà cũng có thể tìm thấy được nhờ sợi chỉ đó. Nên ông thề cuối đời ông sẽ ở một mình, nhất định là một mình, mấy đứa con gả vợ, dựng chồng hết rồi. Một lũ cháu nội ngoại lúc nào thích thì đến thăm ông, không thích thì thôi. Nhà cửa tài sản ông đã để lại hết, không đòi cho mình cái gì, từ chối luôn phần thừa kế, khiến ông chẳng còn nợ ai và cũng chẳng bắt ai phải nợ gì. Có người khuyên ông ly hôn để để tạo dựng cuộc sống khác, ông cười: ngần này tuổi rồi, đưa nhau rồi ra toà giống con nít bày đặt chuyện làm nư quá. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà của tác giả Nguyễn Đức Thiện.
Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Daniel Ellsberg
Năm 1971, Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc từng tham chiến ở Việt Nam, đã cho công bố 7.000 trang tài liệu tối mật cho báo chí, tạo nên một làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam mạnh mẽ chưa từng có tại Mỹ. Nhận bằng tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard năm 1962, nhưng số phận lại đưa ông đến làm việc ở Bộ Quốc phòng và sau đó ông được phái sang chiến trường Việt Nam. Sau hơn 3 năm ở Việt Nam, làm việc cho cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, năm 1967, Daniel trở về Mỹ, ông được phân vào nhóm nghiên cứu tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng McNamara. Tại đây, ông đã được trực tiếp tiếp xúc với các tài liệu mật của Nhà Trắng và biết rõ kế hoạch muốn leo thang chiến tranh Việt Nam của Tổng thống, mặc dù bề ngoài Nixon và bộ sậu của ông ta ra sức nói dối để bao che cho hành động leo thang và kéo dài cuộc chiến của mình. Là một người yêu chuộng hoà bình và đã từng có thời gian tham chiến tại Việt Nam, hiểu rõ bản chất phi nghĩa của cuộc chiến, Dan đã đánh cược cả cuộc đời mình, sao chụp 7.000 trang tài liệu của Hồ sơ Lầu Năm Góc. Ông bắt đầu công việc này từ năm 1969 và đến năm 1971, ông đã đi đến quyết định làm chấn động nước Mỹ, công bố toàn bộ tài liệu trên tờ Thời báo New York. Dan đã từng nói: Lẽ ra, nếu tôi có thể đưa các tài liệu đó ra từ khi tôi mới vào làm việc tại Lầu Năm Góc và Nhà Trắng, vào năm 1964-1965, thì có thể những tài liệu đó đã góp phần ngăn chặn cuộc chiến". Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) là cuốn hồi ký của Daniel, xuất bản năm 2002, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất, gây xôn xao nước Mỹ. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của Dan và phanh phui những âm mưu dối trá của Tổng thống Nixon và Lầu Năm Góc về cuộc chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, (tháng tám năm 1964). Tháng Ba năm 2006, Daniel trở lại thăm Việt Nam, và được trao Kỷ niệm chương "Vì hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc", tôn vinh những cống hiến không mệt mỏi của ông đã góp phần thức tỉnh dư luận về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ông đã cho phép Nhà xuất bản Công an nhân dân dịch và xuất bản cuốn hồi ký của mình. Sau một thời gian làm việc, cuốn sách đã đến tay bạn đọc. Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn đọc có một góc nhìn đa diện hơn về cuộc chiến và qua đó thấy rõ tâm lòng của một người ở phía bên kia chiến tuyến đối với đất nước nhỏ bé này. *** Tối ngày 1 tháng mười năm 1969, tôi rảo bước nhanh qua phòng bảo vệ của Công ty Rand[I] ở Santa Monica, tay xách một vali chứa đầy tài liệu tối mật mà tôi dự tính sẽ sao chụp trong đêm hôm đó. Số tài liệu này là một phần trong công trình nghiên cứu tối mật gồm 7.000 trang liên quan tới các quyết định của Mỹ ở Việt Nam, sau này được biết đến dưới tên gọi quen thuộc là Hồ sơ Lầu Năm Góc. Phần còn lại nằm trong két đựng tài liệu ở văn phòng của tôi. Tôi quyết định sao chụp toàn bộ và đưa ra công chúng bộ hồ sơ này, hoặc là thông qua các cuộc điều trần tại Thượng viện hoặc là qua báo chí nếu tôi thấy điều đó là cần thiết. Tôi tin rằng tôi có thể sẽ phải ngồi tù suốt đời vì việc làm này. Cuốn hồi ký này sẽ tập trung mô tả quá trình hành động công bố tài liệu của tôi. Trong 11 năm, từ giữa năm 1969 đến khi kết thúc cuộc chiến tranh vào tháng Năm năm 1975, tôi cũng như rất nhiều người Mỹ khác đặc biệt quan tâm tới sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Vào thời gian đó, thoạt tiên tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm hoạ về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác. Ba phần đầu của cuốn sách tương ứng với ba giai đoạn phát triển về nhận thức của tôi. Những sai phạm và hành động sau đó của tôi đã phản ánh quá trình thay đổi nhận thức đó. Khi nhận thức cuộc xung đột chỉ là một vấn đề tôi đã cố gắng góp sức để giải quyết nó, khi nhận ra sự bế tắc, chúng ta (Nước Mỹ - ND) đã cố gắng tư giải thoát mà không gây phương hại tới lợi ích của quốc gia khác, và tôi đã nỗ vạch trần và chống lại cuộc chiến khi ý thức mách bảo nó đã trở thành một tội ác với hy vọng chấm dứt nó càng sớm càng tốt. Qua quá trình nhận thức trên, tôi đã vận dụng nhiều cách khác nhau nhằm tránh khả năng chiến tranh leo thang lên cao hơn. Nhưng gần đến giữa năm 1973, khi tôi phải ra trước Toà án liên bang vì nhũng hành động của tôi vào cuối năm 1969, tôi đã nói không ai, kể cả tôi, thành công trong mục đích và cố gắng của mình. Những nỗ lực nhằm chấm dứt cuộc xung đột - cho dù nó được nhìn nhận như là một cuộc kiểm nghiệm bị thất bại, một vũng lầy hay một sai phạm về mặt đạo lý - dường như cũng chẳng thấm vào đâu so với những cố gắng để chiến thắng trong cuộc xung đột đó. Vì sao? ... Mời các bạn đón đọc Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam của tác giả Daniel Ellsberg.
Những Câu Chuyện Tâm Linh - Gary Zukav
Đây là một quyển sách tập hợp những câu chuyện có thật về hành trình khám phá nội tâm của tôi. Trong đó, đôi khi tôi dùng tên thật của những nhân vật, đôi khi tôi thay bằng những tên gọi khác. Có lúc tôi kể chuyện theo đúng như những gì đã xảy ra trong thực tế, và đôi khi tôi kết hợp nhiều câu chuyện lại làm một. Thi thoảng các câu chuyện không kể lại những sự việc đúng y như chúng xảy ra, nhưng các câu chuyện đó cũng là có thật. Người Lakota, một tộc người thổ dân châu Mỹ, truyền lưu câu chuyện về một phụ nữ cưỡi con nghé màu trắng. Bà là người đã cho bộ tộc của họ cái tẩu thiêng. Một ngày kia, có phóng viên hỏi một cụ già Lakota rằng cụ có tin câu chuyện về người phụ nữ kỳ lạ này là thật hay không. Cụ trả lời: - Tôi không biết nó có thật sự xảy ra đúng theo cách mọi người truyền tụng hay không, nhưng tự bản thân anh có thể hiểu là chuyện đó có thật. Và bạn cũng có thể nhận thấy tất cả những câu chuyện trong quyển sách này đều là thật. Bạn cần nhìn sâu vào bên trong tâm hồn mình để chứng thực điều đó. Mọi câu chuyện về linh hồn, từ quyển sách này hay bạn nghe được ở đâu đó, đều đòi hỏi bạn phải nhìn vào nội tâm mình để biết xem nó có thật hay không. Điều này có thể thật với người này, nhưng lại không thật đối với người khác. Đó là cách tiếp cận của quyển sách về Những câu chuyện tâm linh. Chẳng hạn, có người cho rằng Vũ Trụ ở trạng thái chết, “trơ ỳ” và mọi sự việc trong cuộc sống đều xảy ra tình cờ, ngẫu nhiên. Nhưng người khác, trong đó có tôi, lại nghĩ Vũ Trụ rất sống động, thông thái và đầy lòng trắc ẩn. Nhìn nhận Vũ Trụ chết là một câu chuyện. Nhìn nhận Vũ Trụ sống động lại là một câu chuyện khác. Vậy thì theo bạn, câu chuyện nào là có thật? Chính bạn phải quyết định điều đó. Mỗi câu chuyện trong quyển sách này đều mang đến cho bạn cơ hội để quyết định xem nó có là thật đối với bạn hay không. Cụ già người Lakota nói rằng chính bản thân bạn có thể tự suy xét xem khi nào một câu chuyện là thật, nhưng trước khi suy xét, bạn phải biết về câu chuyện đó trước đã. Có nghĩa là bạn phải suy nghĩ về nó và, thậm chí quan trọng hơn, khám phá xem bạn cảm nhận gì về nó. Bạn có thể đọc tất cả những câu chuyện này trong vài ngày, theo thứ tự, hoặc chọn đọc từng câu chuyện riêng rẽ tùy thích. Vì có tới năm mươi hai câu chuyện, cho nên bạn có thể đọc mỗi tuần một câu chuyện và dành ra thời gian để ngẫm nghĩ về nó. Ngay cả nếu bạn đọc hết tất cả chỉ trong một ngày, bạn vẫn có thể đọc lại chúng, mỗi tuần một câu chuyện chẳng hạn, để có thêm thời gian suy ngẫm về từng câu chuyện. Tôi yêu thích Những câu chuyện tâm linh. Đối với tôi, bất kỳ câu chuyện nào khiến tôi hiểu rõ giá trị bản thân và giá trị của bạn, cũng như khiến tôi hạnh phúc khi biết rằng tất cả chúng ta cùng tồn tại bên nhau kể cả khi mọi việc trở nên khó khăn, thì tất thảy đều là Những câu chuyện tâm linh. Bất kỳ câu chuyện nào giúp tôi quý trọng Trái Đất và nhìn nhận Trái Đất như một Người Bạn Lớn, cũng là Những câu chuyện tâm linh. Tôi hạnh phúc khi chia sẻ Những câu chuyện tâm linh này với các bạn. Mời các bạn đón đọc Những Câu Chuyện Tâm Linh của tác giả Gary Zukav.