Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Mũi Tên

Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Đàn Ông Bí Ẩn - Agatha Christie
Agatha Christie (1890 - 1976) là một trong những nhà văn quan trọng nhất và sáng tạo nhất của thể loại trinh thám. Theo Sách kỷ lục Guinness, Agatha Christie là nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất mọi thời đại của thể loại trinh thám, và đứng thứ hai nếu tính cả các thể loại khác (chỉ xếp sau William Shakespeare). Các tác phẩm của bà ước tính đã được dịch ra 103 thứ tiếng và bán được hơn 2 tỷ bản trên toàn thế giới. *** - Đúng đấy, sự thật là như thế đây. Những người hầu Tây Ban Nha nghĩ là tôi đã cầu nguyện để chồng tôi bình yên vô sự, nhưng đâu phải . Tôi xin chúa trời sức mạnh để mong cho chồng tôi chết đi. Tôi không ngừng nhắc lại lời khẩn câu: "Lạy chúa, xin giúp con không mong anh ấy chết. Lạy chúa, xin người giúp con không mong anh ấy chết". Nhưng vô ích tôi vẫn tiếp tục hy vọng...hy vọng... Và tôi đã được toại nguyện. Chị ta im lặng một lúc rồi nói với giọng thật dịu dàng, khác hẳn khi nãy. - Thật đáng kinh tởm phải không ông? Chuyện như vậy thì không thể quên nổi. Tôi đã mừng rỡ biết bao khi biết là anh ta chết thật rồi, anh ta không thể quay lại hành hạ tôi nữa. Satterthwaite thật sự bị sốc, thì thầm: - Ôi, có chuyện như vậy ư?! - Tôi biết. Tôi còn quá trẻ để trải qua một thử thách như vậy, chuyện này nên xảy đến khi người ta ở một độ tuổi nhất định, khi đã được chuẩn bị kỹ hơn...để chịu đựng mọi khắc nghiệt. Ông thấy không, không có ai biết thực sự chồng tôi thế nào. Khi tôi quen anh ta, tôi thấy anh ta thật tuyệt vời. Lúc anh ta cầu hôn, tôi vô cùng hạnh phúc và tự hào. Nhưng ngay sau đó sự việc diễn ra thật tồi tệ. Anh ta luôn cáu gắt tôi...không vừa ý với bất kỳ điều gì tôi làm - đương nhiên, tôi không nuốt nhịn. Rồi dần dần, anh ta thấy vui thích nếu làm tôi đau, nhất là khiến cho tôi khiếp sợ. Khi đó anh ta thỏa mãn vô cùng. Anh ta tưởng tượng ra các kiểu tai nạn. Tôi không muốn nói chuyện với ông. Tóm lại, tôi nghĩ anh ta mất thăng bằng về trí óc. Ở đây tôi chỉ có một mình, còn quyền uy và sự tàn bạo trở thành niềm say mê của anh ta. (Đôi mắt người đàn bà mở lớn hơn, sẫm lại). Điều tồi tệ là tôi có thai... Nhưng vì những gì chồng tôi bắt tôi phải chịu đựng, khi sinh ra đứa con tôi đã chêt. Con tôi... Tôi muốn chết quách đi, nhưng tôi đã được cứu sống. Vậy đấy. ... Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Bí Ẩn của tác giả Agatha Christie.
Chó Sói Cắn Chó Nhà - Martin Cruz Smith
Chó sói cắn chó nhà là cuốn tiểu thuyết với nhân vật trung tâm là điều tra viên Arkady Renko của nhà văn Martin Cruz Smith. Bối cảnh câu chuyện phần lớn diễn ra ở một vùng đất tối tăm, nơi đã xảy ra thảm họa hạt nhân chấn động thế giới năm 1986 - Cherbobyl. Đó là một miền hoang vắng, chứa đầy hạt phóng xạ, chất độc hại, mà như các nhân vật gọi là “nơi tận cùng thế giới.” Đó cũng là nơi diễn rao toàn bộ những tội ác, các vụ án mạng mà Arkady điều tra. Mở đầu là cái chết của Pasha Ivanov - một doanh nhân thành đạt, một nhà khoa học lỗi lạc, sáng chói của thế hệ Nga mới tại Matxcova. Nhưng rồi, ông ta bất ngờ chết, một cách mờ ám. Rồi một nhà triệu phú khác cũng bất ngờ tử nạn, ông này vừa là bạn nối khố, vừa là đồng sở hữu tập đoàn lớn cùng Ivanov, tại Chernobyl. Arkady đã tới Cherbobyl để điều tra nguyên nhân của những cái chết bí hiểm này. Arkady một mình rong ruổi khắp vùng đất độc hại đó bất kể ngày đêm, từng bước khám phá ra sự thật. Bộ sách Arkady Renko gồm có: Án Mạng Ở Công Viên Gorky (#1) Chó Sói Cắn Chó Nhà (#5) ... *** Martin Cruz Smith sinh ngày 3 tháng 11 năm 1942 tại hoa Kỳ. Martin Cruz Smith xếp hạng nổi tiếng thứ 36200 trên thế giới và thứ 269 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng. Ông theo học tại Đại học Pennsylvania vào đầu những năm 1960, tốt nghiệp với bằng văn bản sáng tạo. Vào giữa những năm 1960, ông bắt đầu làm việc như một nhà báo; ông xuất bản tác phẩm văn học đầu tiên của mình, Người Ấn Độ Won, vào năm 1970. *** Matxcova chìm đắm trong sắc màu. Những ngọn đèn pha lờ mờ ở Quảng trường Đỏ hòa lẫn ánh đèn neon từ các sòng bạc trong Quảng trường Cách mạng. Ánh sáng len lỏi chui lên từ trung tâm thương mại dưới lòng đất ở Manezh. Ánh đèn rực rỡ bao quanh các tòa tháp bằng kính và đá hoa cương bóng loáng, trên đỉnh mỗi tòa là tháp hình chóp nhọn. Thị trưởng thành phố yêu thích những ngọn tháp. Dẫu những mái vòm mạ vàng vẫn thấp thoáng quanh Vành đai Garden*, nhưng hằng đêm máy xúc lại xé toạc thành phố già nua và đào những cái hố ngập tràn ánh sáng ngày càng rộng hơn để nhào nặn nên một Matxcova hiện đại, cao vút như Houston hay Dubai. Đó chính là Matxcova mà Pasha Ivanov đã góp phần xây dựng, một khung cảnh đang chuyển dịch của các mảng kiến tạo, dòng dung nham nóng rực và những sai lầm chết người. Điều tra viên cấp cao Arkady Renko ngó ra ngoài từ cửa sổ tầng mười nhìn xuống thi thể Pasha Ivanov đang nằm trên vỉa hè. Ivanov đã chết nhưng không quá đẫm máu, tay và chân gập lại trong tư thế quái dị. Hai chiếc Mercedes màu đen đỗ ở lề đường, một của Ivanov, và chiếc SUV còn lại dành cho các vệ sĩ của ông ta. Đôi khi Arkady nhận thấy, điểm chung của các doanh nhân thành đạt lẫn những ông trùm mafia ở Matxcova là đều sở hữu hai con Mercedes dòng SS-black của Đức. Ngoài các vệ sĩ từ chiếc xe hộ tống của Ivanov, thì lễ tân và nhân viên điều hành thang máy của tòa nhà cũng được trang bị vũ khí. Hành lang, thang máy dành cho khách, lối đi cho người phục vụ và mặt trước tòa nhà đều gắn máy quay. Pasha đã đến đây lúc 9:28 tối, lên thẳng căn hộ an toàn nhất Matxcova và vào lúc 9:48 thì lao thẳng xuống đường phố. Arkady đã đo khoảng cách từ điểm Ivanov chạm đất tới chân tòa nhà. Nếu là một vụ giết người thì khoảng cách đó thường gần hơn vì nạn nhân sẽ cố gắng vùng vẫy để không bị rơi. Còn nếu là tự tử thì điểm rơi sẽ có một đích đến duy nhất và cách xa hơn. Ivanov gần như đã chạm tới lòng đường. ... Mời các bạn đón đọc Chó Sói Cắn Chó Nhà của tác giả Martin Cruz Smith.
Chậm Một Bước - Henning Mankell
Một ngày hạ chí ở Skåne, tỉnh xa xôi nhất miền Nam Thụy Điển. Ba người bạn trẻ hẹn nhau trong một cánh rừng, và trong bóng chiều chạng vạng, họ mặc trang phục của thế kỷ 18 và làm bộ như trong một bữa tiệc hóa trang – ngay trước mắt cái gã đang theo dõi họ. Kẻ-quan-sát-bí-mật này nhanh chóng đặt dấu chấm hết cho màn trình diễn của họ. Hành động cẩn trọng, mục tiêu hoàn hảo. Ba viên đạn, ba xác chết. Cùng lúc, một mùa hè yên ắng bất thường đang diễn ra ở sở cảnh sát thành phố Ystad. Cảnh yên bình đó đã hoàn toàn tiêu tan, khi một trong những đồng nghiệp thân cận của Wallander bị giết chết. Đầu mối duy nhất: một bức ảnh làm nhiễu mọi thông tin, và rồi, những bước điều tra lần theo một tên giết người vừa đơn giản, vừa chính xác, vừa điên rồ trong chính sự giản đơn đó. Nhưng họ đã luôn chậm một bước, một cách đáng sợ và trêu ngươi, với tay sát thủ mà phương pháp tỉ mỉ và sự chọn lựa nạn nhân của hắn mang tới thật nhiều cảm giác, thông qua những tội ác lố bịch và lạnh lẽo. Để rồi một bước cuối, Wallander không chậm nữa. Trực giác và suy luận thông minh của ông đã vượt lên tác giả của chuỗi dài chết chóc kia, mang tới cho người đọc khoái cảm về một câu chuyện được kể ra một cách kỳ tài, hé lộ nhiều điều về bản chất con người, làm nên tác phẩm nổi tiếng nhất của Henning Mankell, một tác giả trung tâm trong dòng tiểu thuyết Trinh thám đen mới của châu Âu hiện tại.  *** Nhận định   “ Wallander nằm trong số những nhân vật hay nhất, khác thường nhất của tiểu thuyết hình sự - một đóng góp lớn lao của thể loại” - Daily Telegraph   “Mẫu mực… với sự thông minh đậm đặc và tinh tế mà Mankell đặt trong những trang viết trinh thám của ông”   - The Washington Post Book World *** Henning Mankell nhà văn Thụy Điển, nổi tiếng thế giới với serie truyện trinh thám về thanh tra Kurt Wallander, bao gồm 8 tiểu thuyết và 1 tập truyện ngắn. Các tác phẩm đó được xuất bản tại 33 quốc gia và liên tục đứng trong danh sách sách bán chạy nhất châu Âu và thế giới. Các tác phẩm của ông đạt được nhiều giải thưởng, nổi bật nhất là giải Great Britian’s Gold Dagger 2001. *** Mưa ngừng rơi không lâu sau mười bảy giờ. Gã đàn ông ngồi úp mình dưới gốc cây chầm chậm cởi áo vest ra. Cơn mưa rào không kéo dài đến ba mươi phút, nhưng gã đã bị ướt. Nỗi tức giận trào lên một thoáng. Gã không muốn mắc cảm. Không phải là bây giờ, khi mùa hè mới bắt đầu. Gã đặt áo vest xuống đất và đứng dậy. Hai chân tê mỏi. Gã vươn người vài cái để phục hồi lưu thông của các mạch máu. Những người mà gã đang chờ sẽ không đến trước hai mươi giờ. Họ đã quyết định như vậy và họ sẽ không đổi ý. Nhưng vẫn còn một nguy cơ rất nhỏ là sẽ có ai đó tình cờ đi lạc vào một trong những lối đi dẫn vào khu bảo tồn. Đó là chi tiết không thể dự đoán duy nhất trong kế hoạch được lên một cách chi tiết của gã. Chi tiết duy nhất mà gã không thể chắc chắn tuyệt đối. Tuy nhiên, gã không cảm thấy lo lắng. Không có hoạt động hội hè nào được dự kiến ở khu bảo tồn vào đêm Saint-Jean này (Tức là ngày 21 tháng Sáu (tất cả chú thích trong sách đều của người dịch)). Không có ai cắm trại gần đây. Thêm nữa, những người mà gã đang chờ đã chọn chỗ cho mình vô cùng cẩn thận. Họ muốn được yên tĩnh. - Chỗ hẹn đã được ấn định mười lăm ngày trước - vào lúc đó, gã đã theo dõi họ được nhiều tháng. Ngay ngày hôm sau, gã đã kín đáo đến khu vực để hoang của khu bảo tồn. Đột nhiên, một cặp vợ chồng nhiều tuổi xuất hiện trên một lối đi. Gã vội lẩn vào sau một bụi cây; hai người biến mất. Khi tìm được địa điểm họ định dùng để tổ chức bữa tiệc, ngay lập tức gã nhận ra nó thật lý tưởng ở tất cả các khía cạnh: nằm trong một khoảng đất trũng xuống dưới chân một đoạn dốc, bao quanh là những bụi cây nhỏ và đằng sau là vài cái cây. Họ sẽ không thể tìm được một nơi nào tốt hơn thế. Cả họ. Cả gã. ... Mời các bạn đón đọc Chậm Một Bước của tác giả Henning Mankell.
Cánh Cửa Thứ 4 - Paul Halter
Một ngày nọ, người ta tìm thấy một phụ nữ hiền lành nằm chết giữa vũng máu trong căn phòng khóa kín, da thịt đầy những vết dao. Từ đó, ma mị lần quất kêu gào, vô vàn hiện tượng lạ lùng bắt đầu phát sinh trong tư dinh u ám. Để chấm dứt những bí ẩn ấy, một người tự nguyện bước vào phòng, thử nghiệm gọi hồn với hy vọng xoa dịu hồn ma đang giận dữ và khám phá sự thật ẩn giấu sau cái chết của bà ta. Căn phòng được đóng lại từ bên ngoài, và niêm phong bằng dấu ấn một đồng xu hiếm. Dấu niêm vẫn nguyên vẹn khi cửa mở ra lần nữa, nhưng xác của một người khác đã im lìm nằm đó… Kỳ quái. Phi lý. Không thể giải thích theo logic tự nhiên. Và vượt ra ngoài những trải nghiệm bình thường của con người. Đây là tác phẩm kinh dị của một hồn ma báo oán? Hay đơn giản là trò bịp của những kẻ thủ ác cao tay? *** Đ êm ấy tôi về phòng sớm, dự định tận hưởng buổi tối dễ chịu cùng một cuốn sách. Nhưng chưa kịp ấm chỗ thì nghe cửa phòng vang lên ba tiếng gõ dè dặt. Người chọn đúng thời điểm này để tìm đến, không ai khác hơn là Elizabeth em gái tôi. Ở tuổi mười tám, em đã trở thành một thiếu nữ đẹp mê hồn, song đôi lúc tôi tự hỏi liệu em có nhận ra điều đó hay không. Em thay đổi rất nhiều chỉ trong mấy tháng qua, sắc đẹp của em khiến John Darnley không thể làm ngơ, để rồi theo đuổi với một quyết tâm thầm lặng. Trong khi hãnh diện rõ rệt vì sự chú ý của cậu ta, em lại để mắt tới Henry White nhà hàng xóm đồng thời cũng là người bạn thân nhất của tôi. Còn Henry, dù có phong thái tự tin đầy học thức, nhưng lại nhút nhát không ngờ trước con gái, đặc biệt là trước Elizabeth, người mà cậu cũng rất si mê. “Em có làm phiền anh không, James?” em hỏi, tay do dự đặt nơi nắm cửa. “Đương nhiên là không rồi,” tôi nói với một tiếng thở dài và hi vọng là đầy ý tứ, mũi vẫn chúi vào cuốn sách. Elizabeth ngồi xuống giường, cạnh tôi, đầu cúi gầm, hai bàn tay bồn chồn vặn vẹo. Cuối cùng nghiêm trang ngước cặp mắt to màu nâu nhìn tôi. “James, em phải nói chuyện với anh.” “Gì thế?” “Đó là về Henry.” Tôi biết tiếp theo là gì rồi. Tôi sẽ phải làm ông tơ cho hai người: một quá kiêu hãnh, còn một quá nhút nhát không dám thể hiện cảm xúc của mình. Elizabeth giật lấy quyển sách từ tay tôi và gay gắt hỏi, “Anh có định nghe em nói không, James?” Bất ngờ khi thấy em cao giọng, tôi bèn hạ cố nhìn em, châm một điếu thuốc và tập trung nhả vài vòng khói tròn hoàn hảo. Hồi nhỏ, tôi không thích gì hơn là chọc tức em bằng cách giữ thái độ lạnh lùng bình thản mỗi khi em khó chịu. Tôi luôn tính toán làm sao để đẩy em vào cơn giận cực độ, và phải xấu hổ thừa nhận rằng tôi đã duy trì rất tốt sở trường đó. Mặc dù vậy, không muốn đi quá giới hạn chịu đựng của em, tôi lại mềm lòng. ... Mời các bạn đón đọc Cánh Cửa Thứ 4 của tác giả Paul Halter.