Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cuộc Phiêu Lưu Trong Kinh Doanh

“Không lâu sau lần đầu gặp Warren Buffet vào năm 1991, tôi có hỏi về cuốn sách quản trị kinh doanh yêu thích nhất của ông. Không mất đến nửa giây suy nghĩ, ông trả lời: ‘Đó là Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh của John Brooks, tôi sẽ gửi cho cậu cuốn của mình.’ Đến nay đã hơn hai mươi năm kể từ ngày Warren cho tôi mượn cuốn sách đó ‒ và hơn bốn mươi năm kể từ khi nó được xuất bản lần đầu tiên ‒ Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh vẫn là cuốn sách quản trị kinh doanh hay nhất mà tôi từng đọc.”  Bill Gates Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh với 12 câu chuyện thú vị và không kém phần kịch tính về những sự kiện nổi tiếng tại Phố Wall này sẽ vén màn những âm mưu cũng như bộc lộ bản chất thất thường của thế giới tài chính. Xuyên suốt cuốn sách là những báo cáo chi tiết và sắc sảo của John Brooks, dù đó là sự kiện thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1962, thất bại của một công ty môi giới danh tiếng, hay nỗ lực táo bạo của các ngân hàng Mỹ nhằm cứu vãn đồng bảng Anh. Sau tất cả, những câu chuyện này vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự để giúp chúng ta nắm bắt được tính phức tạp của đời sống kinh doanh. Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh thực sự là những phân tích tài chính sống động và xuất sắc nhất từ trước đến nay. *** THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - một thước phim phiêu lưu dài tập chiếu ban ngày của giới thượng lưu - sẽ không phải là thị trường chứng khoán nếu không có những thăng trầm trong đó. Bất kỳ ai trên ngồi ghế lãnh đạo từng say mê truyền thuyết về Phố Wall hẳn đã nghe đoạn đối đáp mà người ta đồn là của J. P. Morgan1 (lớn) khi một người bạn ngây thơ của ông đã mạo muội hỏi nhân vật vĩ đại này về việc liệu thị trường sẽ diễn biến như thế nào. Morgan trả lời tỉnh queo: “Lên-xuống rồi lại xuống-lên!”. Và còn nhiều những đặc thù đặc trưng khác. Bên cạnh những lợi thế và bất lợi kinh tế của những giao dịch chứng khoán - lợi thế: tạo ra một dòng chảy tự do về vốn để trang trải cho việc mở rộng sản xuất; bất lợi: tạo ra một con đường quá đỗi dễ dàng để cho những người cả tin, thiếu thận trọng và kém may mắn vuột mất đi số tiền của mình - sự phát triển những giao dịch này đã tạo ra một hệ thống hành vi xã hội, toàn diện với các tập quán, ngôn ngữ cùng những phản ứng có thể dự đoán được trước từng sự kiện cụ thể. Ngoạn mục nhất là ở tốc độ bung nở hết cỡ của hệ thống hành vi này sau sự kiện Sở giao dịch chứng khoán trọng yếu đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1611, trên một khoảng sân không mái che ở Amsterdam và mức độ mà hệ thống này duy trì (tất nhiên, cùng với những biến thể của nó) trên Sở giao dịch chứng khoán New York vào thập niên 1960. Chứng khoán Mỹ ngày nay là một tổ chức khổng lồ liên quan tới hàng triệu km đường dây điện báo riêng, các máy tính có thể đọc và sao chép niêm giám điện thoại thành phố Manhattan trong ba phút và hơn 20 triệu cổ đông, dường như đối lập hoàn toàn với cảnh tượng một nhúm người Hà Lan đội mưa cò kè mua bán với nhau hồi thế kỷ XVII. Nhưng những biểu hiện trên hiện trường thì vẫn giống nhau. Thật trùng hợp là sàn chứng khoán đầu tiên là một phòng thí nghiệm, nơi người ta khám phá ra những phản ứng mới của con người và Sở giao dịch chứng khoán New York cũng giống như vậy, một “ống nghiệm” xã hội học, muôn đời đóng góp vào quá trình tự giác ngộ về bản thân của loài người. Hành vi của những người Hà Lan tiên phong trong kinh doanh chứng khoán được khéo léo ghi chép lại trong cuốn sách có tựa đề Confusion of Confusions (Rắc rối của những rắc rối của tác giả Joseph de la Vega, một nhà đầu cơ tại thị trường Amsterdam, được xuất bản lần đầu năm 1688 và vài năm trở lại đây được trường Kinh doanh Harvard dịch và tái bản bằng tiếng Anh. Về phần những nhà đầu tư và môi giới chứng khoán của Mỹ ngày nay, với những đặc tính giống như tất cả những nhà kinh doanh chứng khoán khác song thường bị thổi phồng trong những giai đoạn khủng hoảng, ta có thể làm sáng tỏ hành vi của họ bằng việc xem xét những hoạt động của họ trong suốt tuần cuối cùng của tháng 5 năm 1962, thời điểm mà thị trường chứng khoán trải qua những biến động mạnh. Vào thứ Hai, ngày 28 tháng 5, chỉ số Dow-Jones trung bình của 30 cổ phiếu công nghiệp hàng đầu (từ năm 1897, từng giao dịch cổ phiếu mới bắt đầu được tính toán cụ thể) giảm tới 34,95 điểm hay nói cách khác, giảm kỷ lục nhất so với bất kỳ ngày giao dịch nào khác (trừ ngày 28 tháng 10 năm 1929 với mức sụt giảm 38,33 điểm). Khối lượng giao dịch ngày 28 tháng 5 là 9.350.000 cổ phiếu, đạt mức doanh thu trong ngày lớn thứ bảy trong lịch sử thị trường chứng khoán. Vào thứ Ba ngày 29 tháng 5, sau một buổi sáng đáng báo động khi hầu hết các cổ phiếu tụt giảm xuống mức thấp hơn nhiều so với mức giá lúc đóng cửa của buổi chiều thứ Hai, thị trường bất ngờ đổi hướng, tăng vọt đến mức kinh ngạc, và kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Dow-Jones tăng khá cao, tận 27,03 điểm, tuy chưa phải là mức phá kỷ lục. Mức tăng gần chạm kỷ lục của ngày thứ Ba này nằm ở khối lượng giao dịch: 14.750.000 cổ phiếu được trao tay, bổ sung thêm vào kỷ lục doanh-số-một-ngày lớn nhất từng có, chỉ đứng sau ngày 29 tháng 10 năm 1929 với hơn 16 triệu cổ phiếu được giao dịch. (Sau này, vào những năm 1960, 10 triệu, 12 triệu, hay thậm chí 14 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi ngày là phổ biến. Kỷ lục năm 1929 bị phá vỡ vào ngày 1 tháng 4 năm 1968 và trong mấy tháng tiếp sau đó, kỷ lục mới liên tiếp được thiết lập). Sau đó, vào thứ Năm ngày 31 tháng 5 (trước đó là thứ Tư, cả nước Mỹ nghỉ làm việc vì lễ Tưởng niệm chiến sĩ hi sinh nơi chiến trận) là vừa hoàn tất chu trình ấy; chỉ số Dow-Jones trung bình tăng 9,40 điểm trên tổng số 10.710.000 cổ phiếu được giao dịch (khối lượng lớn thứ năm trong lịch sử chứng khoán), nhỉnh hơn số điểm trước khi bắt đầu xảy ra toàn bộ tình trạng kích động. Cuộc khủng hoảng chỉ kéo dài ba ngày nhưng ai cũng biết, phần “khám nghiệm tử thi2” sẽ còn kéo dài mãi sau đó. Một trong những quan sát mà de la Vega đúc rút về các thương nhân Amsterdam là: Họ “rất khôn khéo bịa ra lý do” để lý giải cho sự tăng hay giảm giá đột ngột của cổ phiếu và chắc chắn các chuyên gia Phố Wall cần vận hết trí tuệ mới có thể lý giải vì sao ngay giữa một năm thịnh vượng như thế, thị trường đột nhiên tụt dốc thảm hại tới mức lập kỷ lục thứ hai trong lịch sử tính tới thời điểm đó. Bên cạnh những giải thích này, mà đứng đầu là việc Tổng thống Kennedy thẳng tay dập tắt kế hoạch tăng giá của ngành thép - thì không thể tránh khỏi việc các cuộc “khám nghiệm tử thi” thường so sánh ngày 28 tháng 5 năm 1962 với ngày 29 tháng 10 năm 1929. Riêng con số về biến động giá cả và khối lượng giao dịch cũng đủ để người ta đi đến sự so sánh này, cho dù hai ngày kinh hoàng tồi tệ nhất trong hai tháng ấy không hề trùng nhau theo lối ma mị hay có điềm báo trước như một số người nghĩ. Nhưng thật ra phải thừa nhận, nếu so sánh hai ngày này, người ta sẽ thấy thuyết phục trước những điểm tương phản hơn là những điểm tương đồng. Trong thời kỳ từ năm 1929 đến năm 1962, những quy định về phương thức giao dịch và những hạn chế về vay tín dụng đối với khách mua cổ phiếu đã khiến cho người ta khó lòng - nếu không nói là không thể - nướng sạch tiền vào chứng khoán. Tóm lại, hình dung của de la Vega về thị trường chứng khoán Amsterdam vào những năm 1680 - ông gọi nó là “ổ cờ bạc” mặc dù rõ ràng là ông yêu nó - gần như không mấy phù hợp với thị trường New York trong thời kỳ 33 năm giữa hai lần sụp đổ. Vụ sụp đổ năm 1962 không phải đến mà không báo trước, dù rất ít nhà quan sát đọc được chính xác những cảnh báo ấy. Ngay thềm năm mới, cổ phiếu đã bắt đầu sụt giảm dần đều và tốc độ này leo thang đến đỉnh điểm: tuần giao dịch trước đó - từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 25 tháng 5 - trở thành tuần tồi tệ nhất của Sở giao dịch kể từ tháng 6 năm 1950. Vào sáng thứ Hai ngày 28 tháng 5, các nhà môi giới và nhà buôn chứng khoán đã có lý do để suy tư. Cổ phiếu đã chạm đáy chưa? Hay sắp chạm? Nhìn lại thì thấy có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau. Tờ tin Dow-Jones (cung cấp tin tức tài chính tâm điểm cho người đặt báo dài hạn qua máy telex) phản ánh sự lo ngại nhất định trong khoảng thời gian từ lúc tờ này bắt đầu phát tin lúc 9 giờ cho tới khi Sàn giao dịch bắt đầu mở cửa lúc 10 giờ. Băng tin rộng ‒ cách người ta thường gọi bản tin Dow-Jones in theo chiều dọc giấy khổ 15×0,6cm để phân biệt với băng tin báo giá của Sở giao dịch được in theo chiều ngang và chỉ dài 1,9cm) ‒ bình luận rằng, nhiều nhà kinh doanh chứng khoán cuối tuần bận rộn với việc gửi yêu cầu đến các khách hàng mua chịu, hiện sở hữu những cổ phiếu đang xuống giá, cần bổ sung thế chấp ngay. Bản tin này nhận xét, việc bán tống bán tháo vội vã giống tuần trước đó là “hành động đã nhiều năm nay xa lạ với Phố Wall”. Bản tin này tiếp tục đưa ra một số tin thương mại đáng khích lệ như công ty Westinghouse mới nhận được một hợp đồng Hải quân mới. Tuy nhiên, như de la Vega đã nói, “trong thị trường chứng khoán, những tin tức [kiểu như vậy] thường chẳng mang lại ý nghĩa gì cả”; trong tình thế hiện tại, tâm trạng nhà đầu tư mới là điều đáng nói. Tâm trạng này càng trở nên rõ nét chỉ trong vài phút sau khi thị trường mở cửa. Lúc 10 giờ 11 phút, băng tin thông báo “lúc mở cửa, giá cổ phiếu hỗn hợp và giao dịch nhộn nhịp vừa phải”. Đây là một thông tin mang tính chấn an vì “hỗn hợp” có nghĩa là vừa có tăng vừa có giảm và nói chung một thị trường sụt giá, sẽ ít rủi ro hơn khi khối lượng giao dịch chỉ ở mức vừa phải chứ không quá lớn. Nhưng niềm an ủi này chỉ kéo dài chớp nhoáng vì đến 10 giờ 30 phút, băng tin của Sở giao dịch (đăng tin tức về giá và khối lượng cổ phiếu của mỗi giao dịch diễn ra trên sàn) không những đăng các mức giá cũ, thấp hơn, với tốc độ tối đa 500 ký tự/phút mà còn đăng trễ tận sáu phút. Sự chậm trễ của băng tin cho thấy rõ ràng, chiếc máy đã không thể bắt kịp với những giao dịch đang diễn ra tít mù. Thường thì khi một giao dịch trên sàn của Sở giao dịch hoàn tất, một nhân viên của Sở sẽ ghi lại chi tiết lên một mẩu giấy và gửi nó qua một ống khí nén tới một căn phòng trên tầng 5 của tòa nhà; từ đây, một nhân viên nữ sẽ đánh máy mẩu giấy vào máy điện báo để truyền đi. Quãng thời gian chờ hai đến ba phút từ khi có giao dịch trên sàn và khi giao dịch xuất hiện trên băng tin được Sở giao dịch xem là bình thường; khái niệm “trễ” chỉ được sử dụng để mô tả bất kỳ một sự trì hoãn nào khác ngoài hai đến ba phút đấy tính từ khi tờ phiếu bán hàng lên được đến tầng 5 và được chiếc máy điện báo dung nạp được nó (de la Vega phàn nàn là Sở giao dịch không cẩn thận khi dùng từ “trễ”). Băng tin thường xuyên xảy ra tình trạng “trễ” một vài phút vào những ngày giao dịch tấp nập nhưng từ năm 1930, khi loại máy điện báo thịnh hành vào năm 1962 được lắp đặt, những vụ trễ lớn cực kỳ hiếm khi xảy ra. Ngày 24 tháng 10 năm 1929, khi băng tin bị trễ 246 phút, máy đang in với tốc độ 285 ký tự/phút; từ tháng 5 năm 1962 trở về trước, khoảng trễ lớn nhất từng xảy ra trên chiếc máy mới là 34 phút. Mời các bạn đón đọc Những Cuộc Phiêu Lưu Trong Kinh Doanh của tác giả John Brooks.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vĩ Đại Do Lựa Chọn - Jim Collins & Morten T. Hansen
Jim Collins là tác giả của hai đầu sách nổi tiếng - Từ tốt đến vĩ đại và Xây dựng để trường tồn. Cùng với phương pháp nghiên cứu như hai cuốn đầu tiên, trong quyển sách này, Jim Collins cùng với Morten T. Hansen đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, tại sao các công ty vĩ đại vẫn trường tồn trong những lúc khó khăn, hỗn loạn. Qua rất nhiều năm nghiên cứu khoa học từ những công ty và các lãnh đạo hàng đầu, hai tác giả rút ra được kết luận rằng: Chúng tôi không tin cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn hay có một phép nhiệm mầu và đoán định được tương lai, nhưng có thể nói nhữg tác động phức tạp, toàn cầu hóa và công nghệ đang thúc đẩy thay đổi và càng dễ bị thay đổi hơn bao giờ hết. Chúng tôi cảm thấy trấn tĩnh vì chúng tôi đã hiểu hơn phải có những gì để sống sót, lèo lái và chiến thắng. Theo chúng tôi, trường tồn và tiêu vong phụ thuộc vào những hành động của chúng ta hơn là những gì mà thế giới gây cho chúng ta; và sự vĩ đại không chỉ là một cuộc chinh phục về kinh doanh, nó là cuộc chinh phục của con người. Và kết quả nghiên cứu sẽ gây bất ngờ cho nhiều nhà lãnh đạo các tổ chức đọc quyển sách này: Những nhà lãnh đạo của các công ty vĩ đại không sáng tạo hơn, không có tầm nhìn xa hơn, không có cá tính hơn, không có vận may hơn, không thích tìm kiếm rủi ro hơn, không anh hùng hơn, và không có khuynh hướng thực hiện những nước cờ lớn, táo bạo hơn. Nhưng họ đã lèo lái được công ty họ qua những lúc khó khăn để luôn trường tồn, bởi vì họ sống và làm việc theo ba yếu tố cân bằng nhau: kiên định với nguyên tắc, sáng tạo theo kinh nghiệm và biết sợ hãi một cách hữu ích. Quyển sách phù hợp với tầng lớp doanh nhân và lãnh đạo các công ty Việt Nam, những người nghiên cứu về kinh doanh, đang trong quá trình lèo lái con thuyền công ty vươn lên sau khủng hoảng và hướng tới vĩ đại vĩnh cửu. *** Review Trần Kim Huyền: Ai trong mỗi chúng ta đều từng ấp ủ khao khát được vĩ đại, được trở thành một người được vạn người ngưỡng mộ. Nhưng sự thực thì sao? Ít ai trở thành người xứng đáng với hai chữ " vĩ đại ". Tôi cũng vậy, ao ước được vĩ đại, cho dù chỉ là trên tư tưởng, thế nên tôi chọn cuốn sách này " vĩ đại do lựa chọn ". Trong quyển sách này, Jim Collins cùng với Morten T. Hansen đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, tại sao các công ty vĩ đại vẫn trường tồn trong những lúc khó khăn, hỗn loạn hoặc khủng hoảng nghiêm trọng tới mức nào đi nữa. Phải chăng họ táo bạo , họ sáng tạo, họ liều lĩnh, họ tài năng hay nắm bắt tình hình thị trường siêu việt hơn người khác ? Không , không hề, họ cũng như bao người khác mà thôi. Vậy bí mật giúp họ chèo chống, lèo lái cơ ngơi của mình là gì? Bí mật đó được tác giả đúc rút qua 3 nguyên tắc như sau: kiên định với nguyên tắc, sáng tạo theo kinh nghiệm và biết sợ hãi một cách hữu ích. Chúc các bạn thành công với 3 nguyên tắc vàng này. *** Và kết quả nghiên cứu sẽ gây bất ngờ cho nhiều nhà lãnh đạo các tổ chức đọc quyển sách này: Những nhà lãnh đạo của các công ty vĩ đại không sáng tạo hơn, không có tầm nhìn xa hơn, không có cá tính hơn, không có vận may hơn, không thích tìm kiếm rủi ro hơn, không anh hùng hơn, và không có khuynh hướng thực hiện những nước cờ lớn, táo bạo hơn. Ôi!mặt trời mới lên đẹp làm sao! Nhưng họ đã lèo lái được công ty họ qua những lúc khó khăn để luôn trường tồn, bởi vì họ sống và làm việc theo ba yếu tố cân bằng nhau: kiên định với nguyên tắc, sáng tạo theo kinh nghiệm và biết sợ hãi một cách hữu ích. Cố gắng đi!. Cố gắng đi! Tôi thích đọc sách của Jim Collins. Cũng như Từ tốt đến vĩ đại và Xây dựng để trường tồn, Vĩ đại do sự lựa chọn có các tư duy được rút ra dựa trên các số liệu nghiên cứu thực tế nghiêm túc, nhiều công sức và rất thuyết phục, khác với suy nghĩ thông thường. Vĩ đại do sự lựa chọn có rất nhiều điều hữu ích và đáng để tìm hiểu, nhưng nếu so với 2 tác phẩm trước thì có 1 sự đuối sức nhẹ. Sau khi đọc xong, tôi nghĩ đúng người đúng việc vẫn là yếu tố then chốt. Quyển sách phù hợp với tầng lớp doanh nhân và lãnh đạo các công ty Việt Nam, những người nghiên cứu về kinh doanh, đang trong quá trình lèo lái con thuyền công ty vươn lên sau khủng hoảng và hướng tới vĩ đại vĩnh cửu. Nhanh lên , đi nào. Dù sao thì mọi việc cũng qua rồi. Đúng với tựa sách Vĩ đại do lựa chọn, ai chọn mua quyển sách này đã có được ưu thế hơn người khác rất nhiều. Họ đã may mắn được, Jim Collins, nhà tư tưởng đương thời giàu ảnh hưởng nhất làm người thầy gián tiếp cho mình. Có những công ty dù có bao nhiêu giông bão cũng điều vượt qua được, còn có những công ty thì chỉ có một cơn gió nhỏ cũng không vượt qua được. Nguyên nhân là do đâu, những con người trong tổ chức thành công có những phẩm chất gì mà những tổ chức thất bại không hề có? Mời các bạn đón đọc Vĩ Đại Do Lựa Chọn của tác giả Jim Collins & Morten T. Hansen.
Tôi Tư Duy Tôi Thành Đạt - John C. Maxwell
Những người tư duy tốt luôn luôn có rất nhiều mong muốn và đòi hỏi. Những người biết đặt câu hỏi “làm thế nào” luôn  tìm được một công việc hợp lý, còn những người biết đặt câu hỏi “tại sao” thì luôn luôn trở thành những nhà lãnh đạo. Những người có tư duy tốt có thể giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả, họ luôn luôn dồi dào ý tưởng và luôn hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Và mặc dù mỗi người vươn tới thành công theo những cách khác nhau nhưng ta đều nhận ra rằng họ có một điểm chung: Đó là cách mà họ suy nghĩ! Đây cũng là điểm duy nhất phân biệt những người thành công và những người không thành công. Điều này cũng thật may mắn với chúng ta vì cách tư duy của những người thành công có thể được tiếp thu và học hỏi. Nếu bạn thay đổi suy nghĩ, cuộc sống của bạn cũng sẽ đổi thay! *** John C. Maxwell là nhà sáng lập của Tập đoàn INJOY, một tổ chức giúp mọi người phát huy tối đa tố chất cá nhân và tiềm năng lãnh đạo. Ông là tác giả của một loạt cuốn sách nằm trong danh sách bán chạy của New York Times, cũng là sách bán chạy trên bảng xếp hạng của Business Week. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Tôi Tư Duy Tôi Thành Đạt Phát Triển Kỹ Năng Lãnh Đạo 21 Nguyên Tắc Vàng Của Nghệ Thuật Lãnh Đạo 21 Phẩm Chất Vàng Của Nhà Lãnh Đạo Nhà Lãnh Đạo 360° Lãnh Đạo Giỏi Hỏi Câu Hỏi Hay 15 Nguyên Tắc Vàng Về Phát Triển Bản Thân 101 Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Mối Quan Hệ 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Lãnh Đạo 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Tự Phát Triển 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Cố Vấn 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Thành Công 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Làm Việc Nhóm 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Thái Độ 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Trang Bị 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Cuốn Sách Nhỏ Cho Nhà Lãnh Đạo Lớn Nghệ Thuật Kết Nối Đỉnh Cao Trong Giao Tiếp Thuật Đắc Nhân Tâm 17 Nguyên Tắc Vàng Trong Làm Việc Nhóm Dám Ước Mơ, Biết Thực Hiện Nhà Lãnh Đạo Giỏi Giải Quyết Vấn Đề Như Thế Nào? Để Trở Thành Nhà Lãnh Đạo Quần Chúng Xuất Sắc Kỹ Năng Lãnh Đạo ...   Mời các bạn đón đọc Tôi Tư Duy Tôi Thành Đạt của tác giả John C. Maxwell.
Xây Dựng Để Trường Tồn - Jim Collins & Jerry I. Porras
"Đây không phải là cuốn sách viết về các nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, có sức thu hút lớn. Cũng không phải là cuốn sách viết về các sản phẩm, các khái niệm sản phẩm hay những thấu hiểu về thị trường mang tính chất có tầm nhìn xa. Cuốn sách này cũng không trình bày về các hoài bão của một doanh nghiệp. Mà đây chính là cuốn sách viết về cái gì đó quan trọng, trường tồn hơn nhiều - những công ty hàng đầu có tầm nhìn xa, hoài bão lớn"… (Trích giới thiệu của tác giả) Cuốn sách được trình bày với hàng trăm ví dụ cụ thể, sinh động, sắp xếp trong một khuôn mẫu rõ ràng, nhất quán của các khái niệm thực tế, tạo điều kiện dễ dàng áp dụng cho các nhà quản trị và nhà kinh doanh ở mọi cấp độ khác nhau. Xây dựng để trường tồn - như tên gọi của nó - thực sự là một bản kế hoạch chi tiết cho việc xây dựng các tổ chức phát triển và thành công trong thế kỷ XXI. *** Vào ngày 14-03-1994, chúng tôi đưa bản thảo sau cùng của cuốn Xây Dựng Để Trường Tồn cho nhà xuất bản. Như tất cả những tác giả khác, chúng tôi có những hy vọng và ước mơ cho công trình của mình, song không bao giờ chúng tôi cho phép những hy vọng đó trở thành võ đoán bình thường. Chúng tôi biết rằng để có được một quyển sách thành công, phải có đến 10 hay 20 cuốn sách khác bằng hoặc hơn nó chìm dần vào quên lãng! Hai năm sau, khi viết lời giới thiệu cho lần xuất bản này, chúng tôi thật sự kinh ngạc trước thành công của cuốn sách: hơn 40 lần xuất bản trên toàn thế giới, được dịch ra 13 ngôn ngU, là cuốn sách bán chạy nhất ở Bắc Mỹ, Nhật Bản, Nam Mỹ và nhiều nước châu Âu khác. Có nhiều cách đánh giá mức độ thành công của một cuốn sách, song theo chúng tôi điều quan trọng nhất là chất lượng độc giả của nó. Xuất hiện trước tiên trên hàng loạt tờ báo, tạp chí, cuốn sách này mau chóng có được một số lượng độc giả và gây ra một chuỗi phản ứng dây chuyền theo kiểu truyền miệng, và đây, độc giả chính là điều quan trọng nhất. Cái gì là giá trị thực sự của một cuốn sách? Hoàn toàn không phải là giá bìa của nó. Đối với một người bận rộn, giá cả của một cuốn sách chẳng là gì cả so với thời gian cần để đọc và hiểu nó, nhất là đối với những cuốn sách hình thành trên nghiên cứu và ý tưởng như cuốn sách của chúng tôi. Đa số mọi người không đọc hết các cuốn sách mà họ mua. Do đó chúng tôi không chỉ ngạc nhiên về số người đã mua, mà còn về số người đã thực sự đọc nó. Rất nhiều người bận rộn, từ các CEO và các nhà quản trị cao cấp cho đến những doanh nhân tham vọng, lãnh đạo các tổ chức phi lợi nhuận, các nhà đầu tư, nhà báo, nhà quản lý trẻ, tất cả đều đã dành cho xây Dựng Để Trường Tồn một chút thời gian, nguồn tài nguyên quý giá nhất của họ. Theo chúng tôi, lượng độc giả to lớn của cuốn sách này là do bốn nguyên nhân cơ bản. Một là, ý tưởng xây dựng một công ty to lớn và trường tồn thực sự đã gây cảm hứng cho rất nhiều người. Chúng tôi đã gặp nhiều nhà quản trị trên thế giới, họ đều khao khát tạo ra một điều gì đó to lớn hơn, lâu dài hơn bản thân họ - đó là một tổ chức với những giá trị trường tồn theo thời gian, một tổ chức tồn tại không chỉ để kiếm lợi nhuận, chịu được thử thách của thời gian do có khả năng hên tục tự đổi mới từ bên trong. Không chỉ ở các nhà lãnh đạo các tập đoàn kinh doanh lớn, chúng tôi nhận thấy động cơ trên ở cả nhUng nhà quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những con người như David Packard, George Merck, Walt Disney, Masaru Ibuka, Paul Galvin và William McKnight - những người được xem như Thomas Jefferson và James Madison của giới doanh nhân - thật sự đã đặt ra một loạt các tiêu chuẩn về giá trị và mức độ thành công cho rất nhiều người khác cố gắng noi theo. Rõ ràng là Packard và những “đại gia” khác không phải là những “người khổng lồ” ngay từ lúc khởi đầu, ngược lại, họ cũng có những khởi nghiệp khiêm tốn như bao người khác, rồi từ những doanh nghiệp nhỏ bé họ đã lập nên được những tập đoàn thành công và trường tồn nhất trên thế giới. Một lãnh đạo của một công ty nhỏ đã nói: “Những điều họ đã làm và đạt được cho chúng tôi sự tự tin và cả hình mẫu để noi theo.” Hai là, những người thực sự quan tâm đến kinh doanh luôn tìm kiếm những nguyên tắc cơ bản đã được thử thách qua thời gian, họ không mấy quan tâm đến những khái niệm, hình mẫu về quản trị mang tính thời thượng, nhất thời. Thế giới đang thay đổi với một tốc độ chóng mặt, nhưng điều đó không có nghĩa là con người không nên tiếp tục tìm kiếm những giá trị cơ bản đã được thử thách qua thời gian! Ngược lại, hơn bao giờ hết người ta rất cần những giá trị ấy. Tất nhiên là chúng ta luôn cần tìm kiếm những ý tưởng và giải pháp mới - các khám phá và phát minh chẳng phải đã thúc đẩy sự tiến bộ của loài người đó sao? Tuy nhiên, vấn đề chính đối với các tổ chức ngày nay không phải là thiếu các ý tưởng quản trị mới (ngược lại, có quá nhiều ý tưởng như thế!), mà chủ yếu là ở chỗ thiếu hụt các nguyên tắc, giá trị cơ bản cũng như sự thất bại trong việc áp dụng các nguyên tắc ấy. Bằng cách trở về với các nguyên tắc cơ bản, các nhà quản lý sẽ đóng góp được nhiều hơn cho tổ chức của họ, hơn là chạy theo các ý tưởng thời thượng, mới mẻ về quản trị. Ba là, với những khái niệm trong Xây Dựng Để Trường Tồn, các nhà quản lý có thể thực hiện những thay đổi trong giai đoạn chuyển tiếp mà không cần phá bỏ nền tảng ban đầu của công ty (hoặc trong một số trường hợp, các khái niệm này giúp xây dựng các nền tảng đó từ đầu). Trái với suy luận thông thường, để đáp lại sự thay đổi từ thế giới bên ngoài, câu hỏi đặt ra không phải là “Chúng ta nên thay đổi như thế nào?” mà phải là “Chúng ta đại diện cho cái gì, và tại sao chúng ta tồn tại?”. Chỉ điều đó không nên thay đổi. Còn lại, có thể thay đổi mọi thứ khác. Nói một cách khác, các công ty hàng đầu phải phân biệt rất rõ các giá trị cốt lõi và các mục tiêu dài hạn (là những yếu tố không bao giờ thay đổi) với các chiến lược kinh doanh và thực hành hoạt động (là những yếu tố cần thay đổi để thích ứng với điều kiện bên ngoài). Điều này trở nên đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức khi gặp những thay đổi lớn, như công ty về quốc phòng Rockwell trong thời gian chiến tranh lạnh kết thúc, công ty hàng tiêu dùng Southern Company trong thời kỳ thả nổi giá cả, công ty sản xuất thuốc lá UST trong điều kiện phong trào phản đối hút thuốc lá ngày càng tăng trên thế giới, hay công ty gia đình như Cargill trong thời gian bắt đầu có những nhà lãnh đạo từ bên ngoài tham gia, những công ty với những nhà lãnh đạo huyền thoại như Advanced Micro Devices và Microsoft cần vượt qua cái bóng của những con người tài ba đó v.v...   Mời các bạn đón đọc Xây Dựng Để Trường Tồn của tác giả Jim Collins & Jerry I. Porras.
Doanh Nghiệp Việt Nam Xưa và Nay Tập 2 - Lê Minh Quốc
Sách mang lại cho ta một cái nhìn khái quát về nghiệp buôn bán và thương nhân Việt Nam xưa nay. Tập 2 của Doanh nghiệp Việt Nam xưa & nay sẽ không khảo cứu quá sâu nghề buôn bán dưới góc độ văn học như tập 1. Ngược lại, tập sách đi sâu vào sự phát triển của nghề buôn, đặc biệt là trong 100 năm trở lại đây, kể từ khi người Pháp đặt chân vào Việt Nam. Sách đặc biệt chú trọng vào các địa điểm giao thương nổi tiếng của Việt Nam. Người đọc sẽ được điểm qua về các thương cảng, các trung tâm buôn bán nổi tiếng xưa nay như Hội An, Vân Đồn... Ngoài ra, các gương mặt doanh nhân tiêu biểu qua các thời kỳ cũng được đề cập. Doanh nghiệp Việt Nam xưa và nay - Tập 2 được trình bày theo dạng hỏi - đáp ngắn gọn và dễ hiểu. MỤC LỤC Ai là người thương nhân đầu tiên, là người bảo hộ cho nghề buôn bán của nước Việt? Trong lịch sử nước ta, vị vua nào đúc tiền trước nhất? Vị "giám đốc ngân khó quốc gia" đầu tiên của nước ta là ai? Qua ca dao, tục ngữ cho biết đôi nét về "vai trò" đồng tiền trong tâm thức người việt? Cho biết sự ra đời của đồng tiền Việt Nam sau khi nước nhà giành được độc lập? Cho biết đôi nét về sự ra đời của ngân hàng Việt Nam? Cho biết đôi nét về vai trò của thương cảng cổ Vân Đồn? Cho biết đôi nét về "Nhất Kinh Kỳ, nhì Phố Hiến"?  ... Mời các bạn đón đọc Doanh Nghiệp Việt Nam Xưa và Nay Tập 2 của tác giả Lê Minh Quốc.