Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trò Bịp Trên Phố Wall

Trò Bịp Trên Phố Wall là hồi ký của Michael Lewis về bốn năm làm việc tại hãng đầu tư Salamon Brothers, từ một kẻ học việc Geek non nớt đến một tay kinh doanh trái phiếu Big Swinging Dick thành đạt, mang về hàng triệu đô-la cho hãng và kiếm tiền từ cuộc đổ xô "tìm vàng: thời hiện đại. Cuốn sách ghi lại giai đoạn đỉnh điểm của những năm điên cuồng và đầy biến động đó - Một cái nhìn hậu trường trong một thời kỳ khác thường và hỗn loạn của nền kinh tế Mỹ. Bằng vốn hiểu biết sâu rộng và những lý giải hài hước của người trong cuộc, Lewis mô tả khoảng thời gian từ năm 1984 đến cuộc khủng hoảng năm 1987 như một thời kỳ mà lòng tham không đáy và phương cách làm giàu vô nhân đạo chưa từng thấy thống trị thị trường.   Cội nguồn Salomon Brothers, thành lập năm 1910, là một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất Phố Wall trong thập niên 1980. Năm 1984, tổng tài sản của ngân hàng này đạt mốc 34 tỷ đô la. Đây là nơi khai sinh cụm từ “chứng khoán hóa” − mầm mống của đại khủng hoảng tài chính. Cuối thập niên 1970, các ngân hàng Mỹ không còn muốn liều lĩnh tài trợ cho vay mua bất động sản dài hạn bằng nguồn tiền gửi ngắn hạn đầy bấp bênh. Nếu những người đi gửi tiền bỗng dưng thích giấu tiền dưới gối hơn là để nó ở nhà băng, các ngân hàng sẽ chẳng biết lấy đâu ra tiền mà trả cho khách, sụp đổ là điều khó tránh khỏi. Cung giảm nhưng nhu cầu mua nhà lại tăng do số người đến tuổi trưởng thành ngày càng nhiều. Áp lực tài chính đè nặng lên “giấc mơ Mỹ”. Vì thế, hoặc là có một bước đột phá, hoặc là người Mỹ nên tập quen với những căn nhà tùng tiệm hơn. Và thế là một phát minh vĩ đại ra đời. Thời cơ đến nhưng chỉ có Salomon Brothers cùng vị phó chủ tịch huyền thoại Lewis Ranieri là chộp được để ghi tên mình vào lịch sử. Năm 1977, liên kết với Bank of America, Salomon phát hành MBS (mortgage-backed securities) tư nhân đầu tiên. Đây là một trái phiếu được phát hành trên cơ sở đảm bảo bởi các khoản vay thế chấp mua nhà. Bằng cách phát hành các chứng khoán nợ này, “chủ nợ” của các khoản vay thế chấp chuyển từ ngân hàng sang nhà đầu tư. Ngân hàng có điều kiện quay vòng vốn nhanh hơn và thay vì phải huy động vốn tiền gửi với lãi suất cao và kỳ hạn ngắn, nay nó đã tiếp cận được một kênh huy động vốn dài hạn với lãi suất hấp dẫn hơn nhiều. Không chỉ vậy, rủi ro không thanh toán cũng được chuyển trực tiếp từ ngân hàng sang các nhà đầu tư mua MBS. Vận may đã mỉm cười với Salomon, năm 1981, chính quyền Mỹ ban hành đạo luật hoàn toàn bộ thuế trong vòng mười năm trước đó cho các quỹ tiết kiệm và cho vay (S&L) không có nợ xấu. Các quỹ này buộc phải bán các MBS thấp hơn giá trị thực rồi ngay lập tức mua lại các MBS khác để “làm sạch” bảng kết toán tài sản. Nhưng trên Phố Wall, chỉ duy nhất Salomon Brothers có bộ phận giao dịch MBS, vì thế, họ độc quyền. Các quỹ S&L chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài cách tìm đến với Ranieri. Ước tính đã có tới 1 nghìn tỷ đô-la MBS qua tay các tay giao dịch của Salomon Brothers. Nhà đầu tư tại London nay có thể tài trợ cho những căn nhà tại Los Angeles, Tokyo hay Frankfurt. Khi nguồn cung vốn vay được khơi thông, tất yếu đẩy lãi suất cho vay thấp xuống. Lãi suất hạ, số người đi vay mua nhà ngày càng tăng, thị trường MBS gần như là của riêng Salomon lại càng thêm sôi động. Sáng tạo nối tiếp sáng tạo, sau nhà đất, các khoản vay mua ôtô, đi học, mua tivi, tủ lạnh cũng được đóng gói thành các chứng khoán bảo đảm bằng tài sản. Cụm từ “chứng khoán hóa” đăng ký nơi ra đời tại tầng 45 tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới, nơi đặt trụ sở của Salomon Brothers. Sáng tạo đồng nghĩa với lợi nhuận, tiền cứ thể đổ vào túi họ. Năm 1984, lợi nhuận của Salomon Brothers còn lớn hơn tất cả các công ty ở Phố Wall cộng lại và con số 38 tỷ đô-la danh mục đầu tư của nó lớn gấp bốn lần bất kỳ đối thủ nào. Kế đến là quyền lực, ngay đến Bộ Tài chính cũng phải nhờ tới Salomon mới phát hành hết được 2,3 nghìn tỷ đô-la nợ chính phủ trong thập niên 1980, vì họ là người mua lớn nhất. Có nhiều lời đồn đại cho rằng Salomon điều khiển được cả lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ. Trong ngôi đền của những huyền thoại, cái tên Salomon Brothers đã trở thành bất tử. Mặt trái của tấm huân chương Salomon dẫn đầu, Salomon là vua, Salomon vượt mặt toàn bộ Phố Wall. Trong thập niên 1980, những lời tung hô che giấu đi phần nào mặt trái tại Salomon Brothers. Trái với quan niệm trọng bằng cấp, bản thân Ranieri cùng nhiều nhân viên cao cấp tại Salomon chưa bao giờ có bằng đại học, một người mới chỉ học hết lớp 8. Nhưng đó là chuyện bình thường tại Salomon. Ranieri không yêu cầu nhân viên của mình phải có kiến thức chuyên sâu về tài chính, chỉ cần biết đánh vào điểm yếu của người khác, đe dọa để họ phải nghe lời, giăng bẫy người mua vướng vào mớ trái phiếu tệ hại − thế là đủ. Khi giá đã ổn định, MBS không còn gì hơn các loại trái phiếu trên thị trường cũng như Salomon không còn gì hơn các đối thủ khác. Từ đây, như một quả báo, vận rủi và tai tiếng cứ liên tiếp ập xuống Salomon. Năm 1991 là khoản phạt 290 triệu đô-la vì gian lận đấu thầu chứng khoán và cáo buộc thao túng thị trường. Danh tiếng tiêu tan và công ty suýt bị thôn tính. Thói gian lận có lẽ đã ám ảnh Salomon. Năm năm sau ngày trở thành một bộ phận của Citigroup năm 1998 với cái tên Salomon Smith Barney, công ty lại là trung tâm trong vụ án mâu thuẫn lợi ích “Global Settlement”, với cáo buộc phát hành báo cáo nghiên cứu gian lận và hối lộ lãnh đạo doanh nghiệp. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay nhen nhóm từ MBS rồi bùng phát dữ dội vì CDO (collateralized debt obligation), một “sáng tạo” nữa của Ranieri thời còn gắn bó với Salomon. Chính Citigroup cũng vì MBS và CDO mà suýt nữa rơi vào cảnh phá sản, nếu không nhận được sự cứu trợ từ chính phủ Hoa Kỳ. Về phần mình, Ranieri giúp ngân hàng Franklin Bank của mình tránh khỏi mớ bòng bong của MBS và CDO, nhưng tránh “vỏ dưa gặp vỏ dừa”, tháng 11 năm 2008, Franklin Bank vẫn sụp đổ vì nợ xấu của các nhà thầu xây dựng! Trò bịp trên Phố Wall Tất cả những sự kiên, diễn biến ở Phố Wall và Salomon được kể lại đầy lôi cuốn và hấp dẫn qua cuốn tự truyện của Michael Lewis. Liar's Poker (Trò bịp trên Phố Wall) mô tả kinh nghiệm của tác giả trong vai trò một tay buôn trái phiếu trên Phố Wall trong suốt thập niên 1980. Cuốn sách chính là một “bản báo cáo nội gián” soi rõ từng chân tơ kẽ tóc giới giao dịch chứng khoán.  Vào thập niên 1980, Michael Lewis là tay kinh doanh trái phiếu tập sự cho Salomon Brothers ở New York và London trong suốt bốn năm. Poker – Bài nói dối – là một trò chơi mang tính lừa bịp và đặt cược cao mà các thương nhân, các tay buôn cổ phiếu và giới ngân hàng đầu tư thường chơi mỗi buổi chiều, nhưng nó cũng là một ẩn dụ cho các nền văn hóa của Salomon đầy mạo hiểm, rủi ro và bịp bợm. Đó là một cuộc chơi không khoan nhượng. Lewis kể về câu chuyện thực của Phố Wall trong cả những ngày vinh quang và giai đoạn sụp đổ với giọng văn đầy hài hước, châm biếm. Những nhân vật đầy màu sắc và nổi tiếng ở Phố Wall như Michael Milken, người đã phát triển loại trái phiếu có lãi suất cao nhưng đầy rủi ro (high-yield debt/junk bond), nhà đầu tư Warren Buffett, nhà phân tích chứng khoán Bill Simon, Lewis Ranieri − người đứng đầu phòng thế chấp của Salomon Brothers và John Gutfreund − giám đốc điều hành Salomon đều xuất hiện sống động trong cuốn sách này.  Là sinh viên Đại học Princeton, Lewis muốn bước chân vào Phố Wall nhưng đều bị mọi công ty mà ông nộp đơn từ chối. Không kiếm được việc, ông phải xin vào Trường Kinh tế London (LSE) để kiếm một tấm bằng Thạc sỹ Kinh tế. Tình cờ Lewis có dịp ngồi cạnh bà vợ của hai nhà quản lý Salomon Brothers và nhờ đó tìm được việc làm đầu tiên của mình ở Salomon. Ở New York, Lewis đã học những bài bọc đầu tiên về nền văn hóa tiền bạc của Salomon và Phố Wall trong một chương trình đào tạo của công ty này. Sau đó, Lewis chuyển tới văn phòng Salomon Brothers ở London. Mặc dù là tay kinh doanh thiếu kiến thức và kinh nghiệm song ông sớm được giao quyền xử lý hàng triệu đô-la trong các tài khoản đầu tư. Năm 1987, ông đã chứng kiến sự mua bán liều mạng và đầy thù địch của Salomon Brothers, nhưng vẫn tiếp tục trụ lại công ty. Giao dịch và kinh doanh trái phiếu − tưởng chừng đó là loại công việc cần trình độ và tư duy tài chính, song thực tế lại đòi hỏi những kỹ năng khác hẳn: khai thác những điểm yếu và đe dọa người khác, tận dụng sự thiếu hiểu biết của những “kẻ khờ” để kiếm tiền và nhờ đó trở nên cực kỳ giàu có. Lewis đã gọi đó là thế giới của “Luật rừng”. Năm 1988, khi ngày càng trở nên thất vọng với công việc, Lewis từ bỏ công việc mà ông đang ở trên đỉnh cao để viết cuốn sách này, bắt đầu sự nghiệp một nhà báo tài chính. Cuốn sách đã vạch trần toàn bộ mọi sự vụ ở Phố Wall, về văn hóa Phố Wall, về giới giao dịch trái phiếu, về niềm tin của họ và công việc thật sự của họ. Khi kể về những tháng ngày tại Salomon, Lewis đã viết: “Salomon là khu rừng hoang dại đầy những con thú khát máu gắn mác giao dịch viên”.  Với mức độ thâu tóm và nhận diện chính xác cả một thời kỳ, Trò bịp trên Phố Wall chính là bản dự báo cho hai cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay và một số yếu tố trong sự sụp đổ của Enron hay nhiều vụ bê bối tài chính khác, bởi gốc rễ lịch sử của chúng khởi phát mầm mống từ chính những trò lừa đảo của Phố Wall, mà Salomon là đại diện tiêu biểu. Cùng với những cuốn sách mà Alpha Books đã xuất bản như Trên đỉnh Phố Wall của Peter Lynch và John Rothchild, Hồi ức của một thiên tài đầu tư chứng khoán của Edwin Lefèvre, Bước đi ngẫu nhiên trên Phố Wall của Burton G. Malkiel, Đánh bại Phố Wall của Peter Lynch…, Trò bịp trên Phố Wall của Michael Lewis là cuốn sách kinh điển, được xem như là “gối đầu giường” của giới giao dịch chứng khoán và những người tham vọng gia nhập vào thế giới này. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả! Tháng 1 năm 2010 Nguyễn Cảnh Bình Giám đốc Công ty Alpha Books Mời các bạn đón đọc Trò Bịp Trên Phố Wall của tác giả Michael Lewis.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ghi Chép Của Krishnamurti (Jiddu Krishnamurti)
Vào tháng 9 năm 1973 Krishnamurti bỗng nhiên bắt đầu viết nhật ký hằng ngày. Trong vòng sáu tuần lễ ông viết trong một quyển sổ tay. Vào tháng đầu tiên của thời gian này ông ở tại Brockwood, Hampshire, và thời gian còn lại ở tại Rome. Ông bắt đầu viết lại mười tám tháng sau khi ở California. Gần như mỗi bài đều mở đầu bằng sự miêu tả về một cảnh thiên nhiên nào đó mà ông thân thuộc, tuy nhiên chỉ có ba lần trong những miêu tả này nói về nơi ông đang ở thực sự. Vì vậy, trang đầu tiên của bài thứ nhất ông miêu tả khu rừng trong công viên tại Brockwood nhưng qua bài thứ hai rõ ràng ông đang ở Switzerland bằng tưởng tượng. Chỉ mãi đến khi ông đang ở California năm 1975 ông mới bắt đầu miêu tả môi trường chung quanh thực sự của ông. Trong những bài còn lại, ông đang nhớ lại những nơi ông đã sống, bằng một sự rõ ràng thể hiện trí nhớ sắc sảo của ông về phong cảnh tự nhiên, khởi nguồn từ sự tinh tế trong quan sát của ông. Tập nhật ký này cũng bộc lộ sự gần gũi thiên nhiên của ông đã tạo ra ảnh hưởng quan trọng trong những lời giáo huấn của ông. Qua tập nhật ký, Krishamurti dùng ngôi thứ ba là chữ “ông ta” để nói về ông, và trong những chi tiết nhỏ ông kể cho chúng ta một sự việc gì đó về bản thân mà từ trước ông không bao giờ đề cập đến. *** Jiddu Krishnamurti hay J. Krishnamurti, là một tác gia và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần. Các chủ đề bao gồm (nhưng không giới hạn): mục đích của thiền định, mối quan hệ giữa con người, và phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu. Tìm mua: Ghi Chép Của Krishnamurti TiKi Lazada Shopee Krishnamurti được sinh ra trong một gia đình Bà la môn tại Ấn Độ (khi ấy là một nước thuộc địa). Khi còn thanh niên, Krishnamurti có cơ hội gặp gỡ với ông C.W. Leadbeater một nhà huyền bí học nổi tiếng và có vị trí cao trong Hội Thông Thiên Học tại một khu đất thuộc trụ sở chính của Hội Thông Thiên Học ở Adyar thuộc Madras (bây giờ là Chennai). Sau đó, Krishnamurti được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và ông C.W. Leadbeater, những nhà lãnh đạo của Hội Thông Thiên Học lúc đó tin rằng Krishnamurti sẽ trở thành vị Thầy Thế giới trong tương lai. Krishnamurti đã bác bỏ ý tưởng này và giải tán hội Ngôi Sao Phương Đông (một tổ chức toàn cầu được lập để hỗ trợ ý tưởng này). Krishnamurti khẳng định rằng mình không thuộc bất cứ quốc tịch, tầng lớp, tôn giáo hay trường phái triết học nào, và ông giành suốt quãng đời còn lại của mình đi khắp thế giới như một nhà diễn thuyết độc lập, nói chuyện với các nhóm lớn và các nhóm nhỏ, cũng như với những cá nhân quan tâm. Krishnamurti là tác giả của rất nhiều cuốn sách, ngoài ra, một khối lượng đồ sộ các bài nói và thảo luận của ông cũng được xuất bản. Ở tuổi 90, Krishnamurti đã diễn thuyết tại Liên Hợp Quốc về chủ đề hòa bình và nhận thức, và ông đã được trao tặng Huân chương Hòa Bình của Liên Hợp Quốc năm 1984. Buổi nói chuyện trước công chúng cuối cùng của ông diễn ra tại Madras, Ấn Độ, tháng 1 năm 1986, một tháng trước khi ông qua đời tại nhà riêng tại Ojai, California.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jiddu Krishnamurti":Dưới Chân ThầyNghĩ Về Những Điều NàyLửa Trong Cái TríThâm Nhập Thấu TriệtThư Gửi Trường HọcBài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi SaoBạn Đang Nghịch Gì Với Đời MìnhTự Do Vượt Trên Sự Hiểu BiếtBàn Về Cách Kiếm Sống Đúng ĐắnBàn Về Tình Yêu Và Sự Cô ĐộcCái Gương Của Sự Liên HệĐánh Thức Trí Thông MinhGiáo Dục Và Ý Nghĩa Của SốngGiáp Mặt Cuộc ĐờiSổ Tay Của KrishnamurtiTương Lai Của Nhân LoạiTuyển Tập KrishnamurtiVượt Khỏi Bạo LựcQuyển Sách Của Cuộc Đời Jiddu KrishnamurtiĐối Mặt Với Thế Giới Hoảng LoạnGhi Chép Của KrishnamurtiĐường Vào Hiện SinhKhai Sáng Trí NăngHướng Đi Cho Cuộc ĐờiNỗi Đau Thời GianÝ Nghĩa Về Sự Chết, Đau Khổ Và Thời GianĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghi Chép Của Krishnamurti PDF của tác giả Jiddu Krishnamurti nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ghi Chép Của Krishnamurti (Jiddu Krishnamurti)
Vào tháng 9 năm 1973 Krishnamurti bỗng nhiên bắt đầu viết nhật ký hằng ngày. Trong vòng sáu tuần lễ ông viết trong một quyển sổ tay. Vào tháng đầu tiên của thời gian này ông ở tại Brockwood, Hampshire, và thời gian còn lại ở tại Rome. Ông bắt đầu viết lại mười tám tháng sau khi ở California. Gần như mỗi bài đều mở đầu bằng sự miêu tả về một cảnh thiên nhiên nào đó mà ông thân thuộc, tuy nhiên chỉ có ba lần trong những miêu tả này nói về nơi ông đang ở thực sự. Vì vậy, trang đầu tiên của bài thứ nhất ông miêu tả khu rừng trong công viên tại Brockwood nhưng qua bài thứ hai rõ ràng ông đang ở Switzerland bằng tưởng tượng. Chỉ mãi đến khi ông đang ở California năm 1975 ông mới bắt đầu miêu tả môi trường chung quanh thực sự của ông. Trong những bài còn lại, ông đang nhớ lại những nơi ông đã sống, bằng một sự rõ ràng thể hiện trí nhớ sắc sảo của ông về phong cảnh tự nhiên, khởi nguồn từ sự tinh tế trong quan sát của ông. Tập nhật ký này cũng bộc lộ sự gần gũi thiên nhiên của ông đã tạo ra ảnh hưởng quan trọng trong những lời giáo huấn của ông. Qua tập nhật ký, Krishamurti dùng ngôi thứ ba là chữ “ông ta” để nói về ông, và trong những chi tiết nhỏ ông kể cho chúng ta một sự việc gì đó về bản thân mà từ trước ông không bao giờ đề cập đến. *** Jiddu Krishnamurti hay J. Krishnamurti, là một tác gia và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần. Các chủ đề bao gồm (nhưng không giới hạn): mục đích của thiền định, mối quan hệ giữa con người, và phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu. Tìm mua: Ghi Chép Của Krishnamurti TiKi Lazada Shopee Krishnamurti được sinh ra trong một gia đình Bà la môn tại Ấn Độ (khi ấy là một nước thuộc địa). Khi còn thanh niên, Krishnamurti có cơ hội gặp gỡ với ông C.W. Leadbeater một nhà huyền bí học nổi tiếng và có vị trí cao trong Hội Thông Thiên Học tại một khu đất thuộc trụ sở chính của Hội Thông Thiên Học ở Adyar thuộc Madras (bây giờ là Chennai). Sau đó, Krishnamurti được nuôi dưỡng dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và ông C.W. Leadbeater, những nhà lãnh đạo của Hội Thông Thiên Học lúc đó tin rằng Krishnamurti sẽ trở thành vị Thầy Thế giới trong tương lai. Krishnamurti đã bác bỏ ý tưởng này và giải tán hội Ngôi Sao Phương Đông (một tổ chức toàn cầu được lập để hỗ trợ ý tưởng này). Krishnamurti khẳng định rằng mình không thuộc bất cứ quốc tịch, tầng lớp, tôn giáo hay trường phái triết học nào, và ông giành suốt quãng đời còn lại của mình đi khắp thế giới như một nhà diễn thuyết độc lập, nói chuyện với các nhóm lớn và các nhóm nhỏ, cũng như với những cá nhân quan tâm. Krishnamurti là tác giả của rất nhiều cuốn sách, ngoài ra, một khối lượng đồ sộ các bài nói và thảo luận của ông cũng được xuất bản. Ở tuổi 90, Krishnamurti đã diễn thuyết tại Liên Hợp Quốc về chủ đề hòa bình và nhận thức, và ông đã được trao tặng Huân chương Hòa Bình của Liên Hợp Quốc năm 1984. Buổi nói chuyện trước công chúng cuối cùng của ông diễn ra tại Madras, Ấn Độ, tháng 1 năm 1986, một tháng trước khi ông qua đời tại nhà riêng tại Ojai, California.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jiddu Krishnamurti":Dưới Chân ThầyNghĩ Về Những Điều NàyLửa Trong Cái TríThâm Nhập Thấu TriệtThư Gửi Trường HọcBài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi SaoBạn Đang Nghịch Gì Với Đời MìnhTự Do Vượt Trên Sự Hiểu BiếtBàn Về Cách Kiếm Sống Đúng ĐắnBàn Về Tình Yêu Và Sự Cô ĐộcCái Gương Của Sự Liên HệĐánh Thức Trí Thông MinhGiáo Dục Và Ý Nghĩa Của SốngGiáp Mặt Cuộc ĐờiSổ Tay Của KrishnamurtiTương Lai Của Nhân LoạiTuyển Tập KrishnamurtiVượt Khỏi Bạo LựcQuyển Sách Của Cuộc Đời Jiddu KrishnamurtiĐối Mặt Với Thế Giới Hoảng LoạnGhi Chép Của KrishnamurtiĐường Vào Hiện SinhKhai Sáng Trí NăngHướng Đi Cho Cuộc ĐờiNỗi Đau Thời GianÝ Nghĩa Về Sự Chết, Đau Khổ Và Thời GianĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghi Chép Của Krishnamurti PDF của tác giả Jiddu Krishnamurti nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Dòng Sông Tuổi Dại (George Eliot)
Từ nhiều thế hệ nay, gia đình Tulliver sống tại cối xay gió Dorlcote. Chính vì vậy mà cuộc sống của ông chủ cối xay trôi đi bình an hệt như dòng sông nhỏ bao quanh cối xay gió, nơi Tom và em gái Maggie của cậu thả mồi câu cá bình an vô sự. Nhưng thói thường, các tuyệt tác thì không chỉ xây lên những nhân vật mà không có sóng gió ba đào, và trong cuốn tiểu thuyết này cũng vậy, câu chuyện an bình dần dần bị xô vào thảm kịch. Một vụ kiện do ông Tulliver đưa ra nhằm ngăn cản sự tưới tiêu sẽ khiến dòng sông bị đổi dòng chảy, dẫn đến sự hủy hoại và sẽ buộc phải bán cối xay gió, đã bị thua. Khoảng thời gian ngây thơ bị gián đoạn một cách bất ngờ và dữ dội, kể từ đây Tom phải tái lập lại danh dự của gia đình và lo mọi nhu cầu thiết yếu cho các thành viên. Maggie, một thiếu nữ có óc tưởng tượng vô bờ bến, bốc đồng và đầy đam mê. Cô bé rất cần sự trìu mến mà cô luôn nhận được từ cha mình nhưng anh trai Tom lại từ chối không cho cô điều ấy. Hai đứa trẻ nhà Tulliver rất khác nhau về mặt thể hình cũng như trí thông minh. Nhưng Tom là con trai, vậy nên anh sẽ được học tiếng la tinh và toán, những môn mà Tom chẳng có tham vọng gì lớn, kết quả do vậy cũng chẳng cao gì. Là con trai quả có nhiều ưu đãi hơn, nhất là luôn nhận được tiền bỏ túi nhiều hơn. Tom học cùng với Philippe Wakem, nhưng họ không phải là bạn nhau, ngược hẳn với Maggie, cô đã kết thân với Philippe mà không hề bận tâm đến việc cha của Philippe, một trưởng khế Wakem của thành phố đã có cuộc chiến tranh ngầm với chính chủ cối xay gió Tullivier. Chính do Wakem mà Tulliver khánh kiệt. Rồi Tom cũng thành đạt trong công việc làm ăn, không phải nhờ học hành của anh mà nhờ những phẩm chất và tính kiên trì đến ám ảnh của mình, cộng thêm sự trợ giúp của người chú. Anh đã trả nợ được cho gia đình mình. Lúc ấy Philippe Wakem tỏ tình với Maggie, cô gái trẻ không phải không biết rằng thứ tình cảm đó sẽ chẳng có tương lai, chiểu theo sự thù hận mà cha và anh trai cô dành cho trưởng khế Wakem. Maggie là một cô gái đáng yêu, có lẽ không phải là hoàn hảo nhất, nhưng cô biết nhận ra những sai lầm của mình. Maggie tôn thờ anh trai Tom của mình nhưng vẫn e ngại anh bởi tính cương quyết của anh. Những tình cảm thời niên thiếu của Maggie được tác giả miêu tả rất tinh tế. Thiếu nữ đã rất đau khổ vì thấy mình không xinh, không ngoan, không kiên nhẫn và nhất là không cẩn thận. Tại điểm này, Eliot George đưa chúng ta quay về với tình cảm thời trẻ thơ của mình để không coi những phản ứng của trẻ như thể chúng đã là người lớn. Xuất hiện năm 1860, Dòng sông tuổi dại - The Mill on the Floss là cuốn tiểu thuyết tự truyện của George Eliot. Trong tác phẩm, bà khiến chúng ta sống lại những cảm xúc thời niên thiếu và lồng thứ tình cảm đó vào trong nhân vật Maggie, nữ người hùng nổi loạn không chấp nhận vai trò được gán cho phụ nữ trong thời kỳ trị vì của nữ hoàng Victoria. Tìm mua: Dòng Sông Tuổi Dại TiKi Lazada Shopee Dòng sông tuổi dại được tạp chí Lire của Pháp bình chọn là một trong mười tác phẩm đáng đọc trước khi đến ngày tận thế. Một tác phẩm đáng đọc, đáng suy ngẫm.***Vài nét về tác giả: George Eliot là bút hiệu của Mary Ann hay Marian Evans, là tiểu thuyết gia, nhà văn tiên phong của thời đại Victoria và nổi tiếng với các tác phẩm The Mill on the Floss, Silas Marner, Romola, Felix Holt, the Radical, Middlemarch, Daniel Deronda. Các tác phẩm của bà phản ánh đời sống trung lưu tại miền nông thôn, liên quan tới thuở thiếu thời và thanh niên của tác giả, mô tả đời sống đơn giản cùng với các cảm xúc, tình cảm và trí hiểu biết của người dân miền quê và người dân tỉnh nhỏ. Nhà văn George Eliot đã phá vỡ mọi khuôn mẫu bằng những tác phẩm viết về các vấn đề chính trị và xã hội thời bấy giờ. Bà sử dụng bút danh nam George Eliot để đảm bảo các tác phẩm của mình được chú trọng và không muốn bị coi là một nhà văn lãng mạn đơn thuần.***BĂNG NGANG MỘT CÁNH ĐỒNG RỘNG LỚN, DÒNG sông Floss trườn mình giữa hai bờ cây cối xanh um, cuồn cuộn mang cả triều lưu xinh xắn, tâm sự cùng biển cả. Trên mặt nước hùng vĩ đó, những chiếc tàu đen đúa - chở đầy gỗ bạch còn thơm phức, hạt dầu và than đá chiếu ngời - nối đuôi nhau xuôi về St. Ogg’s, một thành phố lớn cổ kính với những mái nhà ngói đỏ có gắn kiếng ở đầu hồi, nhô lên khoảng giữa đồi cây thấp với bến sông, khiến dòng nước biến thành màu đỏ nhẹ nhàng dưới ánh mặt trời tươi dịu của tháng hai. Hai bên thành phố trải dài những mục trường phồn thịnh cùng những cánh đồng nâu thẳm, sẵn sàng tiếp nhận hạt mầm cho mùa kế tiếp chắc chắn sẽ tươi xanh, hoặc đang phe phẩy của mùa bắp sắp tới vào tháng tám. Rải rác đây kia là những đụn rơm vàng ối còn lại của năm qua, người ta có cảm tưởng dường như những con tàu trên sông muốn vươn cột buồm nâu của chúng tới tận những cành cây nhô hẳn ra ngoài xa. Ngay sát những thành phố lâu đời đó, con sông nhánh Ripple ồ ạt đổ vào dòng Floss. Dòng sông nho nhỏ ấy mới đẹp làm sao với những đợt sóng gợn lăn tăn. Đối với tôi, nó là một người bạn đồng hành sống động trong khi tôi lang thang thả dọc theo bờ, lắng nghe tiếng nước thì thầm êm dịu. Tôi nhớ mãi hình ảnh những cây liễu ven sông, tôi nhớ mãi cây cầu đá. Và đây là nhà máy xay Dorlcote. Lần nào cũng thế, cứ mỗi lúc qua cầu là tôi lại dừng chân đôi ba phút để ngắm nhìn ngôi nhà máy đó, mặc dầu mây báo hiệu sắp mưa và trời đã về chiều. Ngay cả thời kỳ cây cối đều trụi là của tháng Hai sắp đi qua, nhà máy xay Dorlcote cũng vẫn còn giữ được cái dáng vẻ ưa nhìn. Có lẽ cái không khí rét và ẩm ướt trong mưa đã tăng thêm phần duyên dáng cho ngôi nhà trú ngụ, cũng già cỗi không thua gì các cây du, cây dẻ đang làm thành bức chắn ở một phía nhà để che luồng gió bấc. Thủy triều đã dâng cao tại nơi trồng liễu và tràn lên tới tận bờ khoảnh đất rào ở trước nhà. Nhìn mặt sông căng phồng, nhìn đám cỏ mượt non cùng bụi phấn xanh trong bám vào các thân cây bên dưới những nhánh, cành nâu sậm trơ trụi lá, tôi thấy yêu sự ẩm ướt của tiết trời, tôi thèm được biến thành những con ngỗng trắng đang dìm đầu vào nước giữa những hàng cây liễu, chẳng mãy may chú ý tới cái cảnh sắc khô ráo hơn đôi chút ở bên trên. Giòng sông chảy siết và tiếng động ầm ầm của nhà máy xay lấn át tất cả mọi âm thanh dường như tăng thêm sự an hòa của cảnh vật. Những tiếng động ầm ỉ và dầu điều đó tạo thành một bức tường âm thanh dày kín, khiến có cảm tưởng như mình đã được hoàn toàn cô lập với thế giới bên ngoài. Rồi tiếng ầm vang như sấm dậy của cổ xe khổng lồ chở đầy hạt về nhà. Người lái xe ngay thật đó chẳng nghĩ gì khác hơn là bữa ăn đang chờ đợi ông ta ở bếp lò, nhưng ông ta vẫn chưa thể nào bàn được ngay vì còn phải lo cho cặp ngựa ăn - hai con vật khỏe mạnh và thuần tính - đang nhìn chủ với ánh mắt trách phiền là tại sao đã quất roi vào lưng chúng lúc đi đường, làm như chúng là loại vật hay ươn ngạnh! Cứ nhìn lúc chúng vươn vai, cố gắng vượt lên dốc cầu thì đủ biết chúng cũng nôn nóng được về mau chẳng thua gì chủ. Hãy nhìn vào những đôi chân to lớn, dầy lông của chúng cứ như muốn vồ lấy từng khoảng đất dài; hãy nhìn sức chịu đựng nhẫn nại nơi cổ chúng, những bắp thịt đùi vồng lên cũng đủ biết chúng đã nổ lực đến dường nào. Tôi vẫn thích nghe chúng hí bên máng bắp chẳng mấy gì nhiều, tôi thích nhìn vồng cổ mượt mồ hôi của chúng khi được tháo gỡ yên cương, tôi cũng thích thú vô cùng khi chúng được tự do chúi mũi vào vũng nước bùn để uống. Bây giờ, chúng đang lao xuống dốc cầu và vồng mui căng tròn của cổ xe mất hút sau một khúc quanh đầy cây cối. Tôi lại hướng mặt về nhà máy xay, ngắm nhìn bánh xe quay tròn không ngừng nghỉ và hất tung ra từng cụm kim cương nước. Cô bé cũng đang nhìn vào đó. Từ lúc tôi dừng lại trên cầu, cô gái nhỏ vẫn đứng yên một chỗ cạnh bờ sông trong khi con chó xù lông trắng, tai nâu, nhảy dựng từng hồi, vừa nhìn vào guồng nước vừa sũa oang oang. Có lẽ nó đang ghen tị với cái bánh xe vô tình kia bởi vì người bạn đội mũ sụp của nó cứ mê mãi nhìn vào đó mà quên phứt nó đi. Đã tới giờ người bạn nó phải về nhà, tôi nghĩ thế, bởi vì có một ánh lửa ấm đang chờ, ánh lửa đang chiếu ra giữa nền trời càng lúc càng xám mịt. Cả tôi nữa, cũng đã tới lúc phải nhấc đôi tay mình ra khỏi thành cầu giá lạnh... Tay tôi đã bị tê cóng thật sự rồi! Tôi phải tựa cả hai vào thành ghế đang ngồi quá lâu để hồi tưởng lại lúc đứng trên cầu, đối diện với nhà máy xay Dorlcote vào một chiều tháng hai nhiều năm trước. Trước khi ngủ thiếp đi, tôi xin mạn phép kể lại quý vị nghe những gì đã được bàn tới giữa ông và bà Tulliver, trong khi họ đang ngồi bên cạnh lò sưởi đỏ ngời ở cánh trái phòng khách, ngay vào chính buổi chiều mà tôi vừa tưởng nhớ lại.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Dòng Sông Tuổi Dại PDF của tác giả George Eliot nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đặng Thái Sơn - Người Được Chopin Chọn (Ikuma Yoshiko)
"Đặng Thái Sơn đã làm thay đổi cả một nền âm nhạc!Anh đã làm điều đó như thế nào?"Đặng Thái Sơn vẫn thường nói sẽ biểu diễn những dạng mục đa dạng, từ các bản nhạc của Chopin cho đến các tác phẩm âm nhạc Nga, Pháp. Danh mục này càng mở rộng, anh càng chứng minh được sự trưởng thành của một nghệ sĩ dương cầm tài năng. Sau nhiều năm, thường xuyên viết bài về những nghệ sĩ dương cầm, nghe và xem họ biểu diễn, tác giả rút ra một kết luận: "Nghệ sĩ dương cầm thể hệ truyền cảm nhất khi đến tuổi 40". Không biết có phải vì cây đàn piano quá lớn, không như violon, mà các nghệ sĩ nhí, được gọi là "thần đồng", thường xuất hiện trên sân khấu với loại nhạc cụ có dây, còn chơi piano, nếu không qua một độ tuổi nhất định thì khó mà biểu diễn thành công, chỉ dừng ở chơi cho vui, cho biết. Có lẽ cần nhiều thời gian để một người có thể hiểu cơ cấu và cảm nhận về loại nhạc cụ phức tạp này. Thông thường, các nghệ sĩ piano muốn thành công trên con đường sự nghiệp biểu diễn quốc tế, có mặt trong các buổi hoà nhạc lớn ở các nhà hát lừng danh, không còn cách nào khác hơn là tham gia các cuộc thi piano quốc tế từ độ tuổi 15 đến 30. Cũng có trường hợp được các ông bầu nổi tiếng hay những công ty sản xuất âm nhạc phát hiện, nhưng đây là những trường hợp rất hiếm. Tuy nhiên, với nhiều người được vinh danh tại các cuộc thi âm nhạc, ngay sau khi nhận giải thưởng, dù họ có tổ chức nhiều hoạt động rình rang, đình đám như thế nào thì vài năm sau đó, tên tuổi của họ cũng dần trở nên im ắng. Cuộc đời của những nghệ sĩ piano luôn nghiệt ngã như thế đấy! Bất chấp tất cả, họ vẫn tồn tại, vẫn luyện tập từng giờ từng ngày, chấp nhận đánh đổi cuộc đời mình cho nghiệp dương cầm. Chính vì vậy, khi biểu diễn, những thăng trầm của cuộc đời nghệ sĩ dương cầm được thể hiện rất rõ nét qua tiếng đàn. Từng nốt nhạc vang lên phản ánh chân thực lối sống của người nghệ sĩ. Âm nhạc luôn luôn gắn bó với họ. Ngay cả khi đi ngủ, những bản nhạc mà họ đang luyện tập vẫn cứ réo rắt vang lên trong đầu. Tìm mua: Đặng Thái Sơn - Người Được Chopin Chọn TiKi Lazada Shopee Chúng ta, những khán giả thưởng thức âm nhạc, sẽ cảm nhận và hiểu hơn về lẽ sống của người nghệ sĩ piano từ những buổi biểu diễn của họ, đó chính là cái mà chúng ta gọi là sự "đồng điệu". Đời người thay đổi, âm nhạc cũng đổi thay. Kinh nghiệm sống đem lại sự cảm nhận tác phẩm sâu sắc và sự truyền cảm khi biểu diễn. Từ một cuộc sống đầy trắc trở, điều mà Đặng Thái Sơn học được, đó là gì? Tác giả bắt đầu cuộc hành trình giải mã những điều bí ẩn xung quanh con người Đặng Thái Sơn.***Đặng Thái Sơn nhận được bức thư chúc mừng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Với giải nhất trong cuộc thi Chopin, Đặng Thái Sơn đã mang vinh dự về cho đất nước Việt Nam. Tài năng của anh đã được cả thế giới công nhận. Sự thành công của Đặng Thái Sơn đã khiến Chính phủ đẩy mạnh giao lưu hợp tác quốc tế, cho các tài năng âm nhạc trẻ ở Việt Nam sang Liên Xô du học, đồng thời cũng mở ra những con đường mới thông thoáng cho giới nghệ sĩ và tầng lớp trí thức. Sơn cảm thấy hạnh phúc vì vai trò của mình hơn là giải thưởng, anh đã trở thành tấm gương cho thế hệ sau noi theo. Cũng nhờ anh mà sự nghi kị giữa chính phủ và cha anh không còn nữa. Cha anh đã được chính phủ tạo điều kiện tốt nhất để điều trị bệnh. Khi về đến sân bay quốc tế Nội Bài, Hà Nội, Sơn có cảm giác bất an cho đến khi gặp mọi người ở đại sảnh. Đó là thầy giáo và các học sinh trong nhạc viện Hà Nội, mọi người đều ra đón Sơn. Đối với Sơn những người trong nhạc viện cũng đồng thời là gia đình. Mọi người gọi thật to, đầy những gương mặt tươi cười. “Đặng Thái Sơn, chúc mừng chiến thắng.” “Cậu đã làm được. Tuyệt thật.” “Sơn, Sơn Chopin.” Mọi người vừa chúc mừng vừa vỗ tay. Sơn đã ở lại Nhạc viện Hà Nội mừng chiến thắng trong một tuần lễ. Tại sân bay chật ních những người đón Sơn. Anh cảm động nói: “Tôi không nghĩ là có nhiều người đón chào như thế. Gương mặt mọi người thật sự trông rất hạnh phúc. Tôi xúc động quá!” Sơn cầm hành lý đứng thẳng lên. Cũng có nhiều người trong chính phủ ra đón. Một người đại diện chính phủ nói: “Đặng Thái Sơn. Anh đã trở về. Chúng tôi có thể làm gì cho anh không?” “Tôi chỉ muốn gặp lại cha mình”. Khi đến bệnh viện, Sơn được biết nhờ sự giúp đỡ của chính phủ mà căn bệnh ung thư phổi của cha anh đã qua cơn nguy kịch. Ông Hưng đã khỏe và có thể sống thêm 10 năm nữa. Điều mà ông mừng nhất là có thể sáng tác một cách tự do hơn. Gặp lại con trai ông xúc động nói: “Sơn. Cám ơn con. Cha muốn trở thành nghệ sĩ hay nhà văn. Mọi người đều có thể phát huy tài năng của chính mình. Thời đại đã thay đổi, cánh cửa mới đã mở ra. Chiến thắng của con chính là mục tiêu các nghệ sĩ Việt Nam phải tiến đến. Sao mà vui đến thế. Cha không nghĩ cha con ta có được niềm vui này.” Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tự mình chuẩn bị món quà lớn cho Sơn. Đó chính là danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”. Ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên một nghệ sĩ mới qua tuổi 20 nhận được danh hiệu cao quý này. Vì điều kiện liên lạc khó khăn nên mẹ Sơn đang công tác tại Sài Gòn không nhận được tin tức về con trai. Một ngày nọ, một người quen đến nói với bà: “Chị Liên, tôi nghe trên radio nói con trai của chị đạt giải nhất trong cuộc thi đó.” “Nói gì thế? Thật không đó? Đừng có trêu tôi!” “Thật mà. Nhà tôi nghe đài phát thanh Úc mà. Không nhầm đâu. Chính xác là Đặng Thái Sơn, giải nhất mà.” Quá vui mừng bà chạy đến những người xung quanh thông báo tin mừng. “Thầy ơi, con trai của em chiến thắng rồi. Đưa tin trên đài Pháp và Mĩ.” Vào lúc đó, có nhiều nhà nghe chương trình phát thanh tiếng Việt của đài nước ngoài. Bà Liên đã nhận được tin mừng, nhưng không có điện thoại hay cách nào để xác nhận lại. Đài Việt Nam ba ngày sau chung kết cuộc thi mới đưa tin. Ngay lập tức Thủ tướng đánh điện báo đến Vácxava. Phương châm của Sơn chính là “chậm mà chắc”. Sơn thích câu nói này từ rất lâu vì anh cảm thấy mình là người không nhanh trí. “Từ nhỏ tôi cũng học giống như người khác nhưng mãi về sau mới thấm được. Nhưng nếu bắt đầu sớm thì có thể kết thúc cũng sớm. Trong trường hợp của tôi là thật sự rất muộn. Nên tôi nghĩ con đường tôi đi sẽ còn dài về sau nữa.” Những kinh nghiệm mới mẻ mà Sơn có được khi sống ở Việt Nam, Liên Xô, Nhật Bản, Canada đã mài giũa âm nhạc, tạo nên con người mới trong anh. Con người ấy thể hiện rất rõ khi anh biểu diễn. Khi mới chuyển đến Canada, trong những lần biểu diễn đầu tiên, anh đã nhận được khá nhiều bình phẩm đại loại: “Tại sao anh ta lại chơi nhanh như vậy?” “Âm nhạc của anh ta rốt cuộc muốn nói lên cái gì?” “Tại sao lại thể hiện như thế?” Đôi khi, những lời bình phẩm trở nên rất gay gắt, nhưng Sơn chỉ lặng lẽ đón nhận. Những lời bình phẩm khi anh diễn ở Mỹ còn khắt khe hơn nhiều. Sơn nói: “Tôi đã được nuôi dưỡng từ trong chiến tranh nên không thể nào ngọt ngào được.” Sơn cũng đã điều trị được căn bệnh của cổ tay nhiều năm dài. Sơn nhận ra dưới cổ tay trái có hạch, lúc đó là thời kì quan trọng, Sơn phải thi trong kì thi năm thứ hai ở Moscow. Với thân hình nhỏ bé, Sơn không thể luyện tập những bản nhạc lớn, rồi lại tới căn bệnh đó. Năm 1982, vì quá đau Sơn đã đành phải hủy bỏ biểu diễn trong một năm. Tiến hành thử nghiệm điều trị đủ loại nhưng không có tiến triển gì. Cũng trong thời gian này, Đặng Thái Sơn bị đau bao tử. Khi chuyển đến Canada, anh bắt đầu chuyển sang phương pháp điều trị bằng yoga, cuối cùng cũng khỏi. Từ lúc phát sinh đến vượt qua được mất hết 12 năm. Sơn nói: “Khi cơ thể yếu tôi mới hiểu được nỗi khổ của Chopin.” Sơn nhớ rất rõ về Hội chữ thập đỏ Vácxava, nơi cất giữ trái tim của Chopin. Cứ mỗi lần đến đó Sơn thường đứng hàng giờ trò chuyện với trái tim của Chopin. Khi ở không gian yên tĩnh ấy, tâm hồn Sơn được bình thản và quý trọng từng giây phút vừa đi qua. Dàn nhạc Giao hưởng Vácxava là chốn thân thương với Sơn. Sơn tâm sự: “Mỗi lần đến đây cứ như là quay lại với mình của ngày xưa. Giống như là quê hương vậy.” Tháng 3 năm 1992, Sơn biểu diễn hai bản concerto của Chopin cùng với dàn nhạc do Jerzy Maksymiuk làm nhạc trưởng-dàn nhạc và nhạc trưởng người Ba Lan. Khi đó trái tim Sơn tràn ngập xúc động không thể tả nổi. “Thế là đã 12 năm. Tất cả giống như một giấc mơ vậy. Tôi yêu nhạc Chopin. Và 12 năm nỗ lực đến gần tâm hồn của Chopin.” Khi Sơn bắt đầu hoạt động biểu diễn, anh vẫn chưa được phép biểu diễn ở Mỹ. Mỹ không cấp visa cho người Việt Nam. Nhưng vào năm 1989, Sơn đã có thể biểu diễn ở New York. Lúc đó chỉ có visa viếng thăm nên thời hạn không lâu. Tuy nhiên có thể trình diễn ở Mỹ là một bước vượt bậc đối với Sơn. “Mỹ có lẽ là một đất nước tự do nhưng thực tế thì khá thực dụng. Ảnh hưởng của chính trị cũng mạnh. Sau chiến tranh ở Việt Nam cho đến bây giờ, hiện thực vẫn là vết thương sâu đối với người Mỹ. Bây giờ nếu người Mỹ có đi du lịch ở Việt Nam thì cũng được người Việt Nam hết sức chào đón, nhưng ngược lại thì không thể. Quả thật là rất khó khăn.” Sau này, Sơn còn nhận được nhiều lời mời sang Mỹ biểu diễn. Năm 1994, Sơn biểu diễn tại Thành phố Hồ Chí Minh. Khán giả đều là người miền Nam nên Sơn lo lắng không biết có thể giao lưu với họ được không? Nhưng rồi âm nhạc đã kết nối Sơn với mọi người. Và anh còn có nhiều dịp trò chuyện với những người trước đó anh còn e ngại. Bây giờ Sơn đang định tiến tới bước tiếp theo. “Ước mơ của tôi là xây dựng trường học về âm nhạc. Tôi muốn tìm ra các em có tài năng và, nếu có thể, sẽ đào tạo các em thành nghệ sĩ âm nhạc thực thụ. Những ý niệm để cảm tạ quê hương đã ấp ủ nhiều năm qua. Khi sắp bước tới tuổi 40, Sơn nói: “Tôi là người đàn ông trưởng thành. Là một con người tự lập. Tôi bằng lòng với tuổi tác của mình. Tuổi trẻ thì đương nhiên tốt hơn rồi nhưng tôi phải chịu trách nhiệm tất cả những hành động, suy nghĩ của mình. Cách thể hiện chắc chắn phải ứng với tuổi tác. Bây giờ, tôi đàn theo ý mình, cách đàn này là do chính tôi muốn nghe, thích nghe như vậy. Mình chính là nghệ sĩ của chính mình.” Bây giờ Sơn đang dạy tại Trường âm nhạc Tokyo. Sơn còn được trường đại học Montréal mời về dạy và tổ chức biểu diễn ở những nơi khác nhau trên thế giới. Người mà Sơn yêu nhất là mẹ Liên. Khi mọi người hỏi vui: “Dạo này chị Liên không đàn nhạc của Chopin nữa nhỉ.” Thì bà trả lời: “Con trai của tôi rất giỏi nên tôi không bì được.”Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đặng Thái Sơn - Người Được Chopin Chọn PDF của tác giả Ikuma Yoshiko nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.