Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vịnh Kim Cương - Linda Howard

Đây là câu chuyện tình yêu thú vị, kịch tính và không kém phần nóng bỏng của nhà văn lãng mạn hàng đầu nước Mỹ - Linda Howard. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa Kell Sabin - huyền thoại tình báo và cô gái Rachel Jones tại vịnh Diamond. Trong một lần du ngoạn trên biển, tàu của Kell Sabin bị tập kích, khiến anh  phải cố gắng bơi vào bờ với hai vết đạn trên người. Thủy triều đã cuốn Kell Sabin đến Vịnh Diamond khi anh bất tỉnh vì kiệt sức. Tình cờ đi dạo trên biển, Rachel Jones bắt gặp Kell bị sóng đánh dạt gần bờ. Không ngần ngại, cô đã cứu và chăm sóc anh suốt bốn ngày đêm. Từng là phóng viên điều tra xuất sắc nhưng sau cái chết bi thảm của chồng, Rachel đã chuyển về sống tại nhà cũ tạ vịnh Diamond. Cô sống thoải mái với nghề kinh doanh hai cửa hàng bán đồ lưu niệm, viết vài quyển sách phiêu lưu mạo hiểm và tham gia khóa dạy ngắn hạn. Không biết từ lúc nào, Rachel đem lòng yêu người đàn ông mà cô cứu sống,  mặc dù chưa biết gì về anh. Khi Sabin tỉnh lại, hai người bắt đầu tìm hiểu về nhau và nhanh chóng bị cuốn hút bởi đối phương. Tuy nhiên, điều mà Rachel mong đợi là một tình yêu thật sự, còn thứ mà Sabin muốn chỉ là tình dục. Anh quyến luyến cô, nhưng không có ý định gắng bó lâu dài với bất kỳ người phụ nào. Bởi công việc của Kell quá nguy hiểm nên không muốn liên lụy đến ai. Vì vậy, anh quyết đinh ngay khi thương tích trên người lành lại sẽ lập tức rời khỏi nơi này. Sự xuất hiện của kẻ thứ ba đã đẩy hai nhân vật chính đến đỉnh điểm của sự căng thẳng. Nhưng điều đó lại khiến Kell nhận ra rằng mình đã thực sự yêu Rachel. Liệu cả hai có vượt qua được những nguy hiểm, khó khăn để tìm đến với nhau? *** Ánh nắng mắt trời rực rỡ tỏa hơi nóng thiêu đốt làn da trần, khắp ngực, chân và đôi chân dài của anh, dù đã gần đến lúc mặt trời lặn. Những tia sáng dọi ném những luồng ánh sáng nhảy múa lên đầu ngọn sóng, gần như thôi miên làm anh nhìn chúng mải mê. Không, làn nước lấp lánh không phải là thứ thôi miên anh, mà là sự thật rằng anh chả có gì quan trọng để làm ngoài việc mải mê nhìn chúng. Anh đã quên mất hòa bình có âm thanh như thế nào, có cảm giác ra sao. Trong một tháng dài, tuyệt vời, anh có thể thư giản chỉ một mình và chỉ là một ngời đàn ông. Anh sẽ câu cá bất cứ khi nào anh thích, hay bơi thuyền trên làn nước ấm áp, lôi cuốn của Gulf nếu anh thấy thao thức. Nước luôn luôn lôi kéo anh. Ở đây nó có màu xanh đen, ở kia có màu ngọc bích rực rỡ, đằng kia thì lại là một màu xanh long lanh nhẹ nhàng. Anh có đủ tiền để mua xăng và lương thực dự trữ, và chỉ có hai người trên thế giới biết anh ở đâu hay làm cách nào để liên lạc được với anh. Cuối kỳ nghỉ của tháng này anh sẽ quay lại cái thế giới xám xịt mà anh đã chọn và đánh mất mình trong bóng tối, những lúc này đây anh có thể nằm trong ánh nắng, và đó là tất cả những gì anh muốn. Kell Sabin đã mệt mỏi, chán nản và những thử thách không ngừng, những bí mật và thủ đoạn, cũng như nguy hiểm và dối trá trong công việc của anh. Đó là một công việc cực kỳ quan trọng, nhưng trong tháng này anh sẽ để một ai đó khác làm việc đó. Tháng này là của anh, anh gần như có thể hiểu được điều gì đã quyến rũ Grant Sullivan, người bạn thân và cũng là điệp viên giỏi nhất anh từng có, vào sự bí ẩn tĩnh lặng của những ngọn núi Tennessee. Sabin cũng đã là một điệp viên hàng đầu, một huyền thoại quanh Tam giác Vàng và, sau này, là vùng Trung Đông và Nam Mỹ, tất cả những điểm nóng trên thế giới. Giờ đây anh là một trưởng phòng, cái bóng đằng sau một nhóm điệp viên xuất sắc làm theo những hướng dẫn và huấn luyện của anh. Rất ít người biết về anh, lớp vỏ bảo vệ an toàn bao bọc quanh anh gần như là tuyệt đối. Sabin thích như vậy, anh là một người đàn ông cô độc, đen tối, luôn đối diện với thực tế khắc nghiệt của cuộc sống bằng cả sự hoài nghi lẫn chấp nhận. Anh biết rõ những hạn chế và nguy hiểm trong công việc của mình, và cả mặt bẩn thỉu và tàn nhẫn, nhưng anh là một người thực tế và anh đã chấp nhận tất cả những điều đó khi anh nhận lấy công việc này. Tuy vậy, thỉnh thoảng điều đó vẫn chộp lấy anh, và anh phải tránh xa nó, để sống những khoảng khắc ít ỏi giống như một công dân bình thường. Phương tiện đào thoát của riêng anh là chiếc thuyền được đặt làm theo ý mình. Kỳ nghỉ của anh, giống như mọi thứ khác về anh, là những bí mật được bảo vệ cấp cao, nhưng những ngày và đêm lênh đênh trên biển là những thứ khiến anh giống con người, những khoảng thời gian duy nhất anh có thể thư giãn và suy nghĩ, có lúc anh nằm trần truồng trong ánh nắng và thiết lập lại những liên kết với phần người của chính anh, hay nhìn những vì sao vào buổi tối và lấy lại quan điểm của mình. Một con mòng biển trắng toát bay vút lên, kêu lên những tiếng ai oán. Anh biếng nhác nhìn theo nó, tự do và thanh thoát, được đặt trong cái bát màu xanh không gợn chút mây mù của bầu trời. Những ngọn gió biển vuốt ve nhẹ nhàng trên làn da trần của anh, và sự dễ chịu mang đến cho đôi mắt đen của anh một nụ cười hiếm hoi. Có một nét hoang dã không thể chế ngự trong anh mà anh phải giữ thật chặt trong vòng kiềm chế, nhưng ngoài này, với chỉ ánh nắng, gió, và nước, anh có thể để cái phần đó của mình nổi trội lên. Sự giới hạn phải có quần áo gần như thật là bất kính ngoài này, và anh bực bội khi phải mặc quần áo bất kỳ lúc nào anh đi tới trạm đổ xăng, hay bất kỳ lúc nào một con thuyền khác xuất hiện bên cạnh để trò chuyện, như người ta vẫn thường làm nơi này. Mặt trời đã lặn xuống thấp hơn, dìm mép vàng rực rỡ của nó vào làn nước khi anh nghe thấy một âm thanh động cơ khác. Anh quay đầu để quan sát chiếc thuyền đó, hơi lớn hơn của anh, rẽ sóng một cách nhàn nhã. Đó là cách duy nhất cuộc sống diễn ra ở đây: nhàn nhã. Vùng đất càng ấm áp, thì thời gian càng chậm chạp. Sabin giữ chặt mắt trên con thuyền, ngưỡng mộ những đường nét thanh thoát, và âm thanh mượt mà, mạnh mẽ của động cơ. Anh thích thuyền, và anh thích biển. Chiếc thuyền của riêng anh là một phần thưởng, và một bí mật được bảo vệ khá kín đáo. Không ai biết nó thuộc về anh, nó được đăng ký với một đại lý bảo hiểm ở New Orleanskhông hề biết tì gì về Kell Sabin. Thậm chí cả tên của con thuyền, Wanda, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Sabin chẳng hề biết ai tên là Wanda hết, đó chỉ đơn thuần là một cái tên mà anh đã chọn. Nhưng Wanda hoàn toàn là của anh, với những bí mật và bất ngờ của chính nó. Bất kỳ ai thực sự biết rõ anh cũng sẽ không mong đợi điều gì khác, nhưng chỉ một người đàn ông trên thế giới từng biết về người ẩn sau chiếc mặt nạ ấy, và Grant Sullivan không tiết lộ một bí mật nào cả. Tiếng động cơ của con thuyền kia thay đổi khi nó chậm lại và chuyển hướng sang anh. Sabin chửi thề tức tối, nhìn quanh tìm bộ đồ vải jeans bạc màu mà anh thường giữ trên boong cho những tình huống như thế này. Một giọng nói trôi đến anh trên làn nước, và anh lại nhìn vào con thuyền kia. Một phụ nữ đang đứng ở lan can phía trước, vẫy tay tung tẩy trên đầu trong một điệu bộ không khẩn cấp chút nào, nên anh đoán họ chỉ đang muốn trò chuyện và không có tí rắc rối nào. Ánh nắng ban chiều lấp lánh trên mái tóc đỏ của cô ta, biến nó thành màu lửa, và trong một khắc Sabin chăm chú nhìn nó, sự chú ý của anh bị báo động bởi cái bóng màu đó rực sáng, khác lạ đó. Một cái cau mày mang đến những nếp nhăn giữa hai lông mày của anh khi anh nhanh chóng xỏ chân vào quần áo và kéo khóa. Chiếc thuyền vẫn quá xa để anh thấy được mặt cô ta, nhưng mái tóc đỏ ấy đã làm xấu thêm vài ký ức bé nhỏ giấu kín đang cố trồi lên. Anh chăm chú nhìn cô ta khi con thuyền từ từ hướng về phía anh, mắt anh sáng lên quả quyết. Có điều gì đó về mái tóc ấy... Đột ngột mọi bản năng trong Sabin đều rít lên báo động và anh lăn xuống mặt boong, không tra vấn cái cảm giác khó chịu gợn xương sống, nó đã cứu đời anh quá nhiều lần để anh không phải do dự. Anh trải rộng ngón tay trên mặt gỗ ấm áp của con thuyền, nhận rõ rằng anh có thể đang tự biến mình thành thằng ngốc, nhưng anh thà là một tên ngốc còn sống hơn là một cái xác thông minh. Tiếng chiếc động cơ ngừng hẳn lại, như thể nó đã đi chậm hơn nữa, và Sabin quyết định một điều nữa. Vẫn nằm sấp, với mùi dầu trong lỗ mũi và tiếng kèn kẹt của gỗ trên làn da trần, anh trườn mình tới ngăn dự trữ. Anh không bao giờ đi đâu mà không có vài phương tiện phòng vệ. Khẩu súng trường mà anh kéo ra khỏi ngăn dự trữ vừa mạnh mẽ vừa chính xác, dù anh biết cùng lắm nó cũng chỉ là một biện pháp ngăn chặn tạm thời mà thôi. Nếu những bản năng của anh là sai, thì anh chẳng cần đến nó chút nào, nếu bản năng của anh là đúng, thì chúng sẽ có những hỏa lực hơn xa khẩu súng trường này, bởi vì bọn chúng hẳn đã chuẩn bị cho chuyện này. ... Mời các bạn đón đọc Vịnh Kim Cương của tác giả Linda Howard.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sài Gòn Năm Xưa - Vương Hồng Sển
Dựa vào cuốn Ký ức lục khảo về lịch sử Sài Gòn và vùng phụ cận của học giả Trương Vĩnh Ký viết năm 1885 (tức là sau 25 năm Sài Gòn bị thực dân Pháp chiếm đóng), Vương Hồng Sển đã... kể tiếp, nhắc lại những sự biến đổi từ thuở đó cho đến ngày Sài Gòn trở về với dân Việt.... Ở đây, tác giả chú trọng nhiều nhất là những đoạn sử vụn vặt buổi giao thời: Pháp - Nam - Chà - Chệc chung đụng, những chuyện Tây đến, Tây đi, những việc chưa ai nói rõ ràng, tác giả đã được nghe đến tận tai hoặc thấy tận mắt, nhiều đoạn do hiểu biết riêng, lắm đoạn nhờ các cố lão thuật lại.  Đọc Sài Gòn năm xưa giúp chúng ta hiểu biết thêm về lịch sử sự hình thành và phát triển của Hòn ngọc viễn đông mà ngày nay được mang tên - Thành phố Hồ Chí Minh   *** Vương Hồng Sển (1902-1996), bút hiệu Anh Vương, Vân Đường, Đạt Cổ Trai, là một nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng. Ông được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Khi chết ông đã hiến tặng ngôi nhà (Vân đường phủ) và toàn bộ sưu tập đồ cổ của mình cho Nhà nước Việt Nam (tổng cộng 849 cổ vật khác nhau) với hy vọng thành lập một bảo tàng mang tên ông. Năm 2003, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp thành phố ngôi nhà này (địa chỉ: số 9/1 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, Quận Bình Thạnh). Khi qua đời, ông Vương Hồng Sển đã hiến tặng lại những cổ vật, mà cả đời ông sưu tập được, cho thành phố và mong muốn những di vật này sẽ được trưng bày trong ngôi nhà cổ của ông, trong sự bài trí rất tinh tế và hài hòa với sự cổ xưa của ngôi nhà được biến thành "Nhà lưu niệm Vương Hồng Sển" [6]. Tuy nhiên, từ năm 1996, Sở Văn hóa Thông tin TP Hồ Chí Minh, với sự đồng ý của Ủy ban Nhân dân Thành phố đã di dời các cổ vật về quản lý và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố, và tại Thư viện Khoa học tổng hợp. **** Bởi thấy tôi là người trong Nam, đầu pha hai thứ tóc, làm việc trong một cơ quan chuyên môn, thêm có tánh ham chơi cổ ngoạn, tom góp giấy má cũ đầy nhà, rồi tiếng đồn truyền ra: tôi sành sỏi chuyện xưa, tôi giỏi kê cứu điển cổ, báo hại phần đông văn hữu Bắc và Trung, ông nào quen một đôi lần, gặp nhau, hết năm ba câu lấy lệ, làm gì cũng hỏi vặn tôi về:   Mời các bạn đón đọc Sài Gòn Năm Xưa của tác giả Vương Hồng Sển.
Đồng Quê - Phi Vân
Đề tài nông thôn trong sáng tác của các nhà văn không phải là điều gì mới lạ. Tuy nhiên, để khắc họa được một bức tranh quê với đủ các diện mạo, màu sắc của nó không phải là điều dễ dàng. Có thể nói, phần lớn chủ đề tác phẩm của các nhà văn miền Nam *** Đây là những bài báo. Bởi thế cách hành-văn cũng như nội-dung đều có tính-cách “nhật-trình”. Lối văn gần như cẩu-thả. Câu-chuyện có vẻ nhất-thời. Nhưng tôi cứ để nguyên cho nhà xuất-bản. Nghĩ rằng: hồi ấy tôi đã để ngòi bút chạy theo dòng ý-tưởng, dầu khéo dầu vụng, cách thuật chuyện cũng được cái đặc-điểm là ghi tâm-trạng tôi lúc viết. Hình-ảnh những nhân-vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống chung - ngày nay đã mờ trong ký-ức. Kể lại một quãng đời phải chăng là sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: Vẽ một bức tranh phong-tục và tập-quán. Thật là quá cao-vọng. Tự thấy còn thấp-kém, nhưng tôi vẫn cố-gắng. Đây là những bài đầu, tôi ước-mong sẽ có thể viết thêm. Nếu chưa hiến được độc-giả những bài đúng theo nguyên-tắc tôi đã tự vạch, thì xin hẹn lại ở những bài sau. PHI-VÂN *** Phi Vân (1917-1977) là một nhà báo, nhà văn chuyên viết thể loại truyện vừa và tiểu thuyết mang sâu đậm dấu ấn Nam bộ trước 1954. Phi Vân tên thật là Lâm Thế Nhơn, sinh năm 1917 trong một gia đình trung lưu ở thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Ông chuyên viết phóng sự, truyện ngắn cho những tờ báo, tạp chí ở miền Nam trước đây như Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân (của cụ Huỳnh Thúc Kháng) và làm chủ bút tờ Thủ Đô thời báo. Ông có lối viết linh hoạt, gọn gàng, pha chút hóm hỉnh, làm cho cho độc giả khóc, cười theo từng cảnh đời, từng nhân vật. Bối cảnh trong các tác phẩm của ông là làng quê Nam bộ xa xôi hẻo lánh với những người nông dân chất phác, cục mịch sống với tập tục cổ hủ, lạc hậu và cuộc sống cực nhọc tối tăm. *** Chỗ hứng-thú của quyển phỏng-sự ấy là nó cho ta thấy những phong-tục cũ-kỹ ở thôn-quê, những tin-tưởng dị-đoan của hạng bình dân lao-động. Nó cho ta thấy những cuộc giao-tiếp, xung-đột giữa bọn điền-chủ và tá-điền, những tâm-hồn mộc-mạc trong bọn nầy và những oai-quyền thế-lực của bọn kia. Đọc qua, chúng ta thấy mình len-lỏi chốn đồng quê, đang mục-kích những cuộc tụ-họp chơi-bời, những cảnh cần-lao rộn-rịp. Thỉnh-thoảng như đưa lại giọng hò trầm bổng trong đám gặt, như phất lại mùi thơm thanh-đạm của lúa vàng. Tác-giả lại còn dắt ta đi quanh co trong những sông rạch ở vùng Bạc-liêu, Cà-mau và sau mấy ngày dạo chơi mệt-mỏi, tác-giả dừng lại cho ta thấy một cảnh-sắc êm-đềm: trên bờ sông Trẹm, lững-lờ mấy làn khói trắng bốc lên và dưới hàng dừa xanh tươi, một thiếu-phụ ẵm con đứng đợi chồng về, lâu-lâu đuổi bầy gà đang bới trên giồng rau cải. Hoặc giữa đêm trường vắng-vẻ, chiếc thuyền xuôi mái theo Rạch Bần, tác-giả mời ta trông lên bờ sau hàng dừa nước âm-u, một vài ánh đèn le-lói; nghe từ xa đưa lại tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm… Cho được kể lại rất tài tình những điều quan-sát rất kỹ-càng, làm cho ta như nghe, như thấy, lúc cảm, lúc vui, tất phải nhờ một ngọn bút tỉ-mỉ mà linh-hoạt, một giọng văn thành thật mà hữu-duyên, một cách viết tự nhiên, không rườm-rà mà đầy đủ. Ông Phi-Vân đã gồm cả mấy điều kiện ấy: Quyển phỏng-sự của ông như một tấn tuồng gay-cấn đặt trong cảnh trí xanh tươi; hay là - muốn nói cho rõ hơn - nó là một “nông kịch” chia ra nhiều lớp: có hồi hộp, có vui cười và và sau rốt kết cuộc rất thương-tâm, khiến cho độc-giả phải ngậm-ngùi cảm động. Có lẽ đó là bài luân-lý sâu sắc mà tác-giả không muốn chỉ cho rõ-ràng, để ta tự hiểu ngầm mà thương hại cho hạng nông dân lao-lực. Họ chỉ sống một cuộc đời mộc-mạc, siêng-năng; nhưng mãn kiếp phải làm nạn nhân cho bọn giàu sang thế-lực. Mà cả thảy chúng ta, theo như tác-giả nói lại là “nạn nhân của một thời-kỳ”; cho nên đối với mọi người ta nên để lòng thương hại và thứ dung, và nên cầu nguyện cho chốn đồng quê được chút vui tươi yên ổn… (Trích lục một đoạn bài diễn-văn của giáo-sư Nguyễn-văn-Kiết chủ-tịch của Hội Khuyến-học Cần-thơ đọc trong dịp lễ phát giải thưởng văn-chương Thủ-khoa Nghĩa năm 1943).   Mời các bạn đón đọc Đồng Quê của tác giả Phi Vân.
Doña Bárbara - Rómulo Gallegos
Rómulo Gallegos, tác giả của Doña Bárbara, là nhà viết tiểu thuyết nổi tiếng không những ở Venezuela – Tổ quốc ông – mà cả ở Trung và Nam Mỹ. Người đọc và nhà phê bình ở nhiều nước đều nhiệt liệt hoan nghênh tác phẩm của ông. Sinh năm 1884 và lớn lên trong một gia đình nghèo, Rómulo Gallegos, sau khi học xong trung học, phải đi làm “nghề gõ đầu trẻ” để kiếm sống. Với tư tưởng tiến bộ và nhiệt tình gắn bó với vận mệnh của đất nước, ông tham gia hoạt động chính trị rất sớm chống chế độ quân phiệt, độc tài Gómez đã bán rẻ quyền lợi kinh tế quốc gia cho tư bản nước ngoài và đàn áp tàn bạo nhân dân. Bắt đầu viết văn thật sự khi đã hơn ba mươi lăm tuổi, ông cho xuất bản tác phẩm đầu tay Reinaldo Solar (1920). Ngoài nhiều truyện ngắn, các tác phẩm khác gồm có Cây leo (1925), Doña Bárbara (1929), Canaima (1935), Cantaclaro (1934), Anh da đen khốn khổ (1937), Cũng trên mảnh đất ấy (1943), Cọng rơm trong gió (1952), Nổi loạn (1946). Đấu tranh không mệt mỏi cho tương lai tươi sáng của đất nước bằng cả hành động chính trị và tác phẩm văn học có tính chiến đấu sâu sắc, Rómulo Gallegos được bầu làm tổng thống Venezuela năm 1948, nhưng chẳng bao lâu ông bị các phe phái phản động lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự. Ông mất năm 1960. Đánh giá sáng tác văn học của Rómulo Gallegos, nhân dân nước ông và người đọc nước ngoài đặc biệt ca ngợi tính chiến đấu trong tiểu thuyết của ông nhằm cải tạo xã hội, giải phóng con người, chiến thắng thiên nhiên khắc nghiệt. Nổi bật hơn cả là Doña Bárbara được in lại rất nhiều lần ở Tây bán cầu, được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước thuộc các lục địa khác. Thảo nguyên bao la của Venezuela ngót sáu mươi năm trước đây, “Những dòng sông rộng không tưới cho đất trồng trọt, cũng không đưa đẩy thuyền bè ngược xuôi”, với những cuộc săn dồn bò hoang, săn cá sấu, bắt ba ba, tìm mật ong, đốt phá đồng cỏ trên phạm vi rộng cũng như những buổi liên hoan nhảy múa vào mùa chia đàn súc vật được miêu tả thật đặc sắc dưới ngòi bút của ông. Con người thảo nguyên cường tráng, chất phác, dũng cảm mà thiên nhiên hoang vu tạo nên và rèn luyện được dựng lên rất sắc sảo trong tác phẩm của ông. Tố cáo chế độ thống trị bất công, lên án bọn cầm quyền tàn bạo, vạch trần bọn ăn cướp Bắc Mỹ vừa trơ trẽn vừa nham hiểm trên đất Venezuela, tác giả tỏ ra là một nhà văn hiện thực sâu sắc, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Nhưng đấu tranh bằng con đường nào để đất nước ông “sẽ có ngày trù phú và vui tươi” thì Rómulo Gallegos không vạch ra được. Con mụ địa chủ ác bá Doña Bárbara, tham lam cực kỳ, lại tự nguyện từ bỏ trang trại mà nó tạo nên bằng mọi thủ đoạn và đam mê hơn cả tình yêu say đắm, rồi lưu lạc nơi đâu chẳng ai biết nữa. Thằng cướp đất, cướp súc vật Bắc Mỹ cũng tự nguyện rời bỏ cơ ngơi nó chiếm được và đi kiếm ăn nơi khác khi thấy láng giềng của nó giăng dây thép cương quyết bảo vệ đất đai và súc vật của mình. Đó là do ông bị hạn chế trong quan điểm đấu tranh giai cấp gay gắt trong thời đại ngày nay để giải phóng xã hội, cải tạo con người, là ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng – những hạn chế rất dễ hiểu vào những năm 1925-1930. Dù sao, với những ưu điểm nổi bật của nó, nhà nghiên cứu văn học Đức Ulrich Leo đã đánh giá Doña Bárbara “là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất, vừa khỏe khoắn vừa mềm mại, vừa rộng lớn vừa thâm thúy, vừa hùng tráng vừa trữ tình… có thể so sánh với bất kỳ tác phẩm văn học hiện đại nào.” NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP PHÚ KHÁNH ... Mời các bạn đón đọc Doña Bárbara của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.
Kiếm Sống - Macxim Gorki
Macxim Gorki (1864 – 1934) là nhà văn vĩ đại của giai cấp vô sản, là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đời hoạt động văn học gần nửa thế kỷ, ông đã để lại một sự nghiệp chói lọi, một di sản sáng tác khổng lồ, nó là niềm tự hào của nhân dân Nga và của cả loài người tiến bộ. Truyện ngắn Macxim Gorki có sự kết hợp hài hoà yếu tố lãng mạn và hiện thực. Ở đó có sự gắn bó máu thịt của ông với nhân dân và đất nước qua các giai đoạn cách mạng. Trong truyện ngắn Macxim Gorki bộc lộ niềm khao khát tự do và ca ngợi ý chí hào hùng, bất khuất của con người, phơi bày tính chất tàn bạo của chế độ xã hội – chính trị trước cách mạng, cái chế độ giết chết mọi cái có sức sống trong con người; quá trình trăn trở, tự ý thức đầy gian khổ của các tầng lớp “dưới đáy” để vươn tới sự đổi đời; đề cao và thi vị hoá lao động: phê phán lối sống và tâm lý ươn hèn của tầng lớp trí thức tiểu tư sản và tư sản; những truyện ngắn triết lý, những truyện có tính chất tự thuật… Danh tiếng của Gorky như giọng văn học duy nhất từ những tầng lớp đáy xã hội và như một người ủng hộ nhiệt thành cho cuộc cải cách xã hội, chính trị và văn hoá Nga (tới năm 1899, ông công khai liên kết với phong trào Dân chủ xã hội Mác xít) khiến ông trở nên nổi tiếng trong cả giới trí thức và số lượng ngày càng gia tăng các công nhân "có ý thức". Ở trung tâm của mọi tác phẩm của ông là một niềm tin ở giá trị vốn có và khả năng của con người (личность, lichnost'). Ông đưa ra các cá nhân đầy sức sống, nhận thức về phẩm giá tự nhiên của họ, và có cảm hứng từ nhiệt tình và ý chí của họ, những người chống lại các điều kiện sống đang ngày càng tồi tệ đi quanh mình. Tuy nhiên, cả các tác phẩm cũng như những bức thư của ông cho thấy một "con người không ngừng nghỉ" (một người thường xem xét lại mình) đấu tranh để giải quyết những tình cảm về đức tin và thái độ hoài nghi trái ngược bên trong, tình yêu cuộc sống và sự phẫn nỗ với sự tầm thường và nhỏ mọn của thế giới con người. Mời các bạn đón đọc Kiếm Sống của tác giả Macxim Gorki.