Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trang

Trang, một bé gái mồ côi người Trung Hoa được một gia đình người Do Thái mua về để bầu bạn học hành với David, cậu con trai của chủ nhà. Tình yêu trong sáng đã nảy sinh và phát triển cùng với tuổi ấu thơ và thời hoa niên của họ. Do trở ngại bởi tôn giáo, bởi đẳng cấp và thành kiến dân tộc, mối tình giữa Trang và David trở thành vô vọng. Nàng bèn tìm mọi cách để bảo vệ tình yêu ban đầu của mình, quyết đấu tranh để được sống chung dưới một mái nhà với chàng, dù chỉ với tư cách là một tì nữ. *** Sau khi được trao tặng giải thưởng Nobel năm 1938, tên tuổi nữ văn hào Mỹ Pearl S. Buck đã trở nên quen thuộc và thân thiết với bạn đọc trên khắp thế giới. Pearl S. Buck (1892 – 1973) là một nhà nhân văn lớn. Bà sống và gắn bó với đất nước Trung Hoa nói riêng và phương Đông nói chung gần như suốt cuộc đời. Với trí tuệ sắc sảo và trái tim nhạy cảm, bà đã miêu tả xã hội Trung Quốc ở nhiều thời đại và bình diện khác nhau qua các tiểu thuyết nổi tiếng, trong đó có Bà Vua – hay còn gọi là Người cung nữ (Imperial Woman) và Trang (Peony)… Nhân vật chính trong tiểu thuyết không phải là một bà hoàng đầy quyền uy và tham vọng như Từ Hi Thái hậu; cũng không phải là một tiểu thư khuê các, diễm kiều chốn Hoàng cung mà chỉ là một nữ tì Trung Hoa trong gia đình thương gia Do Thái giàu có. Tình yêu trong sáng giữa Trang và Đavít (con trai ông chủ) nảy sinh và phát triển cùng với tuổi thơ ấu và hoa niên của họ. Song mộng mơ của tuổi trẻ đã vấp phải những trở lực vô hình mà vô cùng nghiệt ngã của tôn giáo, đẳng cấp và thành kiến dân tộc. Bao đau đớn, dằt vặt đã vò xé cõi lòng người thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Nàng tìm mọi cách để bảo vệ tình yêu ban đầu và duy nhất của mình. Nàng luôn phải đối phó với những hoàn cảnh éo le, ngang trái, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để được sống chung với chàng dưới một mái nhà - dù chỉ với tư cách là một nữ tì. Suốt đời, Trang âm thầm hy sinh cho quyền lợi của mọi người. Còn nàng, nàng đã tìm cho mình một nơi ẩn thân yên tĩnh, thâm nghiêm: nhà chùa, để gìn giữ trọn vẹn những kỷ niệm sâu sắc về mối tình đầu thiêng liêng - kho báu vô giá của nàng. Mối tình âm thầm mà thiết tha, cháy bỏng và thanh khiết tuyệt vời giữa Trang và Đavít là bài học bổ ích cho mỗi chúng ta. Qua mỗi trang viết, tác giả dẫn dắt người đọc đi sâu vào thế giới phong phú, đa dạng đầy hương vị ngọt ngào cùng cay đắng của tình yêu. Tác giả khiến chúng ta rung động thực sự trước tâm hồn cao quí của Trang. Qua nhân vật này, bà khẳng định chắc chắn rằng: nhân cách con người không phải do địa vị xã hội và tiền tài quyết định. Với những cống hiến to lớn trong lãnh vực văn chương, Pearl S. Buck đã góp phần giúp nhân loại ngày càng hiểu và xích lại gần nhau trong tinh thần Hòa Bình và Nhân Bản. Thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Kỷ Tỵ Giáo sư Lê Trí Viễn *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Như vậy, ông Era đã chết. Người ta chôn cất ông bên cạnh mộ phần thân phụ ông và bên dưới là nơi mà thân xác bà Era đã hòa lẫn cùng đất cát Trung Hoa. Đavít xúc động nghĩ đến điều đó khi chàng đứng trên miệng huyệt cha chàng. Chàng nghĩ đến mẹ chàng, một người đàn bà có cá tính đặc biệt, đã tạo nhiều ảnh hưởng trong đời chàng và đến nay những ảnh hưởng ấy vẫn còn tồn tại. Cuộc chiến đấu mà bà theo đuổi suốt đời để tách rời chính mình và gia đình mình sống riêng rẽ như những người Do Thái chân chính, bây giờ đã chấm dứt. Sự chết đã thắng bà. Chiều nay trên đồi, không khí mát dịu, Đavít không thể dửng dưng với đoàn người đông đảo đã đưa cha chàng ra đến mộ phần. Đavít thầm tiếc không có mặt mẹ chàng để bà nhìn thấy lòng tốt của đám bạn hữu cha chàng, họ đi đưa đông đến nỗi đám tang chẳng khác nào đám tang của một vị thượng quan người Trung Hoa; thật không có chút gì có vẻ là Do Thái cả. Chỉ có một mình Đavít là còn giữ nguyên trong lòng những ý niệm về nguồn gốc, dòng giống. Lần đầu tiên trong đời chàng, Đavít hiểu tại sao mẹ chàng đã ao ước đến cuồng nhiệt được trở về cố quốc và được chôn cất ở đấy. Chắc chắn bà đã biết rõ, như bà đã biết rõ nhiều điều mà không nói ra, rằng nếu bà chết ở đây, tro bụi của thân xác bà sẽ trộn lẫn cùng đất cát của xứ ngoại quốc này. Năm thành phố chồng chất lên nhau dưới lòng đất nơi Đavít đang đứng. Nhiều thế hệ kế tiếp, đã xây dựng các thành phố ấy, cái này chồng lên cái kia; tại miền đất cổ xưa này, người ta không thể đào quá sâu mà không gặp các người xưa đã chết. Cha mẹ chàng hẳn đã bị buộc chặt vào mảnh đất này cùng với các người khác, và không bao giờ họ còn có thể thuộc về một dân tộc riêng biệt. Tiếng tụng niệm ê a của các sư sãi đã làm cho Đavít đau nhói trong lòng. Quả thật Đavít muốn từ chối khi vị sư già chùa Kim Phật đến nghiêng mình trước vong linh người chết; chàng đã hết lòng giải thích rằng Phật giáo không phải là tôn giáo của cha chàng. Với tất cả sự nhã nhặn, chàng cố nói cho sư cụ hiểu rằng, không nên tụng kinh Phật trước mộ huyệt của cha chàng. Mời các bạn đón đọc Trang của tác giả Pearl S. Buck.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Phóng Đãng Thần Thánh - Suzanne Enoch
Kẻ Phóng Đãng Thần Thánh là tập thứ hai của bộ sách Lessons in Love. Kẻ phóng đãng thần thánh là câu chuyện giữa một tiểu thư đoan trang và một gã vô lại bậc nhất London. Hai nhân vật tưởng như hoàn toàn đối lập nhưng họ lại bị chính tính cách của đối phương cuốn hút. Với những đoạn đối đáp hết sức thú vị và những tình tiết vô cùng hấp dẫn, câu chuyện Kẻ phóng đáng thần thánh hứa hẹn sẽ mang đến cho độc giả những giờ phút giải trí thú vị. *** Suzanne Enoch sinh ra tại miền Nam California. Hiện bà đang sống ở Placentia, California với hàng trăm loại cá nước ngọt và cá nhiệt đới, cùng những chú chim sẻ vô cùng đáng yêu. Ngoài ra, bà còn sở hữu một bộ sưu tập các bức tượng và mẫu vật trong các bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao, Chúa tể những chiếc nhẫn, X-men và Cướp biển vùng Caribbean. Đó chính là những điều khơi nguồn cảm hứng cho các tác phẩm của bà.   Trong khi nhiều người mơ ước được làm một phi hành gia hay nghệ sĩ nổi tiếng. Suzanne lại luôn mong muốn trở thành nhà văn từ khi còn rất nhỏ. Bà đã viết rất nhiều những câu chuyện của riêng mình trong suốt thời gian niên thiếu. Ngoài niềm say mê văn học, bà còn yêu phiêu lưu và khám phá mọi miền trên thế giới. Những trải nghiệm về hành trình đầy hiểm nguy song cũng không kém phần thú vị ấy đã giúp bà viết nên các trang sách đầy ấn tượng.   Suzanne Enoch bắt đầu sự nghiệp văn học với dòng lãng mạn kỳ bí trong hai năm đầu sau khi tốt nghiệp Đại học California Irvine, sau đó chuyển nguồn cảm hứng sang dòng lãng mạn thời nhiếp chính Anh (regency romance) và lãng mạn đương đại pha trinh thám (contemporary romance suspence).   Năm 1995, bà cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay, The Black Duke’s Prize. Đến năm 1998, tác phẩm thứ hai của bà, Angel’s Devil, đã giành giải cuốn sách thuộc thể loại regency romance ăn khách nhất do độc giả của Romantic Times bình chọn.   Ngoài ra, bà còn viết hai mươi chín cuốn tiểu thuyết khác, gồm hai tuyển tập (One True Love và The Best of Both Worlds) cùng một series đương đại năm phần, và nhận được đánh giá rất cao của độc giả Publishers Weekly.   Năm 2007, tác phẩm Twice the Temptation đã lọt vào danh sách năm cuốn sách lãng mạn ăn khách nhất.   Năm 2010, Suzanne tiếp tục cho ra đời các cuốn tiểu thuyết lịch sử lãng mạn khi làm việc cho tòa soạn St.Martin’s. Tháng 3 năm 2012, bà xuất bản cuốn sách thứ ba mươi mốt, Kẻ phóng đãng bất trị (series Scandalous brides). Hai tác phẩm thuộc series này, A Beginner’s Guide to Rakes và Rules to Catch a Devilish Duke, cũng sẽ được Bách Việt giới thiệu tới độc giả trong thời gian tới.   Các nhân vật hài hước, những người đàn ông vô lại nhưng đầy hấp dẫn, những cuộc đối thoại dí dỏm song lại vô cùng thông minh, sắc sảo là điển hình cho phong cách viết của Suzanne. Bà hiện là một trong các tác giả lãng mạn ăn khách nhất của New York Times, USA Today và Publishers Weekly.   Bachviet Books *** “Một quý ông nên hiểu rằng một quý cô cũng có đầu óc như ai, vì Chúa.” Evelyn Ruddich đặt tách trà xuống cạch một cái, ngạc nhiên khi cuộc trò chuyện về cách cư xử của cánh đàn ông giữa cô và các bạn lại trở nên… sôi nổi đến vậy. Cô tưởng mình đã chấp nhận tất cả đàn ông đều quá quắt, nhưng từ trong sâu thẳm trái tim nổi loạn của mình, rõ ràng là cô không vui vì chuyện đó. Những lời chỉ trích dí dỏm của Lucinda Barret và Lady Georgiana Halley lúc nào cũng đúng, và thật chết tiệt, cô cũng ngán bị những thành viên đeo cà vạt của loài người áp đảo lắm rồi. Phải có cách cư xử đúng mực cho đám đàn ông. Nghe thật nghịch lý, nhưng rõ ràng cần có người làm gì đó với cái tính ngạo mạn và bảo thủ của họ. Lucinda đứng dậy, đi tới chiếc bàn bên kia phòng. “Nên viết những điều này ra,” cô nói, rút một xấp giấy từ ngăn kéo rồi mang chúng trở lại. “Bọn mình có rất nhiều ảnh hưởng, nhất là với những kẻ gắn mác quý ông mà các quy tắc này sẽ áp dụng.” “Và chúng ta lại còn giúp được những quý cô khác nữa,” Georgiana lên tiếng, nét mặt trở nên đăm chiêu khi nỗi chán chường dành cho cánh đàn ông đã dịu đi. “Nhưng một bản danh sách thì giúp được gì cho ai ngoài chúng ta chứ?” Dù còn hoài nghi về tác dụng của một việc như thế, song Evelyn vẵn cầm cây bút chì Lucinda đưa cho. “Ồ có chứ - khi ta đưa các quy tắc vào thực tiễn,” Georgiana bác lại. “Mình đề nghị mỗi người hãy chọn lấy một quý ông và dạy anh ta cách thức để tạo ấn tượng sâu sắc với một quý cô.” “Đúng thế, vì Chúa lòng lành!” Lucinda đấm tay xuống mặt bàn. Evelyn nhìn qua nhìn lại hai cô bạn. Anh trai cô rất có thể sẽ quở trách cô vì đi lãng phí thời gian vào những chuyện vô bổ, nhưng anh ấy không cần phải biết. Có lẽ anh ấy sẽ ở Ấn Độ mãi mãi, và họ sẽ bớt đi một kẻ vô lại cần cải tạo. Cô mỉm cười trước ý nghĩ ấy và kéo tờ giấy trắng trơn của mình lại gần. Thành thực mà nói, cảm giác này sảng khoái như thể cô đang làm việc gì đó hữu ích, bất luận là tác dụng của danh sách đó có nhỏ bé cỡ nào. Georgiana vừa khúc khích cười vừa bắt đầu viết. “Chúng ta có thể cho xuất bản những quy tắc này ấy nhỉ! Những bài học tình yêu. Tác giả: Ba Quý Cô Xuất Chúng.” Danh sách của Evelyn. 1. Không bao giờ ngắt lời một quý cô khi cô ấy đang nói chuyện với bạn, như thể điều bạn cần nói quan trọng hơn. 2. Khi bạn hỏi xin ý kiến, hãy nghiêm túc chờ đợi, chớ cười cợt. 3. Cử chỉ lịch thiệp không đơn giản là mở cửa cho các quý cô: để tạo dấu ấn với họ, bạn phải quan tâm đến những mong muốn của cô ấy, chí ít cũng nhiều như quan tâm đến mong muốn của bạn. 4. Khi một quý cô đảm nhận một công việc hay một mục tiêu nào đó, đừng cho rằng họ làm chỉ vì “sở thích”. Evelyn ngồi xuống nhìn lại những gì mình vừa viết, rồi thổi đi những vụn chì vương vãi. Đó, đã xong. Giờ tất cả những gì cô cần là một nạn nhân – hay đúng hơn, một học viên. Cô toét miệng cười. “Sẽ rất vui đây.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Phóng Đãng Thần Thánh của tác giả Suzanne Enoch.
Kẻ Phóng Đãng Bất Trị - Suzanne Enoch
Tác phẩm thuộc series tiểu thuyết ăn khách của Suzanne Enoch, Scandalous bride, tác giả nổi tiếng dòng văn học lãng mạn Mỹ, mới phát hành tại Việt Nam. Một năm trước, quý cô Camille Pryce bỏ rơi vị hôn phu cao ngạo - Hầu tước Felton - ngay nơi bệ thờ bởi những lý do chính đáng. Cô từ bỏ cả địa vị danh giá để tới làm việc ở sòng bạc dành cho các quý ông.   Trong nỗ lực muốn ngăn chặn những lời bàn tán và cười nhạo sau lưng, Felton đã đề nghị người em họ - Keating Blackwood - thuyết phục Camille quay về kết hôn với mình để đổi lại món tiền thưởng lớn.   Phóng đãng, điển trai và từng trải, Keating Blackwood là người đàn ông hoàn hảo để tán tỉnh Camille. Nhưng ngay giây phút gặp cô, anh đã muốn giành lấy cô cho riêng mình. Và Camille đã khiến tay cờ bạc vô độ này phải từ bỏ mọi cá cược với Fenton để quyết tâm trở thành người chồng thực sự của cô vào đúng ngày cô quay về kết hôn với Felton lần thứ hai.​ *** Bộ sách Scandalous bride, gồm có: #0.5 – The Wicked One # 1 – A Beginer’s Guide to Rakes - Đánh Cược Với Tình Yêu # 2 – Taming an Imposible Rogue - Kẻ Phóng Đãng Bất Trị # 3 – Rules to Catch a Devilish Duke # 4 – The Handbook to Handling His Lordship *** Keating Blackwood bừng tỉnh bởi tiếng súng ác liệt. Có người đang ở trong phòng anh. Một kẻ không mời. Vẫn nhắm mắt, anh động đậy để có thể trượt tay xuống dưới gối và túm lấy con dao nằm ở đó.   “Cậu biết bây giờ là giữa ngày rồi chứ, phải không?”   Duỗi thẳng ngón tay, Keating mở mắt và ngồi dậy. Căn phòng gần như chìm trong bóng tối, anh chỉ có thể nhìn thấy một dáng người tối tăm bước đến tấm rèm dày, tối màu gần nhất. “Đợi đã. Đừng…”   Ánh sáng chói lòa ùa vào phòng. Mặt trời gần như chiếu thẳng vào đầu anh và yên vị ở đó với những tia sáng rung rinh.   “Chết tiệt, Fenton,” anh gầm lên, nhắm chặt mắt lại. “Anh làm cái quái gì ở đây thế?”   “Tìm cậu. Ta cần sự giúp đỡ của cậu.”   “Thế thì khép cái rèm chết tiệt kia lại và ngồi trong phòng khách chờ tôi đến gặp anh đi.”   “Được thôi. Nhân tiện, cậu có con mắt đen đáng yêu thật đấy.”   “Anh phải nhìn thấy anh bạn còn lại.” Tiếng vải kêu sột soạt và căn phòng bên kia mi mắt anh lại chìm vào bóng tối. Khi anh mở mắt ra, những chấm đỏ chói lóa vẫn bay lơ lửng trong tầm nhìn, nhưng ít nhất lúc này, anh không cảm thấy muốn nôn mửa nữa. “Và bảo Barnes mang cho anh một bình trà thật lớn,” Keating nói thêm, day tay vào thái dương.   “Ta không muốn uống trà.”   “Tôi muốn. Đi đi.”   Khi còn lại một mình trong phòng, Keating moi một cái áo sơ mi cùng chiếc quần ra khỏi tủ quần áo và mặc vào. Giày của anh để ở gần cửa, nhưng anh phớt lờ chúng, cũng như chiếc áo khoác và gi lê Pidgeon đã đặt sẵn ở đó cho anh, vào lúc nào đó trong ngày hôm qua. Liếc ra cửa đầy ngờ vực, anh nhặt chiếc cà vạt mới là lên và buộc chặt nó quanh đầu. Nếu may mắn, nó sẽ giữ được bộ não anh nằm nguyên trong hộp sọ. Chúa tôi, anh cần phải thôi uống vodka Nga, hoặc bất kể thứ gì anh đã nốc ừng ực đêm qua.   “Cậu định làm cướp biển đấy à?” Fenton hỏi khi Keating mò đến phòng khách nhờ sự giúp đỡ hào phóng của bức tường hai bên hành lang. “Ít nhất cậu cũng đi dép trong nhà vào chứ.”   “Tôi chẳng có cái nào.” Keating vật vờ bước lại gần cửa sổ và kéo rèm lại, rồi đến ngồi đối diện với anh họ mình. “Nghe có vẻ nực cười, tại sao anh lại cần tôi giúp? Và nói nhanh lên được không? Tôi có thể bất tỉnh bất cứ lúc nào.”   “Tại sao ta lại cần sự giúp đỡ của cậu?”  Stephen Pollard, hầu tước của Fenton nhắc lại, nhìn anh trừng trừng. “Ta biết cậu đang lẩn tránh Luân Đôn, nhưng chắc chắn cậu đã đọc báo chứ.”   “Tôi đang trốn Luân Đôn. Vì cái quái gì mà tôi lại muốn đọc về nó chứ?” Khay trà được mang đến và không cần phải bảo, Barnes rót một tách, thả vào năm viên đường, rồi đưa nó cho anh. “Cảm ơn,” anh nói với người quản gia, rồi từ từ uống một ngụm thật lớn.   “Sao lại phải phiền phức với trà thế?” Fenton hỏi, ngồi xuống rót cho mình một tách và ra bộ rõ ràng rằng mình chỉ cho thêm một chút đường.   Phớt lờ câu hỏi, Keating cẩn thận nhấp từng ngụm từ tách trà quá nóng và quá ngọt của mình. “Tôi tưởng anh không muốn uống trà.”   Anh họ anh nhìn xuống tách trà trong tay, rồi nhăn nhó bỏ nó xuống. “Ta không muốn. Ta đang cố gắng làm rõ một điều, chắc là vậy. Về đường.”   “Phải, tôi thấy rồi. Tôi chắc chắn bị tổn thương bởi cú đánh đó đấy.”   “Sau khi đã say quắc cần câu, ta nghĩ rằng trà ngọt có tác dụng với cậu vào buổi sáng… hãy giữa ngày.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Phóng Đãng Bất Trị của tác giả Suzanne Enoch.
Thế giới của Sophie - Jostein Gaarder
Jostein Gaarder tốt nghiệp Đại học Oslo chuyên ngành ngôn ngữ, thần học và lịch sử tư tưởng, ông từng dạy triết học ở trường phổ thông nhiều năm. Trong sự nghiệp viết lách của mình, Jostein Gaarder cho ra đời gần 20 cuốn sách, tất cả đều đậm tính kỳ ảo, triết luận và Thế giới của Sophie cũng không ngoại lệ. Thế giới của Sophie vừa là một tiểu thuyết vừa là một hướng dẫn căn bản về triết học phương Tây. Cuốn sách chứa đựng những thông tin về lịch sử văn hóa và lịch sử triết học thông qua các câu chuyện của 2 nhân vật Sophie và Hilde. Nhưng phần lớn nội dung tác phẩm là những đoạn đối thoại giữa nhân vật chính Sophie và một người đàn ông bí ẩn có tên Alberto Knox. Cầm trên tay cuốn sách Thế giới của Sophie, chắc chắn các phụ huynh cũng phải hoa mắt khi lướt qua mục lục: Socrates, Platon, Descartes, Kant, Chủ nghĩa lãng mạn, Thế kỷ khai sáng, Vụ nổ lớn, thời Trung cổ… đều có chung suy nghĩ liệu trẻ có thể tiếp thu được một lượng kiến thức khổng lồ, khô khan như vậy? ***  Sophie Amundsen từ trường về. Cô đi cùng đường với Joanna. Họ trò chuyện về người máy. Theo Joanna, bộ óc của con người giống như một cái máy tính cao cấp. Sophie không rõ có đồng ý được không. Chắc chắn một con người phải hơn là một cái máy chứ?    Khi đến siêu thị, mỗi người rẽ về phía nhà của mình. Sophie sống ở cuối một khu nhà ngoại ô, đường đến trường xa gấp đôi Joanna. Nhà cô như ở tận cùng của thế giới, vì sau khu vườn đã là cửa rừng.    Cô rẽ vào đường Cỏ Ba Lá. Cuối đường có một chỗ ngoặt gấp - “khúc ngoặt của Thuyền trưởng”. Hầu như chẳng có ai đến đây trừ thứ bảy và chủ nhật.    Bấy giờ là đầu tháng Năm. Trong các khu vườn, hoa thuỷ tiên mọc xen với cây ăn quả. Những cây phong đã được phủ một màu lá xanh dịu.    Thật kỳ diệu khi mọi vật bừng nở vào thời kỳ này trong năm! Cái gì đã làm cho cỏ cây xanh tốt ùa ra từ lòng đất chết, ngay khi trời vừa ấm lên và tuyết tan hết?    Khi Sophie mở cánh cửa vườn, cô ngó vào hộp thư. Ở đó thường có cả đống quảng cáo và một vài phong bì khổ lớn gửi cho mẹ cô. Thỉnh thoảng cũng có một vài lá thư từ ngân hàng gửi cho bố cô, nhưng phải nói ngay rằng, ông không như các ông bố bình thường khác. Bố Sophie là thuyền trưởng của một tàu chở dầu lớn và ông vắng nhà gần như quanh năm. Khi có được vài tuần ở nhà, ông sẽ đi lại loẹt xoẹt quanh nhà và làm mọi thứ trở nên xinh đẹp và ấm cúng. Nhưng khi ở ngoài biển, ông lại có vẻ rất xa cách    Chỉ có mỗi một bức thư trong hộp thư, và nó được gửi cho Sophie. Chiếc phong bì trắng ghi “Sophie Amundsen, số 3 đường Cò Ba Lá”. Chỉ có vậy, không có tên người gửi, cũng chẳng có cả tem.    Sophie vội vàng khép cổng và mở phong bì. Bên trong chỉ có một mảnh giấy nhỏ với dòng chữ: Bạn là ai?    Không có gì khác, chỉ có ba chữ viết tay với một dấu chấm hỏi to tướng.    Cô nhìn lại chiếc phong bì. Rõ ràng bức thư được gửi cho cô. Ai đã thả nó vào hộp thư?    Sophie chạy nhanh vào ngôi nhà màu đỏ. Như thường lệ, chú mèo Sherekan đã kịp chui ra khỏi bụi cây, nhảy lên bậc thềm và lách vào nhà trước khi cô đóng cửa.    Mỗi lần bực bội, mẹ Sophie thường gọi ngôi nhà họ đang ở là một cái chuồng thú. Sophie khá hạnh phúc về bộ sưu tập động vật của mình. Đầu tiên, cô có ba con cá vàng Lưng Vàng, Mũ Đỏ, và Cờ Đen. Tiếp theo là hai con vẹt Smitt và Smule, rùa Govinda, và cuối cùng là con mèo vàng Sherekan. Chúng đều được tặng cho cô để bù đắp cho chuyện mẹ cô luôn đi làm về muộn còn bố cô thì luôn vắng nhà, lái tàu khắp thế giới.    Sophie liệng cặp xuống sàn và cho mèo ăn. Sau đó, cô ngồi xuống chiếc ghế nhà bếp với lá thư bí ẩn trên tay.    Bạn là ai?    Làm sao biết được? Tất nhiên, cô là Sophie Amundsen, nhưng đấy là ai? Cô chưa nghĩ ra.    Nếu thực ra cô được đặt một cái tên khác, Anne Knutsen chẳng hạn, liệu cô có thành người khác không? ... Mời các bạn đón đọc Thế giới của Sophie của tác giả Jostein Gaarder.
Như Không Hề Có - Bret Easton Ellis
Trở về Los Angeles để nghỉ lễ Giáng Sinh, Clay một lần nữa bước vào một thế giới nơi ai ai cũng lái xe hạng sang, ăn ở nhà hàng thượng hạng, đắm chìm trong tình dục và ma túy, nơi tiền như chiếm hết chỗ của hy vọng và yêu thương. Cậu cố nối lại tình cảm với bạn gái, Blair, và với Julian, người bạn thân từ trung học. Nhưng rồi những nỗ lực đầy tính người ấy đều như bị nuốt chửng trong nỗi tuyệt vọng thăm thẳm lớn hơn hết thảy, ngay giữa vòng xoáy của những bữa tiệc vô mục đích triền miên, những quán rượu tồi tàn, câu lạc bộ rock ngầm và phía bên kia nhớp nhúa của bóng tối thành Los Angeles. Không nhiều tình tiết thắt nút, mở nút, Như không hề có là cuốn sách về một trải nghiệm nhiều hơn là một chuyện kể ly kỳ. Đừng đọc nó nếu bạn định kiếm tìm sự dễ chịu hay ngọt ngào. Đừng đọc nó nếu bạn đang cần chút gì nhẹ nhàng và hài hước. Hãy đọc nó khi bạn đang ở giữa tuổi thiếu niên đầy bất ổn, hay bỗng hoài nhớ về những ngày tháng hoang mang đã qua. Hoặc là, đơn giản hơn, khi muốn kiếm tìm một Bắt trẻ đồng xanh ở gần hơn với thời hiện tại. *** Bret Easton Ellis sinh ngày 7 tháng Ba năm 1964 ở Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ. Với sáu tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, Ellis đã trở thành một trong những cái tên ăn khách nhất, có sức hút nhất của văn học đương đại. Năm 1985 ông xuất bản tác phẩm đầu tay Như không hề có (Less than zero). Năm 1987, xuất bản tiếp cuốn tiểu thuyết thứ hai - The rules of attraction… Các tác phẩm: Như không hề có (Less than zero), American psycho, The rules of attraction, Glamorama, The informers và Lunar park của Bret Easton Ellis đều đã được chuyển thể thành phim và gặt hái được nhiều thành công lớn. *** Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles. Đó là điều đầu tiên tôi được nghe khi trở về thành phố. Blair đón tôi tại LAX 1 và thì thầm câu này khi lái xe chạy lên đoạn dốc nhập vào đường chính. Cô bảo: "Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles." Dù câu nói vốn chẳng đáng bận tâm, nó vẫn đeo đẳng tâm trí tôi suốt một thời gian dài đến khó chịu. Dường như không điều gì khác còn đáng kể nữa. Từ chuyện tôi mười tám và giờ đã là tháng Mười hai, chuyến bay lại khá xóc và đôi tình nhân đến từ Santa Barbara ngơi đối diện tôi trên khoang hạng nhất thì đã ngà ngà say. Từ mảng bùn bắn lên ống quần jeans của tôi hồi sớm tại một phi trường ở New Hampshire, khiến tôi thấy vừa lạnh vừa lùng nhùng sao đó. Từ vết ố trên tay áo sơ mi ẩm ướt và nhàu nhĩ tôi đang mặc, chiếc áo mới sáng nay còn mới tinh, sạch sẽ. Từ chỗ rách trên cổ chiếc áo khoác ca rô xám của tôi, chiếc áo có chút gì đậm hơi hướng miền Đông hơn trước, đặc biệt là bên chiếc quần jeans bó và cái áo phông xanh nhạt của Blair. Tất thảy như vô nghĩa bên cạnh mỗi một câu nói ấy. Dường như vụ dân tình sợ nhập làn xa lộ nghe lọt tai hơn chuyện "Em dám chắc Muriel bị biếng ăn tâm lý" hay tiếng cô ca sĩ trên đài gào thét về sóng điện từ. Dường như với tôi, chẳng còn gì đáng kể ngoài mười hai từ ấy. Từ những cơn gió ấm như đang đẩy chiếc xe trôi xuống con đường nhựa vắng tanh cho đến mùi cần sa đã nhạt vẫn phảng phất trong xe Blair. Tất cả những gì đọng lại đó là cái thằng tôi trở về nhà trong một tháng, gặp một người tôi không thấy mặt đã bốn tháng và thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ. Blair lái xe rời xa lộ và gặp đèn đỏ. Một cơn gió dữ dội làm chiếc xe rung lên trong thoáng chốc, rồi Blair mỉm cười nói gì đó về chuyện có lẽ phải nâng mui xe cao hơn và chuyển sang kênh phát thanh khác. Trên đường về, Blair phải dừng xe vì có năm công nhân đang khênh những xác cọ bị gió giật đổ, nhét lá cây cùng những mẩu vỏ cây chết lên một xe tải lớn màu đỏ, Blair lại mỉm cười. Cô dừng xe trước nhà tôi, cổng nhà để ngỏ, rồi tôi ra khỏi xe, ngạc nhiên khi nhận thấy tiết trời khô nóng đến độ nào. Tôi đứng đó một lúc khá lâu, Blair cười toe toét hỏi, "Sao thế?" sau khi đã phụ tôi nhấc các va li ra khỏi khoang hành lý, tôi liền nói, "Không" và Blair bảo, "Trông anh nhợt nhạt quá," thế là tôi nhún vai, rồi chúng tôi chào tạm biệt và cô lên xe lái đi. Không có ai ở nhà. Điều hòa đang chạy và căn nhà tỏa ra mùi gỗ thông. Trên bàn bếp có mẩu giấy nhắn cho biết mẹ và các em gái đang đi sắm sửa cho Giáng sinh. Từ chỗ đứng, tôi trông thấy con chó đang nằm ngủ cạnh bể bơi, thở phì phì, bộ lông gợn sóng trước gió. Tôi bước lên lầu, đi ngang qua cô phục vụ mới, cô này mỉm cười và có vẻ như đã biết tôi là ai, rồi tôi đi qua phòng các em, hai phòng trông vẫn giống hệt nhau, chỉ những mẫu báo cắt ra từ GQ 2 dán trên tường là khác, rồi tôi vào phòng mình, nhận thấy không có gì thay đổi. Tường vẫn màu trắng, các đĩa hát vẫn nằm đúng vị trí, ti vi chưa hề bị dịch chuyển, cửa chớp vẫn để mở đúng như khi tôi rời đi. Có vẻ như mẹ và ả phục vụ mới, hoặc ả phục vụ cũ, đã dọn sạch tủ tường khi tôi vắng nhà. Trên chồng truyện tranh chất ở bàn có mẩu giấy nhắn, "Vẫn cần đống truyện này hả con?" ngoài ra còn có tin nhắn cho biết Julian đã gọi và một tấm thiệp với dòng chữ "Mẹ kiếp Giáng sinh." Tôi mở thiệp ra, trong đó viết "Nào ta cùng đú với Giáng sinh," lời mời dự tiệc Giáng sinh của Blair. Tôi bỏ thiệp xuống, nhận thấy không khí trong phòng đã bắt đầu lạnh thực sự. Tôi tháo giày, lên giường nằm, sờ trán xem mình có sốt không. Tôi nghĩ là có. Rồi vẫn đặt tay trên trán, tôi ngước lên săm soi tấm áp phích lồng kính treo trên bức tường phía đầu giường, nhưng cả nó cũng vẫn y như cũ. Đó là áp phích quảng cáo cho một đĩa hát cũ của Elvis Costello. Elvis nhìn qua tôi, nhếch môi cười mỉa mai, mắt đăm đăm hướng ra ngoài cửa sổ. Từ "Trust" 3 lơ lửng trên đầu ông, cặp kính râm bên xanh bên đỏ của ông bị kéo xệch xuống dưới sống mũi để ta có thể thấy đôi mắt ông, chúng hơi lệch tâm. Nhưng đôi mắt ấy không nhìn tôi. Chúng chỉ nhìn bất cứ ai đứng bên cửa sổ, mà tôi thì chẳng còn hơi sức đâu mà nhổm dậy đứng bên cửa sổ. ... Mời các bạn đón đọc Như Không Hề Có của tác giả Bret Easton Ellis.