Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khu Trại Trong Thảo Nguyên

Bộ tiểu thuyết Sóng Hắc Hải - Valentin Kataev gồm 4 phần: Phần 1: Cánh buồm trắng cô độc Phần 2: Khu trại trong thảo nguyên Phần 3: Gió mùa đông Phần 4: Đường hầm Ô đét xa   KHU TRẠI TRONG THẢO NGUYÊN trong bộ bốn tập - “SÓNG HẮC HẢI” Năm 1910, trên báo “Người đưa tin Ôđexxa” - xuất hiện bài thơ đầu tiên của cậu bé Valia1 mười bốn tuổi - bài thơ “Mùa thu”. Ở đây dường như có điều gì báo trước về một nhà văn tương lai có tâm hồn thơ mộng, sớm gắn bó lòng mình với thiên nhiên. Bài thơ đầu tay là những suy tưởng trữ tình, những nét phác họa về mùa thu, về thiên nhiên Nga tươi đẹp. Mùa hè năm 1913, lần đầu tiên nếm hương vị thành quả văn chương, khi nhận được giấy mời của một tờ báo nhỏ ở Ôđexxa mời các nhà thơ trẻ tham gia câu lạc bộ văn nghệ địa phương, nhà văn tương lai ấy đã đắn đo suy nghĩ: “Liệu một học sinh trung học 16 tuổi đầu đã có thể coi mình là “trẻ”? Với dăm ba bài thơ đăng trên báo hàng ngày liệu đã có thể coi mình là “nhà thơ”?. Nhưng anh vẫn lên đường đến câu lạc bộ. Ở đây việc kết nạp hội viên phải thông qua đầu phiếu. Nhưng trong số những người đã từng đọc thơ mình ở đây chỉ có hai người được hưởng cái vinh dự lớn là được mời thẳng lên đoàn chủ tịch mà không phải bầu bán gì cả. Đó là V. Kataep và E. Bagrixki2. Khi trở thành nhà văn nổi tiếng, V. Kataep đã nhắc lại sự việc trên trong truyện ngắn “Gặp gỡ”. Cái thuở ban đầu ấy có cái gì đã kết tinh, không thể hòa tan mà sau này bạn đọc vẫn còn gặp lại trên nhiều trang sách của nhà văn, đó là nụ cười châm biếm, có khi nhân hậu, có khi cay độc như một nét riêng của miền duyên hải Ôđexxa, bắt nguồn từ quá khứ xa xưa: từ người dân chài trên bãi biển, từ anh công nhân lam lũ, từ người lính thủy can trường hay ở những em bé đồng biển với nước da đen sạm vì sóng gió Hắc hải và mặt trời phương nam. Cũng như nhiều nhà văn khác thuộc thời kỳ này, V. Kataep bước vào làng văn qua lối chiến hào bằng những bản tin và bút ký mặt trận. Tiếp theo là những ngày sôi nổi của Cách mạng. Trong những giờ phút gay go và căng thẳng, con người thường trưởng thành sớm hơn tuổi tác, nhất là nhà văn, và chính trong cơn lốc cách mạng ấy tài năng của nhiều nhà văn, trong đó có V. Kataep đã nảy nở một cách mau lẹ và vững chắc. V. Kataep đã trưởng thành trước khi ông từ giã tuổi thiếu niên. Thế nhưng đối với V. Kataep ngay cả khi tuổi niên thiếu đã qua rồi, ông vẫn còn giữ được rất lâu tâm hồn khát khao được quay lại đầm mình trong tuổi niên thiếu, và quả thực nhà văn đã trở lại sau những lần “trở về” ấy. V. Kataep là một trong những người trong khi vẫn vui vẻ tiếp nhận tuổi đời và say sưa với những công việc của “tuổi tác mình” nhưng vẫn háo hức sống với những năm tháng đã qua, có khi là những tháng năm xa xôi tưởng như chẳng mấy ai còn nhớ tới nữa - những năm tháng có khi vui tươi, đầy mơ ước háo hức, song cũng có khi buồn. Vào những năm thứ hai mươi, khi tuổi đời và tuổi nghề của nhà văn chưa có bao lăm, các nhân vật trong sáng tác của ông thường là những kẻ nhàn tản vô vị: người ta chơi cờ, chơi bài, người ta đùa với tình yêu và dỡn trong đủ mọi quan hệ. Thế nhưng ông chưa có đủ ngay lòng căm thù với những kẻ thù của nhân dân để hành động và chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng, đấu tranh với bản thân để đưa ông đến “Cái giếng thần” (1966), thì lòng căm thù trong ông mới chín muồi, mới trở nên sôi sục, và được sử dụng không đến nỗi uổng phí. Nhà văn đã thấy được mình viết cho ai và chống ai. Lúc này trong sáng tác của ông thể hiện rõ khuynh hướng bi hùng và châm biếm: “Trong thành phố bị bao vây” (1922); “Bút ký về cuộc nội chiến” (1924). Tuy nhiên người ta vẫn thấy trong sáng tác của ông phảng phất “cái thứ triết lý của anh tiểu tư sản, cái thứ triết lý của những người không muốn xây dựng lại cuộc đời, văng vẳng tiếng thở dài mệt mỏi trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo, dốt nát...”. Vào những năm 30, khi nhân dân Liên Xô náo nức hưởng ứng dự định táo bạo của Đảng CSLX: xây dựng trong thảo nguyên hoang vu “Pugatsep” một nhà máy: liên hợp luyện kim, V. Kataep đã say mê với cái nhà máy “Magnitka” tương lai ấy và viết tiểu thuyết thời sự “Thời gian ơi, tiến lên!”, tác phẩm này của ông cũng mới mẻ và táo bạo như bản thân cái công trường xây dựng kia vậy. Cuốn tiểu thuyết đã từng làm cho nhiều bạn đọc ngạc nhiên. Cuốn sách ca tụng những con người chỉ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong sự nghiệp xây dựng lại cuộc đời, đấu tranh với đói nghèo, dốt nát, những con người không biết tới khoái lạc tầm thường ngoài lao động quên mình - lao động là nhu cầu sống còn số một. Trong tiểu thuyết, lối văn châm biếm với cái giọng nhát gừng, đầy sức sống kết hợp với lối văn nhanh gọn của báo chí và ngôn ngữ đanh thép, chính xác của các quy phạm công vụ, tạo nên một lối văn phong hỗn hợp, độc đáo mà vẫn gắn bó hữu cơ - người đương thời gọi là phong cách thời đại. Trong cuốn sách đầy nhiệt tình tiến lên phía trước: lao động, lao động vượt mức kế hoạch, tiến trước thời gian! Con người ở đây hăng say lao động như một cơn lốc, cơn lốc của một điệu Vanxơ vui tươi và phấn kích... Lúc này V. Kataep cộng tác với báo “Pravda” và nhiều báo khác, ông có dịp lăn lộn trên khắp các ngả đường của đất nước, viết nhiều bài thơ cổ động phục vụ những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, cả trong thời chiến cũng như trong lúc xây dựng hòa bình. Công cuộc lao động xây dựng đất nước đã mang lại cho ông nhiều cảm nghĩ vui tươi, nụ cười của ông trở nên lạc quan và châm chọc đúng chỗ. Ông viết những vở kịch vui “Hình vuông của hình tròn”, “Một triệu nỗi khổ cực”, “Con đường hoa” - ông tiếp tục chế giễu tên tiểu tư sản; mặc dù ông đã nhiều lần đọc điếu văn bên nấm mồ của hắn, vậy mà hắn vẫn ngoan cố, thay hình đổi dạng trở về bằng đủ mọi cách. Ông biểu lộ niềm sung sướng trước thắng lợi của cuộc sống mới, trước những đổi thay ngày một tốt đẹp hơn trong nhiều quan hệ giữa người với người bằng những sáng tác kịp thời. Đến đây bỗng nhiên ta thấy thêm một đổi thay bất ngờ. Khi ông đang say sưa bám sát thời gian và sáng tác theo nhịp độ của công trường, tìm thấy ở đấy những nguồn cảm hứng không bao giờ cạn, đang tiếp tục cười nhạo báng tất cả những gì lạc lõng, sai với nhịp bước của điệu Vanxơ thời đại kia, thì bỗng nhiên cuốn tiểu thuyết “Cánh buồm trắng cô độc” (1936) xuất hiện như một hành trình đường đột, bí mật quay lại thời thơ ấu xa xưa tưởng như đã lu mờ sau khói bụi của công trường và nhà máy - thời gian. Uống nước nhớ nguồn. Cái hôm nay đã bắt đầu từ đâu và bắt đầu như thế nào?! Ông quay lại quá khứ không phải “đơn giản” như người ta tưởng, và sự ra đời của cuốn “Cánh buồm trắng cô độc” cũng không phải là một “bỗng nhiên”, vì một nhà văn nghiêm khắc viết về quá khứ không thể là “bỗng nhiên”. Cuộc sống của ông diễn ra theo hai chiều đối nhau: chạy nhanh lên phía trước sánh bước với thời gian và đồng thời quay lại suy tư về những cái đã qua, đó quả là một quá trình lao động gian khổ: thu thập tư liệu, xác định tâm trạng - cái quyết định sắc thái của cuốn sách. Chính V. Kataep đã xác nhận rằng từ lâu ông vẫn hằng mong ước được hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình: - Năm 1905, một ngày tháng sáu oi bức. Trên kè đá bờ biển Ôđexxa chật ních người. Bầu không khí trầm lặng đầy vẻ lo âu, rùng rợn. Một chú bé tám tuổi, trố mắt ra vì kinh ngạc, cố lách mình qua đám đông, len lỏi đến tận hàng rào sắt. Chú bé nhìn thấy chiếc chiến hạm ba ống khói “Pôchômkin” với lá cờ đỏ tung bay trong gió đã nổi dậy và giờ đây đang tiến gần về phía bờ biển Ôđexxa, Và ông kể lại rằng: “Cả thành phố vui mừng chào đón tin nổi dậy của chiến hạm. Và từ giờ phút ấy trong tôi bắt đầu nhen nhóm một ý thức. - Hình ảnh kỳ diệu của con tầu “nổi loạn” cứ bám riết theo nhà văn trên mọi nẻo đường sáng tạo của ông. Nhưng thời thơ ấu ấy không phải chỉ là sự hồi tưởng cá nhân đầy xúc động, mà còn là một giai đoạn lịch sử đẫm máu. Về cái bi tráng của tháng năm này ông đã viết truyện ngắn “Rôđiôn Giukốp” (1926). Rôđiôn Giukốp là một trong 700 thủy thủ của chiến hạm “nổi loạn” “Pôchômkin” đã đổ bộ lên bờ biển Rumani. Sau đó họ tản đi khắp thế giới và không mấy ai biết đến số phận của họ ra sao nữa. Nhưng Rôđiôn Giukốp là một người không thể sống xa tổ quốc, biết là nguy hiểm anh vẫn tìm cách trở về. Anh đã trở về và sau nhiều ngày đêm lang thang trong thảo nguyên Ukrain: ốm yếu, đói khát với tâm trạng phấp phỏng lo âu, anh dốc nốt đồng 50 kôpếch cuối cùng để mua tấm vé tầu trở về Ôđexxa, nhưng anh đã bị bắt ngay trên bến cảng. Truyện được tả lại bằng lối văn thích hợp với đề tài, không cường điệu và phô trương. Nhưng trong, đó dường như vẫn vấn vương một điều gì chưa giải quyết xong, nó tựa hồ như một hạt giống nếu gặp môi trường ắt sẽ nảy sinh. Vào những năm 20, rõ ràng nhà văn không hề nghĩ tới cuộc đời thứ hai của Rôđiôn Giukốp, ông cho rằng nói thế là đủ rồi. Nhưng khi ông có ý định quay về với thời thơ ấu, trở lại năm 1905 thì những cái tưởng đã phai mờ lại sống lại trong ký ức của ông dưới một nhãn quan khác, tinh tường hơn, trong đó có Rôđiôn Giukốp. Khi ông viết “Cánh buồm trắng cô độc” kể về những người bạn ấu thơ giãi dầu trong sóng gió Hắc hải và cháy sạm dưới mặt trời phương nam, thì cái chất bi tráng của câu chuyện mà ông đã viết về Giukốp không thật thích hợp với sắc diện của cuốn sách nữa. Nhưng Giukốp vẫn trở lại, anh trở thành cái cầu để đưa Pêchya và Gavrik đến với cuộc cách mạng đang sinh sôi và phát triển. Trong bộ bốn tập “Sóng Hắc hải”, tuy là nhân vật quan trọng, song Rôđiôn Giukốp vẫn chỉ đứng ở bình diện thứ hai. Từ câu chuyện cũ, chỉ vài ba tình tiết được chọn lọc dựa vào bộ tiểu thuyết bốn tập này, Giukốp con người thực đã nhường chỗ cho Giukốp tượng trưng và Giukốp biểu tượng cho bối cảnh đấu tranh cách mạng đầy nguy hiểm của thời kỳ bí mật. Đối với trẻ em, nhất là đối với cậu học sinh hay mơ mộng Pêchya Batsây, thế giới này đầy những bí ẩn hấp dẫn: những nhiệm vụ bí mật, những cuộc gặp gỡ đáng ngờ văng vẳng những câu nói nghe lạ tai... Ở đây tính lãng mạn nhiều màu sắc vốn có của biển khơi được nâng lên thành tính lãng mạn mộc mạc, kín đáo của cuộc cách mạng. Sự kết hợp hài hòa ấy đã làm cho câu chuyện vừa êm ái, thơ mộng vừa có cái không khí oi nồng, tức tối của lúc trời sắp nổi cơn giông. Ở đây không còn thấy cái nhịp điệu hối hả, dồn dập của bao sự kiện trong tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!”, không còn cái sắc thái bông đùa riễu cợt của những truyện ngắn thuở xưa. Ở đây đã hình thành một phong cách mới - một lối văn xuôi điềm tĩnh, trầm mặc với những sắc thái muôn hình muôn vẻ, một lối viết súc tích cổ điển, chú ý nhiều đến những chi tiết tưởng như vụn vặt, chẳng có gì quan trọng, nhưng lại là chất liệu tạo ra nội dung mềm mại của câu chuyện. Đó là những tình tiết hết sức thông thường và đồng thời cũng rất bất ngờ. Biển ở đây cũng sống một cuộc sống gắn bó với các nhân vật nhỏ bé và với những sự kiện vĩ đại. “Khi thì biển yên tĩnh, xanh biếc màu da trời, đôi chỗ có những dải nước lặng, trăng trắng như những con đường nhỏ. Khi thì nó rực lên một màu xanh lơ bừng chói lấp lánh. Khi thì nó dập dờn như những đàn cừu tung tăng đùa dỡn. Khi thì một làn gió mát thoảng qua, làm nó bỗng nhiên ngả sang màu chàm xẫm và xù lên như lông cừu bị vuốt ngược. Khi thì bão ập tới, biển thay hình đổi dạng nom đến đáng sợ. Một trận cuồng phong rồ lên một đợt sóng lớn. Trên bầu trời màu than chì, những con hải âu vừa bay vừa kêu la ầm ĩ. Những làn sóng hung cuồn cuộn đi và quăng quật dọc bờ biển một cái xác cá heo bóng nhẫy. Phía trên nhưng đám mây nâu của cơn bão biển, chân trời màu lá mạ sáng chói dựng lên như một bức tường lởm chởm. Những con sóng nhào đầy bọt hệt như tấm đá khổng tước chằng chịt những đường vân rộng trắng xóa, đâm xô vào bờ, vỡ tan ra, làm dội lên những tiếng ầm ầm như tiếng súng đại bác. Tiếng dội âm vang ngân lên trong bầu không khí đầy tiếng động inh tai. Bụi nước bắn lên, tạo thành một làn sương mù mỏng mảnh, rủ xuống như một tấm sa mỏng phơ phất trên suốt chiều cao đồ sộ của những bờ dốc đang rung chuyển. Nhưng vẻ mê hoặc chủ yếu của biển là trong khoảng không bao la của nó bao giờ cũng giữ kín một điều gì bí mật. Ánh lân quang của biển chẳng phải là điều bí mật sao, khi mà trong một đêm tháng sáu không trăng, bàn tay ta dúng xuống làn nước ấm đen sì bỗng sáng rực lên, lấp lánh những tia sáng xanh. Hay những đốm lửa chuyển động của những con tàu vô hình và những luồng sáng nhợt nhạt, bừng lên một cách chậm chạp của ngọn hải đăng chưa từng biết? Hay số hạt cát mà trí tuệ con người không thể nào đếm xuể? Cuối cùng là hình ảnh kỳ ảo của chiếc thiết giáp hạm nổi loạn có lần đã xuất hiện ở ngoài khơi xa tắp, chẳng phải là một điều hoàn toàn bí ẩn sao?” Đọc những đoạn văn trên đây ta có cảm tưởng rằng đó không thể là ký ức của nghệ sĩ dù là một nghệ sĩ từng trải và có tài, mà phải là cặp mắt trong sáng và tinh tường của một đứa bé mẫn cảm mới chộp nổi. Ngay từ những dòng đầu của tập I, “Sóng Hắc hải” đã được viết theo một phong cách khác hẳn, tạo nên một tâm trạng khác tất cả những gì ông đã viết, nhất là tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!” Lối văn mô tả chậm rãi, dẫn dắt người đọc đi vào suy tư và hồi tưởng, trong đó hứa hẹn một cái gì chân xác và trữ tình. Chất thơ thấm vào các trang sách và tô điểm cho chúng bằng những màu sắc êm ái, làm cho chúng trở nên hấp dẫn và độc đáo: lúc vui, lúc buồn nhưng bao giờ cũng là sự chân xác lãng mạn. Trong hành động của hai đứa trẻ Pêchya và Gavrik tính tự nhiên không phải chỉ do logic nội tâm mà còn do cả logic cuộc sống riêng của chúng tạo nên: mỗi đứa một vẻ. Song đó cũng là cái logic, và tâm lý thông thường: trẻ con ở tuổi đó thường muốn bứt mình ra khỏi người lớn, muốn sống một cuộc sống độc lập, nhất là trong những hành động hấp dẫn của trẻ con, không muốn cái khôn ngoan chán ngắt của người lớn can thiệp vào. Càng nguy hiểm càng hấp dẫn, càng là việc làm vô cùng thích thú. Bí mật là cái gì đè nặng lên con tim đến ngạt thở, nhưng ngọt ngào xiết bao, cái hương vị của khám phá. Do đó chúng đã bị lôi cuốn vào cuộc cách mạng như tham gia vào một trò chơi thích thú đang tiếp diễn ở giai đoạn gay go, căng thẳng. Bị thua trắng tay trong cuộc chơi uski, Pêchya trở thành “nô lệ” của Gavrik và nó phải theo “hầu” ông chủ, tha cái túi nặng đầy tài sản uski lang thang khắp thành phố giữa lúc hỗn mang, chui rúc qua các ngõ hẻm heo hút và rùng rợn. Thoạt tiên Pêchya không biết cái túi nó mang trên lưng là đạn và việc luồn lánh qua các ngõ ngách kia là làm nhiệm vụ tiếp vận đạn dược cho những người khởi nghĩa đang chống cự với cảnh sát và quân lính chính phủ. Nhưng khi đã vỡ lẽ, nó lại hồ hởi tiếp nhận thêm nhiệm vụ mới. Bây giờ cố nhiên thằng bé đã hiểu rõ nó mang thứ uski gì. Giá vào lúc khác thì có lẽ nó đã vứt tuốt và chạy về nhà. Nhưng hôm ấy, mê say với cái công việc nguy hiểm nhưng hấp dẫn này; niềm mê say còn mãnh liệt gấp trăm lần những lúc ham chơi, nó nhất định không chịu bỏ bạn một mình. Nhưng ngay trong trường hợp này tác giả cũng không quên tuổi đời của nhân vật, tính hiếu danh trẻ con vốn có của lứa tuổi đó. “Hơn nữa, - nhà văn viết thêm, - nó không thể từ bỏ cái vinh quang của Gavrik. Chỉ riêng một ý nghĩ rằng sau này nó sẽ không có quyền kể lại những chuyện mạo hiểm của mình, đã lập tức buộc nó phải coi thường nguy hiểm”. Ở đây bộc lộ cái năng khiếu quan sát tinh tường của nhà văn: ông thận trọng quan sát, không bỏ sót một chi tiết nhỏ để nhận ra những tính chất mới, quan điểm mới đang hình thành trong tâm hồn thằng bé Pêchya, trong khi cuộc sống xung quanh hầu như vẫn bình thường. Tuổi thơ là tuổi của những tìm tòi, khám phá, và quả thực những khám phá vĩ đại đều bắt đầu ngay từ những bước đi đầu tiên, những tiếng nói đầu tiên trong đời người. Mỗi đứa trẻ đều tìm ra một châu Mỹ của mình, và tạo ra cho nó - cái châu Mỹ ấy, một cuộc sống riêng theo ý mình. Những cuốn sách về tuổi thơ là những cuốn sách về tìm tòi và khám phá cái mới - khám phá thế giới. Tuy nhiên bất kỳ một khám phá nào cũng đều xảy ra trong những giờ phút nhất định của lịch sử và trong những tình huống nhất định. Khi nhận ra cái túi nó mang trên lưng là đạn, Pêchya hiểu rõ rằng việc làm của nó và Gavrik không còn là trò chơi trẻ con nữa. Trong hai tập đầu của bộ sử thi “Cánh buồm trắng cô độc” và “Khu trại trong thảo nguyên” sự khám phá thế giới trong tâm hồn cậu bé diễn ra dưới ánh sáng của ngọn lửa cách mạng đang cháy lan ra khắp nước Nga. Thế giới hiện lên trong sự đổ vỡ khốc liệt của năm 1905. Những biểu tượng tưởng như không gì lay chuyền nổi của tuổi thơ về nước Nga, về Sa hoàng, về Thượng đế và về người bố thế là bắt đầu sụp đổ. “... Thì ra nước Nga là một nước bất hạnh, và ngoài bố ra còn có những người ưu tú nào đó đang chết mòn ở những nơi làm việc khổ sai. Thì ra Sa hoàng là thằng ngốc và một tên nát rượu, lại còn bị người ta dùng gậy tre đánh vào đầu. Ngoài ra, các bộ trưởng là những kẻ bất tài, các tướng tá là những kẻ bất tàỉ, và té ra không phải nước Nga đánh bại nước Nhật - điều mà cho đến nay không ai mảy may nghi ngờ - mà là nước Nhật đánh bại nước Nga. Và điều chủ yếu nhất là bố và bác đều nói về việc đó. Tuy nhiên, chính Pêchya cũng đã đoán được đôi điều. Trong bót cảnh sát, người ta nhốt những người hoàn toàn tử tế, không say rượu, thậm chỉ nhốt cả một ông già tuyệt diệu, mà còn đánh cả ông cụ nữa chứ.” Lưng đeo cái xắc cốt nặng, ngoan ngoãn theo Gavrik đi khắp hang cùng ngõ hẻm, lần đầu tiên Pêchya nhìn thấy cái cảnh bần cùng vừa đáng kinh sợ, vừa nên thơ của những khu phố nghèo của Ôđexxa, nhìn thấy cái tử thi có bộ mặt vàng ệch như sáp ong trong trận chiến đấu mà Pêchya có cảm tưởng như một trò chơi trẻ con. V. Kataep là một nhà văn hay viết về trẻ em và hai tập đầu của bộ bốn tập “Sóng Hắc hải” là những cuốn sách viết về niềm sung sướng đầu tiên của bản tính trẻ em và những đau khổ đầu tiên khi tiếp cận với sự thật. Trong cuộc đời của một đứa trẻ, và nhất là của một đứa trẻ mơ mộng, lãng mạn như Pêchya, thì liệu có những tấn bi kịch nào có thể so sánh được với những thất vọng đầu tiên, với việc phải đánh giá lại những giá trị đã ăn sâu trong ý niệm của nó! Cuộc sống không thương tiếc những ảo mộng. Đó là quá trình tất yếu, nhưng lại diễn ra khác nhau tùy theo môi trường của mỗi cá nhân và ảnh hưởng của lịch sử. Ở đây nhà văn phải dựng lại toàn bộ bối cảnh lịch sử và không khí xã hội của những năm ấy một cách chính xác: hoàn cảnh gia đình ông giáo Batsây, quanh cảnh đường phố Ôđexxa và tất cả những gì tạo nên môi trường vật chất và đạo đức của Pêchya. Nhưng tuổi thơ của Gavrik là căn lều nghèo nàn của ông lão đánh cá, ở đây không có chỗ cho những ước mơ và viễn tưởng rực rỡ. Viễn tưởng lãng mạn là cái cốt do môi trường của Pêchya tạo nên. Một chú bé được nuôi dưỡng trong môi trường chính trực, liêm khiết và yêu cái thiện, nó sẽ hướng về cái thiện, cái công bằng. Khi vào đời, cái sức mạnh vốn có của cái ác, mà cái ác bao giờ cũng có khuynh hướng chà đạp lên cái thiện sơ khai của con người, mới bắt đầu tác động đến con người. May mắn thay, vừa bước chân ra khỏi cửa, Pêchya đã gặp ngay Gavrik, một người bạn đường đáng tin cậy, một đứa trẻ nghèo mà tâm hồn trong sáng, ý chí thông minh, bản năng chiến đấu vượt lên trên những thiếu niên cùng lứa tuổi. Do hoàn cảnh gia đình, ngay từ tấm bé, Gavrik đã phải lăn lộn với thiên nhiên để kiếm sống và phải va chạm với đủ loại người, nó sớm trưởng thành và là một đứa trẻ tháo vát, có đầu óc thực tế. Ý thức đoàn kết và công bằng xã hội đã ăn sâu trong tâm khảm nó ngay từ tấm bé. Khi đưa Pêchya. đến tiếp xúc với những người lao động nó không quên giới thiệu: “Đây là con trai ông giáo Batsây” và “đó là một gia đình không có gì làm giàu sang, hiện đang gặp khó khăn.” Như một người lớn, chín chắn không phải do tuổi đời song Gavrik vẫn là một thủ lĩnh tí hon tinh nhanh và nghịch ngợm, nó luôn luôn tự hào với vai trò của mình trong đám trẻ con trên đường phố, nó cũng ham chơi, nhiều khi quên cả công việc. Sắc thái đó làm cho nhà văn có thể mang vào câu chuyện chút ít hài hước, làm cho “chú Gavrôs Tênarđiê của Ôđexxa” có sức cảm hóa đặc biệt. Gavrik tháo vát, đảm đang và chu đáo, Pêchya mơ mộng mà ngờ nghệch trước việc đời. Do đó trong tình bạn của chúng có cái gì thiếu bình đẳng. Những cái mà đứa con của đường phố Ôđexxa nhận thức một cách dễ dàng và chắc chắn thì đối với Pêchya - đứa con của một gia đình trí thức, một học sinh trường quốc lập, lại là một điều bí ẩn. Pêchya chỉ có mỗi một ưu thế là thầy dạy tiếng la tinh cho Gavrik. Tuy vậy Gavrik cũng không xem thường cái khôn ngoan thông thái của nhà trường. Đối với nó những kiến thức sách vở không phải là điều thích thú, nhưng nó hiểu được giá trị thực tiễn của kiến thức đó: cần học, học vẫn là điều bổ ích. Viết về tình bạn của hai đứa trẻ có cá tính khác nhau, được giáo dục trong những môi trường khác nhau, nhưng vẫn giữ được tình thân ái, ngay cả khi chúng đã khôn lớn, là một khó khăn lớn: tình bạn đó rất dễ rơi vào tình trạng gượng gạo, nhưng ở đây tác giả đã khắc phục được khó khăn ấy một cách tài tình. Cái khôn ngoan của Gavrik thường có giá trị thực tiễn hơn kiến thức sách vở của Pêchya, nhất là khi vấp phải những vấn đề không hề có trong giáo trình. Ở đây nhà văn đã giải quyết khá tốt vấn đề khác biệt giữa đôi bạn: dù ảnh hưởng của Gavrik đến Pêchya có mạnh đến mấy, dù tâm hồn của chàng thiếu niên mơ mộng và lãng mạn này có ngây thơ và trong trắng thế nào, dù Pêchya có hướng đến cái thiện, cái công bằng đến mấy thì nó vẫn là một đứa con cưng của một gia đình trí thức đang dao động; hoang mang trước thời cuộc. Mỗi đứa có một thế giới nội tâm riêng của mình. Khi nói đến gia đình Batsây, đến người chủ gia đình ấy, ngay cả khi họ đang gặp khó khăn như trong “Khu trại trong thảo nguyên”, V. Kataep vẫn tả với nụ cười vốn có của ông - nụ cười nhân từ, thấu hiểu, rộng lượng và có cái gì như ái ngại. Thực ra trong cái chất Đôngkisốt của Vaxili Pêtrôvits Batsây có cái gì vừa tức cười vừa cảm động, cũng như trong tình trạng tuyệt vọng của bà bác Tachyana Ivanôvna, khi phẫn nộ bà thốt ra một tràng những lời phỉ báng có tính chất chính trị của bà. Trong gia đình Batsây không phải tất cả bao giờ cũng rõ ràng và luôn luôn nổ ra những cuộc tranh cãi. Ở đây chủ nghĩa duy tâm không phải như một hệ thống triết học mà là một loạt những nguyên tắc sinh hoạt gọi là vô tư, trung thực, lề thói, những ý niệm cao cả về người trí thức và bổn phận, của nó. Với Vaxili Pêtrôvits hai tiếng “chính trị” cũng làm ông e ngại chứ đừng nói tới giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thế nhưng trong gia đình ông hầu như người nào cũng thấy rõ cái ranh giới xã hội đã được bàn tay vô hình vạch ra giữa những con người: “Pêchya biết rằng chính ở đây, ở phía trên, bên kia đại lộ Nicolai là cái khu phố rực sáng, ồn ào, vô cùng quyến rũ, cao sang, huyền ảo mà trong gia đình Batsây người ta thường nói đến với một vẻ vừa kính trọng, vừa khinh bỉ là “Khu trung tâm”. Dĩ nhiên là gia đình Batsây không ở “khu trung tâm”. Ở đấy là “những người giàu có”, tức là những người đặc biệt, đi tàu bay hay xe đều đi vé hạng nhất, ngày nào cũng có thể đi xem hát, và không hiểu tại sao mãi bẩy giờ tối mới ăn trưa...” Nhưng không phải vì ghen tức mà ông bất mãn, ông Vaxili Bátsây vốn có thái độ ôn hòa, bất đối kháng, lý tưởng hóa cuộc sống - cái thái độ cố hữu của trí thức Nga. Nhất là ông, một con người nhân từ, đa cảm trong giọng nói thường nhiều nước mắt hơn là sắt thép. Nhưng khi phải đi đến quyết định: chỉ cần tỏ thái độ đầu hàng hay nhượng bộ trong phút chốc thôi để giữ cho cuộc đời yên hòa và sung túc, thì trong con người ông lại bộc lộ cái thái độ cứng rắn trước mọi thứ dọa dẫm và mua chuộc vì sự thánh thiện của đạo lý và vì lòng tự trọng. Cuộc sống nghiệt ngã, những bất công và đau khổ đã mở cho tầm mắt ông nhận ra cái bản chất của thứ uy lực tối thượng mà ông đang thờ phụng. Sau lần xung đột với thượng cấp, lần đầu tiên trong đời ông hiểu: “Ở nước Nga một khi đã ra làm việc Nhà nước thì không thể làm một con người ngay thẳng, không khom lưng cúi đầu được. Chỉ có thể là một quan chức đần độn của Sa hoàng, một viên chức không có ý kiến riêng của mình, chỉ biết tuân lệnh, tức là tuân lệnh quan trên, cho dù đấy là những mệnh lệnh bất chính và tội lỗi đi nữa. Với Vaxili Pêtrôvits, điều khủng khiếp nhất là tất cả cái đó lại bắt nguồn chính từ uy lực tối thượng của người đã được thượng đế ban cho ngai vàng để cai quản nước Nga”. Những giây phút tỉnh ngộ ấy hiếm hoi và quý giá vô cùng. Nó đã hướng ông Batsây đi vào một cuộc đời mới. Khác với gia đình ông Vaxili Batsây, trong xóm Cối xay Gần, ở cái thế giới người nghèo này của Gavrik, tất cả đều được thực hiện một cách dứt khoát, nhanh chóng, chắc chắn và không khoan nhượng. Ở đây, người ta không thừa nhận những cảm lụy, suy tư và dao động, ở họ - những người lao động bao giờ cũng sẵn sàng một quyết định hành động và ai cũng biết rõ là phải thực hiện quyết định đó như thế nào. Đối với V. Kataep, thì Rôđirôn Giukốp, Terenti, Tsernoivanepko, Gavrik và những chiến hữu của họ đều là những anh hùng. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” ảnh hưởng của Gavrik đối với Pêchya quá rõ ràng và cụ thể. Nhà văn đã bám sát đôi bạn của mình lang thang đi khắp chốn: trên bãi biển, trên đường phố và chui cả vào những ngõ ngách của Ôđexxa. Đối với Gavrik thì bãi biển, đường phố, xó chợ... chỗ nào cũng thân thuộc như trong căn lều rách nát của ông nó trước đây và ngôi nhà lụp xụp của anh nó hiện nay. Việc kiếm sống đã dạy cho nó tính tháo vát, khôn khéo, đôi khi ranh mãnh và tính thận trọng, đã khơi lên lòng căm thù. Do đó thái độ của nó rất dứt khoát: một lần thôi và suốt đời. Pêchya luôn luôn khâm phục cái khôn ngoan mà bạn nó đã học được trên đường phố. Và tất cả “những gì ở nhà đối với nó đều trở nên chán ngắt và vô vị, mặc dù nó rất yêu bố và bà bác “bướng bỉnh” của nó. Khi đến xóm Cối xay Gần, ở đây cái gì đối với nó cũng mới mẻ và mỗi lúc một khác. Nhưng nó không quay lưng lại với gia đình. Ngôi nhà, bầu không khí gia đình, những ảo tưởng của bố và lòng bất mãn cao thượng của bác là một dòng tư tưởng, những câu chuyện của anh Terenti, tấm gương của Rôđiôn Giukốp, những hoạt động của Gavrik lại là một dòng khác. Và hai dòng tư tưởng đó thoạt nhìn mới trái ngược làm sao. Trong cả bộ sử thi “Sóng Hắc hải” Pêchya luôn luôn là điểm xoáy của các luồng gió từ bốn phương thổi tới. Cuộc đời Pêchya: tham gia cách mạng, tham gia nội chiến và sau này tham gia cuộc chiến tranh yêu nước luôn luôn là sự tiếp diễn và phát triển của điểm giao lưu của các luồng tư tưởng đó. * * *       “Khu trại trong thảo nguyên” là tập thứ hai của bộ “Sóng Hắc hải” đã được mở đầu bằng cuốn tiểu thuyết mang cái tên thơ mộng “Cánh buồm trắng cô độc”, bắt nguồn từ chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tô điểm cho những bước đi ban đầu ít nhiều có suy nghĩ của nhân vật trung tâm là Pêchya Batsây và tình bạn của nó với Gavrik Tsornôivanenko. Trong “Khu trại trong thảo nguyên”, vẫn thông qua cuộc sống của hai gia đình ông giáo Batsây và anh công nhân Tsornôivanenko mà tiêu biểu vẫn là Pêchya và Gavrik. V. Kataep tái hiện lại một cách chi tiết cuộc sống của Ôđexxa, của nước Nga và phong trào cách mạng Nga vào những năm 1910 - 1915, cũng như phong trào dân chủ trên quy mô thế giới, thông qua chuyến du lịch của ba bố con Batsây qua một số nước. Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905, chính phủ Nga hoàng tăng cường đàn áp phong trào công nhân và truy lùng những người hoạt động cách mạng, Đảng rút vào hoạt động bí mật, đồng thời kết hợp với hoạt động công khai: sự ra đời của tờ báo “Sự thật” và việc chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào viện Đuma. Chính việc kết hợp giữa hoạt động hợp pháp với hoạt động bí mật là nét đặc trưng của giai đoạn cách mạng này giai đoạn chuẩn bị điều kiện cho một cuộc cách mạng mới, - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong những chương đầu của “Khu trại trong thảo nguyên”, vốn là một người trí thức Nga trung trực, một con chiên ngoan đạo, một người yêu nước theo kiểu thánh đường và hết mực tin yêu Sa hoàng, ông giáo Batsây ra sức bảo vệ nhà thờ và nhà nước với tấm lòng chân thiện của một nhà sư phạm mẫu mực. Ông làm ngơ trước mọi hoạt động của những người cách mạng, tuy không chống đối nhưng cương quyết không tham gia và cũng không để họ lợi dụng mình vào mục đích “chính trị” của họ. Hai chữ chính trị bao giờ cũng làm ông bối rối, ông xa lánh nó như người ta xa lánh những kẻ nhiễu sự. Ông không muốn ai quấy rầy cuộc sống “lương thiện” và yên hòa của gia đình ông. Nhưng sự thật đã không như ông tưởng! Trước cái tang lớn của nước Nga - nhà văn vĩ đại Lep Tônxtôi từ trần, ông đã đọc bài diễn văn tưởng niệm - “Mặt trời của nước Nga đã tắt” trước học sinh. Nhưng việc làm trung thực của ông lại trái với “nghĩa vụ” của người viên chức nhà nước, lại là hoạt động chống đối chính phủ. Giữa L. Tônxtôi và nhà nước thì chân lý ở đâu? Một câu hỏi hiện lên và niềm tin của ông bắt đầu lung lay. Còn nhà thờ ư? Sau lần tiếp xúc với lão linh mục đại diện cho nhà thờ ở nghĩa trang, bên nấm mồ của vợ ông, ông thấy rõ đó chẳng qua cũng chỉ là trò xảo trá! Và niềm tin của ông tiêu tan. Sau câu nói “kháng cự” đầy công phẫn: “Ngài làm nhục tôi!” ông bắt buộc phải thôi việc. Sau lần tống cổ tên hối lộ Blagienxki ra khỏi nhà, ông trở nên thất nghiệp và lần này thì vô phương cứu chữa. Ông hiểu ra rằng chẳng qua mình chỉ là một “tên nô lệ”. Tiếng ấy đúng nhất. “Thoạt đầu tôi là tên nô lệ của Bộ giáo dục nhân dân mà đại diện là Xmôlianinôp, đốc học ty giáo dục và y đã đuổi tôi như đuổi một con chó, bởi vì tôi đã cả gan có ý kiến riêng về Tônxtôi. Sau đó tôi trở thành nô lệ của Faigơ, kẻ cải đạo và là kẻ đầu óc thô thiển, y cùng đuổi tôi như đuổi con chó, bởi vì lương tâm tôi không cho phép tôi ghi điểm ba cho Blagienxki, một tên dốt đặc và ba hoa, trong khi người ta muốn tôi cho hắn điểm ba chỉ vì một lý do duy nhất hắn là con trai một nhà triệu phú. Tôi muốn nhổ toẹt vào mặt cả Xmôlianinôp lẫn Faigơ, và đồng thời phỉ nhổ cả toàn bộ chính phủ Nga! Và nếu ở nước Nga ta không thể không làm nô lệ cho kẻ khác, thì thà tôi làm một tên nô lệ bình thường, còn hơn làm tên nô lệ trí thức. Ít ra thì tôi còn giữ được sức sống cho tâm hồn tôi...” Theo sáng kiến của bác Tachiana Ivanôvna - gia đình Batsây thuê khu trại trồng cây ăn quả trong thảo nguyên với ý định cứu sống gia đình bằng lao động của mình. Nhưng trong một xã hội mà quan hệ giữa người với người là chó sói, thì gia đình ông làm sao tránh khỏi tai họa khánh kiệt. Ở đây lại xuất hiện mụ Xtôrôgienkô, một nhân vật hắc ám, ngày xưa buôn hàng cá, đã cướp cơm của ông cháu Gavrik và bao người khác, giờ đây lại chuyển sang buôn trái cây, đang ra sức dìm giá vườn quả của gia đình Batsây với ý định cướp trắng cả vụ trái cây lẫn khu trại. Nhưng mụ đã vấp phải kẻ thù cố cựu của mình: Gavrik. “Có điều hồi xưa nó bé tí và bất lực, mụ muốn làm gì nó thì làm, nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn khác, và do bản năng mụ đánh hơi thấy nó có sức mạnh nguy hiểm chưa rõ đến mức nào”. Phải chăng đó là sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, đã đến lúc làm cho kẻ thù kiêng nể. Những cuộc tìm kiếm để xây dựng cuộc sống điền viên, những lo âu và xung đột của Vaxili Batsây rút cục cũng có cái gì giống với tính chất lãng mạn tích cực của những người trong ủy ban bí mật. Giữa ông giáo Batsây và họ có những cái giống nhau: họ có chung một kẻ thù. Trong lúc gia đình Batsây đã bó tay trước sự chèn ép của cái xã hội “cá lớn nuốt cá bé”, mọi người đã an phận chờ đợi cái tai họa phải đến, thì vào một buổi sáng đẹp trời anh em công nhân ở Xóm Cối xay Gần đã đến giúp gia đình Batsây thu hoạch vụ trái cây theo lệnh của ủy ban bí mật. Ở đây có một cái gì rất cảm động, phóng khoáng như một khúc ca đồng nội. Và để trả công, - theo nguyên tắc có đi có lại, ông giáo Batsây giảng cho anh em công nhân một số bài học phổ thông về lịch sử, địa lý, văn học... Sau cái phút tỉnh ngộ kia giờ đây đã đến lúc ông dậm chân quật vào mặt bọn cảnh sát khi chúng ập đến muốn phá rối cuộc sống điền viên của ông “Tôi yêu cầu những người lạ mặt đêm hôm không được xộc vào trang trại của tôi”. Phút tỉnh ngộ đã đưa đến bước ngoặt lớn là sự giác ngộ tư tưởng của ông. Hành động đó làm ta liên hệ tới hành động của ông cách đấy mấy năm (“Cánh buồm trắng cô độc”): chính ông đã che chở cho anh lính thủy của chiến hạm Pôchômkin là Rôđiôn Giukốp thoát khỏi sự truy nã của cảnh sát - lúc này, hành động của ông mới xuất phát từ lòng nhân từ. Về Rôđiôn Giukốp khi anh ra đi thì “Thuyền ai thấp thoáng lẻ loi cánh buồm!” (“Cánh buồm trắng cô độc”) và giờ đây anh trở về thì mặt biển nhộn nhịp những cánh buồm. Khi ra đi anh chỉ là anh lính thủy quả cảm được ông cháu Gavrik cứu sống, giờ đây anh trở về với tư cách là đại diện của Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân xã hội dân chủ. Còn ông giáo Batsây thì đứng nghe anh nói chuyện về “tình hình chính trị” một cách chăm chú đến nỗi Pêchya đi ngang qua và chạm vào người ông cũng không hay. Và trong mỗi mắt kính của ông “lấp lánh một đốm lửa nhỏ”. Chính những tình tiết này làm cho câu chuyện dịu dàng và hấp dẫn về đôi bạn tâm giao trở thành câu chuyện về sự tất yếu của cách mạng, về sự hấp dẫn tất nhiên của cách mạng đối với những tinh hoa của xã hội và của mỗi con người dù đó là cậu học sinh hay ông giáo trung học. Trong cả hai tập “Cánh buồm trắng cô độc” cũng như “Khu trại trong thảo nguyên”, thời đại được quan sát và mô tả một cách xúc động dưới con mắt của những người sống trực tiếp trong các sự kiện. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” gia đình Tsornôivanenko hầu như không có gì thay đổi, ngoài việc Gavrik bỏ nghề đi biển và sau khi đã làm đủ nghề để cuối cùng trở thành thợ sắp chữ học nghề. Việc vào nghề in của nó cũng là do yêu cầu của cách mạng. Ở đây thông qua việc mô tả sinh hoạt của gia đình Tsornôivanenko và quan hệ của Terenti để nói lên phong trào công nhân và ngư dân Ôđexxa. Trong trường học nhân dân của ông giáo Batsây, ngoài Terenti ra, còn thấy bác lính thủy già Fêđia, anh Akim Perepelitxki. Và ở đây việc xuất hiện thêm một nhân vật mới: bà quả phụ Pavlôpxkaia, làm cho trường học của ông Batsây trở thành như một nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân. Khi Rôđiôn Giukốp nhảy lên con thuyền nhỏ nhoi một mình một bóng vượt biển khơi thì Pêchya mới lên tám. Vào năm Lép Tônxtôi qua đời Chương mở đầu của “Khu trại trong thảo nguyên” Pêchya đã 13 tuổi, nó đã có những hồi tưởng. Những sự kiện rối ren nó không thể nào gỡ ra được. Trong đầu nó đã có nhiều điều đáng suy nghĩ hơn là cuộc chơi uski thua lỗ. Nhìn cảnh tượng thành phố trong những ngày có tang bỗng nhiên quá khứ trở về xâm chiếm tâm hồn nó: “bầu không khí lo âu và rùng rợn của “năm thứ năm”, Nỗi lo âu đó khi tỏ, khi mờ đã xuyên suốt cuốn tiểu thuyết thứ hai “Khu trại trong thảo nguyên”. Không gian đã mở rộng ra ngoài phạm vi Ôđexxa. Đi du lịch ra nước ngoài ba bố con ông Vaxili Batsây tiếp xúc với thế giới bao la đủ màu sắc, với nhiều dân tộc và tiếng nói khác nhau, sức tưởng tượng vô hạn và không biết mệt của tuổi thơ bừng lên trước vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ và đầy rẫy những cái bất ngờ hiện lên sau khung cửa tàu xe. Vẫn với nụ cười nhân hậu, nhưng cũng rất hóm hỉnh, tác giả mô tả tình cảm của Pêchya với cô bé người Nga mà nó vừa nhác thấy trên sân ga nước người. Tình cảm say đắm ấy nảy sinh có lẽ vì đã lâu nó chưa được gặp người bạn gái nơi quê nhà. Chúng ta đã mấy ai không có một thời muốn giấu đi “cái đuôi trẻ con” bằng cách cố làm ra vẻ mình là người lớn: từ lời ăn tiếng nói đến dáng điệu, nhất là khi tiếp xúc với bạn nữ. Những cảm giác mơ hồ nhưng vấn vương bồi hồi, khi ta đi bên bạn ở chỗ vắng người, những cảm xúc làm bật ra những ý thơ tuyệt vời mà cho đến lúc đã làm người bố ta vẫn còn thấy xốn xang mỗi khi nhớ lại. Những cảm giác thơ ngây, trong trắng ấy - vào cái thuở chuẩn bị làm người lớn ấy, ta cứ thích gọi là “tình yêu”. Có thể đó sẽ là tình yêu, nhưng không hẳn. Ở đây ta lại thấy nụ cười của V. Kataep khi ông mô tả những xúc cảm yêu đương của cậu học sinh mơ mộng Pêchya Batsây với Môchya và Mariana. Nhưng đối với cậu thiếu niên Gavrik không được học như trẻ khác vì hoàn cảnh gia đình thì lại khác. Niềm khao khát của cậu là được học. Cậu sẵn sàng bỏ những đồng Kôpếch rất khó kiếm và cũng rất cần để nuôi sống gia đình, để trả tiền học phí. Cậu cũng muốn tỏ ra mình là người lớn, nhưng khác với Pêchya, cậu muốn mình là người lớn để làm được những việc lớn hơn. Chính Gavrik đã quắc mắt tống cổ mụ Xtôrôgienko ra khỏi trang trại của ông giáo Batsây. Tuy nhiên, đối với Pêchya trong số những tình tiết dịu dàng và vui vẻ, trong cái ống kính vạn hoa các ấn tượng cứ luôn luôn thay đổi một cách nhanh chóng, qua cả một dòng ngôn ngữ xa lạ đầy huyên náo trên đường du lịch, đôi khi vẫn thoáng hiện lên nỗi lo âu mơ hồ, những phong thanh về đời sống của nước Nga xa xôi và khuất nẻo. Nỗi hốt hoảng của Pêchya khi nó bỏ quên ở tiệm cà phê chiếc mũ lính thủy mà b&a

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Bếp
Nhà Bếp là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Banana Yoshimoto, ngay khi vừa giới thiệu với độc giả, cuốn sách đã tạo nên "Hội chứng Banana" ở Nhật Bản với 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ và tái bản trên sáu mươi lần. Ngoài ra, cuốn sách còn được chọn là món quà gửi tặng các đại biểu ngoại quốc tham gia Hội nghị thượng đỉnh G7 tại Nhật năm 1993.   Tình yêu bình thường trong một hoàn cảnh bất thường Sakurai Mikage, cô gái trẻ luôn ám ảnh về gia đình chỉ có duy nhất một người, cuối cùng đã thực sự chỉ còn lại một mình sau khi bà cô mất. Người bà yêu hoa cỏ đã để lại cho cô một mối an duyên trong đời – người bạn vong niên của bà, chàng trai Tanabe Yuichi phụ việc ở cửa hàng hoa. Khi cô định chuyển nhà, Yuichi đề nghị cô đến sống tạm tại nhà anh. Theo một lẽ rất tự nhiên, Mikage biết được bí mật về người cha chuyển giới xinh đẹp mà Yuichi gọi bằng mẹ khi sống chung cùng gia đình anh. Với Nhà Bếp, mọi sự thấu hiểu và ngơi nghỉ của tâm hồn lạc lõng đều neo đậu ở căn bếp gọn ghẽ, tinh tươm thông với phòng khách nhà Tanabe. Họ uống trà, nói với nhau những câu chuyện không đầu không đũa, Mikage nấu ăn và Yuichi phụ bếp nhưng từ đó trở đi họ tìm thấy một nửa đồng điệu trong niềm cô đơn riêng của mỗi người. Nỗi cô đơn mà người yêu trước đó của cả hai đều không bao giờ chạm tới được.  Với Nhà Bếp, mọi sự thấu hiểu và ngơi nghỉ của tâm hồn lạc lõng đều neo đậu ở căn bếp gọn ghẽ, tinh tươm thông với phòng khách nhà Tanabe. (Ảnh: Tú Anh) Suốt hồi chuyện dài, người đọc không tìm thấy đâu một câu thổ lộ nhưng vẫn nhận ra những chuyển điệu tinh vi của tình yêu. Sau cái chết bất ngờ của mẹ Yuichi, cả hai đều nhận ra điều không nói. Nhưng nỗi sợ mất đi người thân duy nhất, sợ phải một mình án ngữ giữa tình yêu của hai tâm hồn nhạy cảm. Họ vẫn im lặng, lời nói có gì quan trọng nữa đâu vì tình yêu bắt đầu bằng tình thương sẽ luôn ở đó, không lay chuyển khó đổi dời. Mikage vẫn rúc vào áo của Yuichi khi trời trở lạnh. Yuichi từ chối một lời tỏ tình vì tự hỏi “còn Mikage thì sao?” Nhưng cuối cùng, giữa tình yêu và nỗi sợ hãi, tình yêu vẫn cho những kẻ đang yêu nhiều dũng khí hơn. Từ vùng Izu xa xôi, Mikage đã mang món mì katsudon nóng hổi đến chỗ Yuichi chỉ để nói với anh: “Nếu từ nay, có thêm mình ở bên có thể Yuichi sẽ phải chứng kiến thêm những điều cực nhọc, những điều phiền toái và cả những điều khó chịu nữa nhưng chỉ cần Yuichi đồng ý thôi cả hai chúng mình sẽ đến một nơi nào đó nhọc nhằn hơn nhưng cũng tươi sáng hơn...” Đừng chỉ dán nhãn “nữ tính” cho người yêu bếp Mikage yêu bếp, dù là căn bếp sạch sẽ hay bẩn thỉu, miễn là bếp Mikage sẽ đặt trọn lòng yêu. Mikage tin rằng khi đứng ở bếp “tất cả mọi thứ sẽ trở lại lúc ban sơ và thế nào rồi cũng có điều gì đó sẽ quay về”. Cô yêu bếp đến độ muốn trút hơi thở cuối cùng trong bếp. Từ lâu, bếp là không gian được dán nhãn “nữ tính”. Nhưng tình yêu của Mikage dành cho bếp trong Nhà Bếp thể hiện đặc quyền phái tính theo một cách riêng.  Hình ảnh người cha chuyển giới Eriko mà Yuichi gọi là mẹ cũng đem đến cho người đọc một suy nghĩ khác về sự nữ tính. Sau khi mẹ của Yuichi qua đời, Eriko quyết định chuyển giới để nuôi dưỡng Yuichi trong vai trò người mẹ. Ở Eriko, bản chất đàn ông đã được hoán đổi với bản thể phụ nữ, trách nhiệm của người cha đã nhường chỗ cho tình yêu của người mẹ. Để có một Yuichi tốt bụng, dịu dàng cả khi nói và cười đều điềm tĩnh, Eriko đã nuôi dưỡng anh bằng tất cả sự cao nhã, lịch thiệp, giàu lòng vị tha và cả sự “nữ tính đàn ông” của mình.  Như một mạch nước ngầm trong trẻo, mát lành nhưng thâm trầm, Nhà Bếp chảy sâu vào nội tâm những người đọc luôn phải lòng lối văn chương điềm đạm, hướng nội.  Tôi nhớ mãi tâm sự của Mikage: “Còn lại tôi và bếp. Dẫu sao như thế vẫn còn hơn nghĩ rằng còn lại một mình.”  Tú Anh/ kilala.vn *** Tôi nghĩ rằng nơi tôi yêu thích nhất trên thế gian này là bếp. Chỉ cần nó là bếp, chỉ cần nó là nơi nấu ăn, thì dù ở nơi đâu, như thế nào, tôi cũng cảm thấy không còn buồn bã. Nếu nó được sử dụng thường xuyên, đúng nghĩa của một cái bếp thì càng tốt. Những chiếc giẻ lau khô ráo, tinh tươm và những tấm đá ốp tường trắng lóng lánh. Tôi yêu cả những cái bếp vô cùng bẩn thỉu. Tuyệt vời nhất là khi cái nền bếp cáu bẩn, vung vãi đầy những mẩu vụn rau, khiến cho đế dép phải đen kịt ấy lại thật rộng, mà rộng một cách khác thường. Cái tủ lạnh khổng lồ xếp đủ lượng thực phẩm cho tôi dễ dàng vượt qua cả một mùa đông đang đứng đó sừng sững, và tôi tựa mình vào cánh cửa màu nhũ bạc của nó. Tôi bất giác rời mắt khỏi bệ đặt bếp ga tung tóe dầu ăn cùng chiếc dao phay han gỉ, và nhìn lên, đã thấy một vì sao cô đơn đang lấp lánh bên ngoài cửa sổ. Còn lại tôi và bếp. Dẫu sao như thế vẫn còn hơn nghĩ rằng chỉ còn lại một mình. Vào những lúc thực sự mệt mỏi, tôi thường đắm chìm vào một ý nghĩ, rằng nếu một ngày nào đó phải chết, tôi muốn trút hơi thở cuối cùng ở trong bếp. Tôi sẽ không hề run rẩy mà sẽ nhìn thật kĩ mọi thứ, dù cho đó là vào thời khắc lạnh lẽo chỉ có một mình tôi, hay ở nơi ấm áp và có người nào khác nữa. Thật tốt biết mấy nếu điều đó xảy ra ở trong bếp. Trước khi được gia đình Tanabe đem về nhà, ngày nào tôi cũng ngủ trong bếp. Chẳng hiểu sao, nằm chỗ nào cũng cảm thấy khó ngủ, nên tôi cứ thế nhích dần ra khỏi phòng để tới chỗ dễ ngủ hơn, và rồi vào một buổi sớm, tôi chợt nhận ra rằng bên cạnh chiếc tủ lạnh là nơi tôi có thể ngủ ngon lành nhất. Tôi tên là Sakurai Mikage, cha mẹ tôi đều chết lúc còn trẻ. Kể từ đó, ông bà đã nuôi nấng tôi. Ông tôi mất khi tôi bắt đầu lên học cấp hai. Và thế là hai bà cháu tôi cùng sống với nhau cho tới tận bây giờ. Mấy ngày trước, bà tôi mất. Tôi bàng hoàng. Mỗi lần bất chợt nghĩ ra, rằng gia đình tôi, một thứ đã tồn tại thật trên cõi đời này, cứ mất dần đi từng người, từng người theo năm tháng, và rốt cuộc chỉ còn lại mình tôi nơi đây, tôi bỗng thấy mọi thứ trước mắt đều giống như một lời nói dối. Trong căn phòng nơi tôi sinh ra và lớn lên, tôi sững sờ vì thời gian qua đi đã để lại những vết chân hằn sâu đến thế và chẳng còn ai khác nữa ngoài tôi. Giống như một câu chuyện khoa học giả tưởng. Hay bóng đen của vũ trụ. Tôi không nghĩ ngợi được gì trong suốt ba ngày sau khi đám tang kết thúc. Tôi khẽ kéo lê cơn buồn ngủ dịu nhẹ, thường kèm theo nỗi đau buồn đã bão hòa khi mà nước mắt không còn chảy ra được nhiều nữa, và trải tấm đệm bông lên trên sàn bếp tĩnh lặng sáng trưng. Tôi cuộn mình trong chiếc chăn lông giống như cậu bé Linus (1) và ngủ. Tiếng tủ lạnh chạy ro ro giữ cho tôi khỏi trượt theo những ý nghĩ cô độc. Ở đó, một đêm dài êm ả trôi qua và sớm mai đã tới. Thực tình, chỉ là vì tôi muốn được ngủ dưới những vì sao. Và thức dậy trong ánh nắng của một ngày mới. Ngoài điều đó ra, mọi thứ khác đều trôi qua bằng lặng. Nhưng! Tôi không thể sống như thế được nữa. Hiện thực quá sức chịu đựng. Dẫu bà tôi có để lại cho tôi bao nhiêu tiền đi chăng nữa, thì căn phòng ấy vẫn quá rộng và quá đắt đối với tôi, nếu tôi chỉ có một mình. Tôi phải đi tìm một căn hộ khác. Đành phải vậy, tôi mua tờ Thông tin căn hộ cho thuê về và giở ra xem thử, nhưng những căn hộ chẳng khác gì nhau đứng xếp hàng la liệt trên đó làm tôi thấy chóng mặt. Chuyển nhà, sẽ mất thời giờ. Và công sức. Mà lòng tôi thì lại đang buồn bã, và nữa, tối ngày ngủ trong bếp khiến các khớp xương khắp mình mẩy tôi đau nhức, làm sao có thể nghĩ đến chuyện làm cho cái đầu bất cần này tỉnh táo lại để đi xem nhà bây giờ! Rồi chuyển đồ nữa chứ! Rồi mắc điện thoại nữa chứ! Chỉ cần nghĩ tới những phiền toái có thể nêu ra cả đống như thế là tôi đã thấy tuyệt vọng và lại lăn ra ngủ. Tôi vẫn còn nhớ rõ buổi chiều ấy, khi mà điều kỳ diệu, như một bà tiên, bất chợt viếng thăm. Píng poong! Bỗng nhiên chuông cửa vang lên. Một buổi chiều mùa xuân giăng làn mây mỏng. Tôi đã ngán đến tận cổ việc phải liếc qua tờ Thông tin căn hộ cho thuê, mà đằng nào thì tôi cũng phải chuyển nhà cơ mà, thế là tôi cắm cúi lấy dây bó đống tạp chí lại. Tôi chạy vội ra, một nửa người vẫn đang mặc đồ ngủ, chẳng nghĩ ngợi gì, tôi mở chốt cửa. Đứng đó là Tanabe Yuichi (thật may không phải là một tên cướp). - Cảm ơn cậu về việc hôm trước. - Tôi lên tiếng. Đó là một cậu thanh niên tốt bụng, kém tôi một tuổi. Cậu ta đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong đám tang của bà. Hỏi ra mới biết cậu ta học cùng trường đại học với tôi. Nhưng lúc này tôi đang nghỉ ở trường. - Không có gì. - Cậu ta đáp. - Cậu đã quyết định sẽ ở đâu chưa? - Chưa quyết định gì cả. - Tôi cười. - Mình cũng đoán vậy. - Cậu vào nhà uống một tách trà đã chứ? - Thôi. Bây giờ mình rất vội vì đang phải đi có chút việc. - Cậu ta cười. - Mình chỉ định tạt qua nhắn cậu cái này thôi. Mình đã bàn với mẹ rồi, cậu đến nhà mình ở ít lâu đi. - Sao cơ? - Tôi giật mình hỏi lại. - Trước mắt, khoảng bảy giờ tối nay cậu tới nhé. Đây, bản đồ đây. - Ờ. - Tôi lơ đễnh nhận lấy mẩu giấy chỉ đường. - Thế thôi, chào nhé. Cả mình và mẹ đều rất mong Mikage đến đấy. - Yuichi cười. Nụ cười rạng rỡ quá khiến cho đôi đồng tử của cái người đang đứng đó, nơi thềm cửa quen thuộc, nhìn như gần lại rất nhiều làm tôi không sao rời mắt được. Cũng có thể vì đột nhiên cậu ta gọi đến tên tôi. -... Chắc chắn mình sẽ đến. Nếu nói một cách nhảm nhí thì rất có thể ma quỷ đã xúi giục tôi. Nhưng tôi tin cậu ta vì cái thái độ điềm nhiên ấy. Những khi bị ma quỷ dẫn lối, bao giờ tôi cũng chỉ còn nhìn thấy một con đường chạy thẳng trước mặt trong bóng tối. Và lần này cũng thế, con đường đó lại hiện ra, sáng lóa và đầy chắc chắn, nên tôi mới trả lời như vậy. Cậu ta nói: Gặp lại sau nhé, rồi cười và đi mất. Tôi hầu như không biết cậu ta cho tới đám tang của bà. Ngày làm lễ, lúc Yuichi tới, quả thực tôi đã tưởng cậu ta là người yêu của bà. Vừa thắp hương, cậu ta vừa nhắm nghiền đôi mắt đã đỏ lên vì khóc và run rẩy bàn tay, rồi khi nhìn thấy di ảnh của bà, cậu ta lại giàn giụa nước mắt. Trước cảnh tượng đó, bất giác tôi thấy tình yêu của mình dành cho bà chắc hẳn còn xa mới bằng được con người ấy. Cậu ta nom đau buồn đến thế. Và rồi, vừa ấp chiếc khăn mùi-soa vào mặt, cậu ta vừa đề nghị: - Để mình giúp cậu việc gì đó nhé. Vì thế mà sau đấy tôi đã nhờ cậu ta giúp biết bao nhiêu việc. Tanabe Yuichi. Có lẽ vì đang rối bời nên phải mất khá nhiều thời gian tôi mới nhớ ra đã nghe bà nhắc tới cái tên đó vào khi nào. Mời các bạn mượn đọc sách Nhà Bếp của tác giả Banana Yoshimoto & Lương Việt Dũng (dịch).
Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)
Anna Karenina là một tiểu thuyết của nhà văn Nga, Lev Nikolayevich Tolstoy, được đăng tải nhiều kỳ trên tờ báo Người đưa tin từ năm 1873 đến năm 1877 trước khi xuất bản thành ấn phẩm hoàn chỉnh.   Lev Tolxtoi (1828 - 1910) là một trong những nhà văn cổ điển lớn nhất nước Nga, đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng:   - Truyện kể về Xevaxtopol,   - Luyxerno, Bốn năm sau khi viết xong Chiến tranh và Hòa bình, ngày 19-3- 1873, L. Tolstoi lại hạ bút viết dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết dài Anna Carenina. Cũng như nhiều nhà văn hồi đó, Tolstoi chịu ảnh hưởng của Puskin. Ông nói: "Tôi học tập được nhiều ở Puskin, ông là người cha của tôi, ta nên học tập ông". Đây không phải là ảnh hưởng bề ngoài về cách viết, giọng văn; cũng không phải là vay mượn, bắt chước cốt truyện này nọ. Những tác phẩm Puskin đã khơi dậy tất cả sức lực sáng tác sẵn có của Tolstoi, thôi thúc ông làm việc và gợi nhiều ý sáng tác tốt, mới. *** Anna Karenina - Nàng thơ với vẻ đẹp u buồn của Lev Tolstoy Nếu bài thơ Tôi Yêu Em của thi hào Nga Pushkin được khởi nguồn từ mối tình không thành với con gái viện sĩ viện Hàn lâm Nga thì cuốn Anna Karenina của Lev Tolstoy được lấy ý tưởng từ con gái của Pushkin. Đó là cô Maria Pushkina. Trong lần đầu gặp gỡ Pushkina tại bữa ăn tối, Lev Tolstoy đã bắt đầu lưu ý tưởng viết cuốn sách ấy. Cũng có thể nói con gái nhà thơ Pushkin chính là nguyên mẫu của hình tượng nàng thơ Anna Karenina trong cuốn tiểu thuyết của tên. Kể từ ngày đầu phát hành vào năm 1877, cuốn sách Anna Karenina đã gây được tiếng vang trong giới phê bình văn học Nga. Cuộc sống khắc họa một bóng dáng nàng thơ u buồn Anna Karenina. Cô sống trong vòng dây xiềng xích, trói buộc tự do trong xã hội Nga những năm bất ổn chính trị với tư tưởng phong kiến già cỗi. Anna Karenina vốn rất yêu tiểu thuyết, cô đọc nhiều cuốn sách và cảm thấy như đó là cách để cô sống những cuộc đời khác. Những cuộc đời tự do, tự chủ và hạnh phúc hơn. Những thứ mà cô chưa từng biết đến, chưa từng nếm trải. Mọi chuyện bắt đầu từ lòng ham mê quyền thế và tiền bạc của bà cô của Anna. Bà đã đem Anna gả cho Karenin, một người có danh vọng và quyền lực, một người mà Anna không có tình yêu. Cuộc hôn nhân ấy đem đến cho gia đình Anna những lợi ích lớn. Anh trai của cô trở thành Chánh án dù có thành tích học tập không tốt. Tất cả là nhờ quyền lực của Karenin. Và cuộc hôn nhân ấy cũng chấm dứt tất cả cuộc đời tự do, hạnh phúc của Anna Karenina. Cuốn sách một nghìn trang: một xã hội Nga đương thời thu nhỏ Ngài Karenin, chồng của Anna là một người có danh vọng và địa vị trong chính trường. Vì thế ông luôn quan tâm cách xã hội thượng lưu nghĩ gì về mình hơn là tự yêu thương và nhìn nhận bản thân. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Sống ở đời đau khổ nhất là nhìn người khác mà sống và sống để người khác nhìn.". Có lẽ Karenin chính là loại người như vậy. Ngài luôn làm theo những gì giới thượng lưu trông đợi, khiến mọi người phải ngưỡng mộ. Đó là thứ sĩ diện hão vốn phổ biến và bao trùm lên nước Nga trong những năm đầy biến động. Mọi thứ trong cuộc đời ngài Karenin đều vận hành như kế hoạch bản thân vẽ ra. Kể cả việc lấy vợ, kết hôn cùng Anna Karenina cũng là vì muốn giới thượng lưu nhìn thấy, mọi người ngưỡng mộ. Karenin lấy Anna vì cho rằng mình phải làm như vậy. Vì Anna là một người phụ nữ học thức, có khả năng quán xuyến gia đình, xã giao với giới thượng lưu, chứ không phải vì yêu và hoàn toàn không có tình yêu. Hôn nhân chỉ là một thứ làm đầy đủ, trang hoàng cho những thứ mà ngài Karenin có. Là thứ làm đẹp dòng họ Karenin trong xã hội Nga đương thời. Nhiều người vẫn nghĩ rằng Anna Karenina khi lấy ngài Karenin, đặt chân vào giới thượng lưu sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của người thiếu phụ trẻ ấy trong tám năm hôn nhân lại là những cuộc móc nối quan hệ thượng lưu theo ý của chồng. Ngài Karenin luôn muốn Anna phải làm quen với những phu nhân, tiểu thư của tầng lớp quý tộc giúp ngài. Khi ấy ngài sẽ dễ dàng trong con đường sự nghiệp hơn. Anna Karenina không thích tiệc tùng, cô chưa từng muốn đặt chân đến những nơi ấy. Cô yêu tiểu thuyết, yêu nghệ thuật, yêu những thứ gọi là cái đẹp, gọi là tự do. Nhưng cô lại sống suốt tám năm trong cái cuộc sống, trong cái xiềng xích khóa chặt tự do mà chính người cô ruột của mình đã đặt lên cổ mình. Chỉ vì tiền, người cô ruột đã đem Anna gả cho ngài Karenin. Và chỉ vì tiền mà bà cô ấy đã đốt tự do, hạnh phúc đời đứa cháu ruột Anna của mình cháy thành tro tàn. Chuyến xe lửa tình cờ Anna sẽ sống trong sự sắp đặt đến hết cuộc đời mình mãi cho đến khi cô đi chuyến xe lửa tình cờ ấy, gặp con người định mệnh đó. Đó là chàng sĩ quan Vronsky. Đại úy Vronsky là con người tự do, quyết đoán và can đảm. Anh từng nói: "Tôi sinh ra là người Digan và sẽ chết như người Digan.". Digan vốn là một tộc người yêu tự do, thích lang thang và phóng khoáng. Sĩ quan Vronsky cũng vậy, anh thích sống và yêu một đời tự do. Nhưng anh lại yêu Anna, một người không được phép sống cuộc đời đó. Đại úy Vronsky phải lòng Anna Karenina trên đoàn tàu xa lạ không hẹn ước. Chỉ một thoáng lãng mạn chàng sĩ quan đã không thể quên cô. Nhưng sau vài lần gặp gỡ, Vronsky nhận ra, có lẽ anh với Anna là yêu nhưng không thể yêu. Anh bước xuống, cố gắng không nhìn cô quá lâu như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời. Nhưng cũng như mặt trời, anh vẫn trông thấy cô dù chưa một lần chạm mắt Người thiếu phụ ấy dẫu bị ép lấy ngài Karenin nhưng họ vẫn là vợ chồng. Dẫu họ không hạnh phúc, Anna không hạnh phúc nhưng giới thượng lưu lại công nhận họ hạnh phúc. Còn Vronsky chẳng là gì cả, anh chỉ là một người trót yêu Anna. Một người xa lạ bên chuyến tàu định mệnh đem đến cho Anna sự hy vọng đầu tiên trong đời. Nhưng có lẽ đó chính là sự hy vọng muộn màng và bi thương. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Một trong những đau đớn của đời người là lúc chưa có năng lực lại gặp người mình muốn chăm sóc cả đời.". Có lẽ câu nói này giống với số phận của sĩ quan Vronsky. Lúc trong tay anh không có gì cả, lại gặp được người anh muốn che chở một đời. Gặp đúng người, nhưng lại sai thời điểm. Vronsky đã gặp Anna muộn mất tám năm trong khi cô đang đau khổ. Nhưng anh không thể bước tiếp mà chỉ có thể lùi lại phía sau. Vì Vronsky đã chậm mất tám năm, lỡ mất một đời. Vronsky không thể bước tiếp, còn Anna Karenina, cô lùi bước. Cô trở về Matxcova, kết thúc chuyến thăm quê sớm hơn dự kiến. Và chấm dứt hy vọng cuối cùng của mình với Vronsky. Màu sắc lãng mạn làm nền cho yếu tố hiện thực và tư tưởng tự do Qua cuốn sách Anna Karenina, Lev Tolstoy muốn chứng minh một điều rằng lãng mạn không phải là thứ vẻ đẹp để tô hồng cho cuộc sống hàng ngày. Lãng mạn không phải thứ xa xỉ mà người ta vẫn nói với nhau. Không phải là thứ sách viết về mở đầu thì phải yêu nhau đắm đuối. Không phải là thứ sách gợi cho người đọc quan tâm đến kết thúc là đau khổ hay vui vẻ, cặp đôi yêu nhau có đến nhau được hay không. Sau tất cả đó chỉ là tình yêu chứ không là gì cả, không có ý nghĩa nhân văn nào cả. Anna Karenina là cuốn sách muốn nói với người đọc và xã hội đương thời rằng tự do còn quan trọng hơn cả tình yêu, con người cần yêu trong tự do và đó là quyền của họ. Trong hiến pháp của Mỹ năm 1877, Tổng thống Washington đã tuyên bố rằng: Chúng tôi khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của Anna Karenina lại không có những quyền đó. Cô đã không hạnh phúc, không có quyền hạnh phúc. Đã không có tự do, bị ép sống không có tự do. Cô đã bị gượng ép kết hôn và không có quyền ly hôn. Cuốn sách đặt ra một câu hỏi tình huống nhức nhối muốn người đọc trả lời. Đó là nếu sống cuộc đời hôn nhân bị ép buộc thì phải làm sao. Chịu đựng hay ly hôn và đi tìm hạnh phúc của mình? Anna đã chịu đựng tám năm, cô không muốn phải sống như vậy nữa. Nhưng lại không thể ly hôn. Vì định kiến xã hội đương thời không cho phép một phụ nữ thượng lưu ly hôn. - Làm tất cả, nhưng đừng ly dị! - Darya Alexandrovna đáp. - Chị hiểu tất cả là thế nào? - Chao, thật ghê sợ! Cô ấy sẽ không phải là vợ của ai nữa, đời cô ấy thế là bỏ đi! Cuộc đời thế là bỏ đi - đó là cách mà xã hội nhìn nhận những người phụ nữ có ý định ly hôn. Giá trị của người phụ nữ đến thế là cùng. Anna Karenina đã không còn đường lui nữa. Phía trước cô là định kiến xã hội, còn phía sau cô lại là cuộc hôn nhân mất tự do. Không thể bước tiếp nữa, nhưng cũng không thể lùi bước được nữa. Sức chịu đựng của một người đến thế là cùng, ròng rã suốt tám năm, cô không thể chịu đựng được nữa. Cô sống trong cuộc hôn nhân đau khổ với ngài Karenin, nhưng khi gặp sĩ quan Vronsky thì lại càng đau khổ hơn. Có lẽ đại úy Vronsky cũng giống như thứ ánh sáng đẹp đẽ, cao quý làm đau mắt một người đã ngần ấy năm không nhìn thấy ánh sáng như Anna. Cô chỉ còn cách chọn con đường thứ ba, con đường buông bỏ. Buông bỏ cả đau khổ và và niềm vui muộn màng với sĩ quan Vronsky, buông bỏ cả tự do và định kiến. Sẽ không có cách nào để thoát khỏi định kiến nếu không buông bỏ tự do của bản thân. Đó là điều mà xã hội già cỗi đương thời của Nga đem đến cho thần dân nước mình khi họ muốn sống một đời tự do. Giải thoát bản thân mình bằng cái chết, Anna Karenina không chỉ muốn thoát thoát khỏi đớn đau mà còn muốn giáng một đòn mạnh mẽ vào ý thức hệ già cỗi, lạc hậu của nước Nga lúc bấy giờ. Và luồng sáng đã soi cho nàng thấy rõ cuốn sách cuộc đời mình với biết bao lo âu, phản phúc và đau khổ, lúc này càng bừng lên chói lọi hơn, rọi chiếu vào mọi vật bấy lâu nay chìm trong bóng tối; rồi nó rung rinh, mờ đi và tắt ngấm vĩnh viễn. Mãi về sau, đến năm 1941, khi tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao ra đời, người ta vẫn nhắc mãi về Anna Karenina của Lev Tolstoy: cái chết của Chí Phèo và Anna Karenina sao mà giống nhau quá. Chí Phèo muốn sống lương thiện nhưng không thể lương thiện, Anna Karenina muốn tự do nhưng không thể tự do. Họ chỉ đành tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình. Và cũng để những người sống đau khổ như họ không phải sống cuộc đời như vậy nữa. Cái chết ấy bất lực, là tiếng thét oan khuất giữa xã hội đầy biến động, đầy bất công. Nhưng cái chết ấy lại dũng cảm, là lời tố cáo đanh thép về một xã hội thiếu tự do được viết bằng máu và nước mắt của Anna Karenina. Anna Karenina- tác phẩm lớn nhất mọi thời đại do tạp chí Times bình chọn Cuốn sách Anna Karenina của Lev Tolstoy được phát hành lần đầu năm 1877, sau 147 năm, cuốn sách vẫn vẹn nguyên giá trị. Cuốn sách ấy vinh dự được Times bình chọn là tác phẩm lớn nhất mọi thời đại và gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền tư tưởng thế giới. Văn hào Lev Tolstoy, tác giả của cuốn sách Anna Karenina được tôn xưng là "Sư tử văn học Nga". Ông là nhà tư tưởng, cải cách giáo dục lớn với chủ nghĩa hoà bình và tư tưởng bất bạo động. Qua Anna Karenina ông đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về tư tưởng tự do đương thời: Trên hết, tôi sẽ không muốn mọi người nghĩ rằng tôi muốn chứng minh bất cứ điều gì. Tôi không muốn chứng minh bất cứ điều gì, tôi chỉ muốn sống; không gây ác cho ai ngoài bản thân mình. Tôi có quyền, phải không? Tư tưởng của Lev Tolstoy đã gây ảnh hưởng đến những con người có khả năng gây ảnh hưởng lớn cho xã hội. Trong đó có nhà lãnh đạo đảng Quốc Đại Ấn Độ, người đấu tranh cho tự do, Mahatma Gandhi. Martin Luther King, Jr, chủ nhân của giải Nobel Hòa bình năm 1964 cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng tự do bất bạo động của Lev Tolstoy. Có thể thấy, giá trị lớn nhất của một cuốn sách không phải là chân hay mỹ mà chính là thiện, là giá trị xã hội lan tỏa và làm xã hội tốt đẹp hơn. Đó còn là lòng yêu thương và bao dung, là con người cần được yêu thương và có quyền sống hạnh phúc. Trong tất cả nỗi buồn của con người, không có gì mang lại sự an ủi ngoài tình yêu và đức tin, và trong tầm nhìn của lòng từ bi của Chúa Kitô đối với chúng ta, không có nỗi buồn nào là tầm thường. Cuốn sách Anna Karenina không kết thúc bằng sự ra đi của Anna, mà là cuộc hành quân tình nguyện của sĩ quan Vronsky. Sau ngày Anna rời bỏ thế gian, trong lòng Vronsky có những chuyển biến quan trọng. Chàng sĩ quan rời quê hương và tham gia đội quân tình nguyện trong chiến tranh giúp Serbia chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Vẫn là lòng tin đó, lòng tin tự do không xa sẽ đến. Cùng với Chiến Tranh Và Hòa Bình, cuốn sách Anna Karenina đã đem tư tưởng tự do của Lev Tolstoy đi khắp thế giới. Sống tự do và hạnh phúc luôn là điều viên mãn nhất trên đời. Và khi nào, nơi nào đó trên thế gian này còn thiếu hai điều ấy, thì con người sẽ tiếp tục đấu tranh. Vì lẽ phải luôn đúng và luôn chiến thắng tất cả. Bài viết bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)của tác giả Lev Tolstoy.
Bí Ẩn Một Cái Tên
Cô bé 12 tuổi Heidi không biết ngày sinh của mình, không biết quê hương của mình ở đâu và cũng không biết cha ruột của mình là ai. Quả thực, mọi điều về quá khứ của Heidi và người mẹ thiểu năng của cô bé là một bí mật lớn. Khi bị ám ảnh bởi soof - một từ lạ trong vốn từ vựng của Mẹ, Heidi quyết định thực hiện một cuộc hành trình dọc đất nước để tìm kiếm bí mật về quá khứ của mình. Rời xa gia đình, những mảnh vụn của lịch sử cá nhân cô bé dần được ghép lại thành một bức tranh hoàn chỉnh. Nhưng khi biết được về sự thật mình là ai, mình từ đâu tới... liệu rằng điều đó có khiến Heidi cảm thấy hài lòng, và trên hết, có làm cho cô bé hạnh phúc như trước khi thực hiện cuộc hành trình truy tìm quá khứ. *** “So B. It - Bí ẩn một cái tên” (NXB Hội Nhà văn) là tiểu thuyết của Sarah Weeks, nữ văn sĩ người Mỹ rất thành công với những tác phẩm dành cho thiếu nhi và tuổi mới lớn. Lần này, độc giả cùng khám phá hành trình đi tìm thân thế của cô bé 12 tuổi. Một hành trình độc đáo, lạ lùng và thấm đẫm nhân văn. Câu chuyện được viết qua giọng kể của Heidi, cô bé 12 tuổi, sống với người mẹ bị thiểu năng trí tuệ trong một căn chung cư. May mắn là mẹ con cô có người hàng xóm tốt bụng Bernadette, một phụ nữ trung niên sống một mình sát vách nhà. Chính bà là người đỡ đần, chăm sóc 2 mẹ con từ khi Heidi mới chào đời. Do bác Bernadette mắc chứng sợ khoảng rộng, không thể ra khỏi nhà nên Heidi không được đến trường mà học tại gia do bác kèm cặp, dạy dỗ. Cuộc sống của 3 người chỉ quanh quẩn ở nhà, cửa hàng tạp hóa và thư viện gần đó. Người mẹ ngờ nghệch của cô bé chỉ có thể nói được 23 từ đơn giản, nhưng có một từ là Heidi luôn thắc mắc vì không tìm được nghĩa dù đã tra nhiều từ điển, đó là từ “soof”. Cho đến một ngày, Heidi phát hiện ra chiếc máy ảnh cũ và sau khi rửa hình, cô thấy có mẹ mình cùng những người lạ trong một trại nuôi dưỡng người khuyết tật ở New York. Điều kỳ lạ là mẹ cô chỉ vào một bức hình kêu lên “soof”. Điều đó càng thôi thúc Heidi đi tìm ý nghĩa của từ “soof” và khám phá xuất thân của mình. Bởi từ trước đến nay, cô không biết cha mình là ai, không biết ngày sinh nhật và đặc biệt là mẹ cô không có một giấy tờ tùy thân nào ngoài một cái tên khó hiểu: “So B.It”. Heidi một mình bắt xe buýt đi suốt 4 ngày trời để đến trại Hillltop ở Liberty, New York, nơi mẹ cô có mặt trong những tấm hình để tìm hiểu về quá khứ của mẹ. Hành trình ấy đầy gian nan và  bất ngờ… Câu chuyện đầy những điều lạ lùng, thú vị cuốn hút người đọc dõi theo đến trang sách cuối cùng. Tác phẩm giúp người đọc hiểu hơn về chứng bệnh khoảng rộng, một chứng bệnh hiếm gặp trên thế giới, về những người thiểu năng trí tuệ và cách họ thích nghi với cuộc sống. Cách dẫn dắt, đặt vấn đề của tác giả khiến người đọc tò mò, đặt ra hàng loạt câu hỏi: tại sao Heidi có vận may kỳ lạ khiến trong các trò chơi về óc phán đoán thì cô bé luôn chiến thắng? Tại sao mọi chi phí thuê nhà, hóa đơn điện nước… của hai mẹ con cô bé đều không phải trả? Tại sao không có bất cứ giấy tờ hay hình ảnh, tài liệu nào về thân thế của hai mẹ con?... Do đó, khi Heidi lên đường đi tìm sự thật, độc giả cũng háo hức muốn khám phá mọi điều cùng cô bé. Hành trình ấy đã giúp Heidi tiếp xúc với nhiều người, va chạm với cuộc sống thực tế, khám phá bao điều, có cả niềm vui lẫn nỗi buồn, hoang mang và sợ hãi… Từ một cô bé nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thơ ngây, đơn giản, Heidi đã chững chạc hơn, bắt đầu biết băn khoăn day dứt hơn bởi những trải nghiệm thực tế. Những khám phá phảng phất màu sắc triết lý nhẹ nhàng của một cô bé 12 tuổi như Heidi nhận thấy việc nói dối chưa hẳn là đã xấu vì “Đôi khi người ta nói dối vì sự thật quá nặng nề để thừa nhận nó...”. Hay Heidi hiểu ra rằng “không biết một điều gì đó chẳng có nghĩa rằng ta ngốc nghếch. Nó chỉ có nghĩa rằng vẫn còn chỗ cho sự ngạc nhiên”. Nghĩa của từ “soof” và bí ẩn về cái tên của mẹ cuối cùng cũng được giải dù đổi lại là những mất mát, những khoảng trống trong tâm hồn cô bé. Dù vậy, cả Heidi và người đọc cũng không hối tiếc bởi nó xứng đáng và cần thiết. Hơn hết, hình mẫu nhân vật Heidi thông minh, dũng cảm, đáng yêu thật sự tỏa sáng trong lòng độc giả khi khép sách lại. CÁT ĐẰNG *** Lời khen tặng dành cho So B. It: “Cuốn tiểu thuyết có đủ sự hồi hộp để lôi cuốn những người ưa thích sự bí ẩn, đồng thời Weeks đã miêu tả sinh động cuộc phiêu lưu thể chất và xúc cảm của Heidi với sự chừng mực và tiết chế về ngôn từ đến mức đáng khâm phục.” - The Horn Book “Văn phong duyên dáng - chân thực, cảm động và được gọt giũa cô đọng đến mức tinh tế.” - ALA Booklist. “Những nhân vật thú vị, khác thường. Người đọc sẽ thực sự cảm động.” - VOYA. *** SARAH WEEKS là ca sĩ, người viết nhạc và một tác giả viết sách cho thiếu nhi. Cô đã viết hơn 30 cuốn truyện tranh và các tiểu thuyết cho teen. Weeks thường đi thăm các trường học và thư viện trên khắp nước Mỹ, đọc sách của mình, hát những bài hát do mình sáng tác và trò chuyện với trẻ em về việc viết lách. Sarah Weeks hiện sống tại thành phố New York cùng hai con trai. Bạn có thể ghé thăm cô trên trang web www.sarahweeks.com. Ta không thể thực sự biết về bộ não của Mẹ chỉ bằng cách nhìn vào bà, nhưng điều đó trở nên rõ ràng khi bà lên tiếng. Giọng của bà cao vói, giống như một đứa bé gái, và bà chỉ biết vỏn vẹn có hai mươi ba từ. Tôi biết điều này từ thực tế, vì chúng tôi giữ một danh sách những từ Mẹ nói, ghim nó ở tủ bếp. Phần lớn từ ngữ khá quen thuộc, giống như tốt và nữahay nóng, nhưng có một từ duy nhất Mẹ nói thì rất đặc biệt, soof. Tặng David - người đã dạy tôi rất nhiều về cả những điều biết và không biết. - S.W *** So B. It và hành trình đi tìm sự thật, Nếu bạn thích tìm kiếm cuốn sách viết về những sự thật lạ lùng đến khó tin, cuốn sách chứa đựng những điều bí ẩn và hồi hộp, cũng thật khó lòng đoán được kết thúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ đến mức không dễ dàng gì buông sách xuống nửa chừng… thì So B. It đúng là tác phẩm dành cho bạn. Có thể nói, So B. It là một tác phẩm độc đáo, từ giọng văn nhẹ nhàng mà có sức lay động kỳ lạ, đến một cốt truyện đơn giản nhưng sâu sắc, ẩn chứa những triết lý thông minh đáng để ngạc nhiên. So B. It được viết qua giọng kể của Heidi - cô bé 12 tuổi đáng yêu, ngây thơ và đầy tò mò - về hành trình tìm về sự thật, về quá khứ của chính mình. Heidi có một cuộc đời kỳ lạ: cô bé không biết về quá khứ, không biết cha mình là ai, không biết ngày sinh của chính mình. Cô bé sống cùng người mẹ bị thiểu năng, người chỉ có thể nói được 23 từ tất cả, và Bernadette - một phụ nữ hàng xóm bị bệnh sợ khoảng rộng không dám ra khỏi nhà. Cuộc sống của Heidi hầu như tách biệt với xã hội bên ngoài, cô bé tiếp xúc với thế giới thông qua sách vở, trí tưởng tượng và các chuyến đi mua sắm, đến thư viện gần nhà. Có thể nói, cô bé có một tuổi thơ êm đềm và hạnh phúc. Mọi chuyện xảy ra khi Heidi bị ám ảnh bởi một từ trong số từ vựng của mẹ mà cô bé không tìm ra nghĩa - soof. Cũng chính từ lạ này đã thôi thúc Heidi khám phá về quá khứ của mình, muốn tìm câu hỏi lý giải mình là ai, từ đâu tới? Và cô bé một mình thực hiện chuyến đi dọc nước Mỹ, từ Nevada tới New York, để tìm ý nghĩa của soof… Ngay dòng mở đầu, Heidi đã làm chúng ta phải tò mò: “Nếu như sự thật là một cây bút chì màu đang chờ tôi bọc lại rồi đặt tên cho nó một màu nào đó, tôi biết chính xác mình sẽ muốn nó có màu gì - màu da khủng long.” Và cứ thế, người kể chuyện sẽ dẫn dắt bạn bước vào cuộc phiêu lưu thể chất và xúc cảm của cô bé. Hành trình đi tìm từ soof của Heidi, hay hành trình đi khám phá ra mình là ai, đầy những điều ngạc nhiên thú vị và những cảm giác sợ hãi, thậm chí cả sóng gió bất ngờ chờ đợi cô bé ở đích đến. Lần đầu tiền Heidi thực sự bước ra thế giới, chặng đường đó với những trải nghiệm mới mẻ đã làm thay đổi Heidi. Từ một cô bé nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thơ non, Heidi đã chững chạc hơn, bắt đầu biết băn khoăn day dứt hơn bởi những “sự biết” về cuộc sống. Có thể nói, câu chuyện là một hành trình cảm động hồi hộp, rất lôi cuốn với những nhân vật khác thường đồng thời rất thật. Một kết thúc đẹp và buồn, thật ngọt ngào và sâu lắng sẽ ám ảnh ta khi gấp cuốn sách lại. Điều làm tôi ấn tượng hơn cả về cuốn sách này đó là những trải nghiệm của Heidi về cuộc sống. Những khám phá phảng phất màu sắc triết lí nhẹ nhàng của một cô bé mười hai tuổi như những tia sáng nhỏ bé soi rọi vào mặt bên kia của những điều tưởng như đã trở thành chân lý hiển nhiên chẳng cần bàn cãi. Chẳng hạn, qua những gì chứng kiến, Heidi nhận thấy việc nói dối chưa hẳn là đã xấu: “Đôi khi người ta nói dối vì sự thật quá nặng nề để thừa nhận nó…” Hay Heidi hiểu ra rằng “không biết một điều gì đó chẳng có nghĩa rằng ta ngốc nghếch. Nó chỉ có nghĩa rằng vẫn còn chỗ cho sự ngạc nhiên.” Trong quá trình tìm về quá khứ của mình, Heidi cũng đã thừa nhận rằng có những điều vĩnh viễn chúng ta chẳng thể nào biết được, cho dù chúng ta cố gắng đến mấy để tìm hiểu về chúng. Ngay cả khi khám phá ra được sự thật - như sự thật gây ngỡ ngàng về quá khứ của mẹ Heidi - cũng không hẳn đã khiến cho chúng ta sống hạnh phúc hơn; nhưng dẫu vậy không dễ gì chúng ta từ bỏ được mong muốn được biết sự thật… Sarah Weeks, nữ văn sĩ người Mỹ rất thành công với những tác phẩm dành cho thiếu nhi và tuổi teen, thực sự sẽ làm bạn hài lòng qua tác phẩm So B. It. Những nhà phê bình văn học đã không quá lời khi khen ngợi So B. It là một cuốn sách với “văn phong duyên dáng - chân thực, cảm động và được gọt giũa cô đọng đến mức tinh tế”. Và trên hết, đây là một cuốn sách gây ám ảnh… Sài Gòn 9.4.2011 Nguyễn Hồng Dung   Mời các bạn mượn đọc sách So B. It - Bí Ẩn Một Cái Tên của tác giả  Sarah Weeks & Nguyễn Hồng Dung (dịch).
Hòm Thư Số 110
Tình yêu của anh nhón chân rón rén bước "Em đã bước vào vườn hoa của anh rồi nhỉ. Dù chưa được cho phép." Ở độ tuổi 30, bận bịu trong nhịp sống thường ngày quen thuộc khiến Jin Sol lẳng lặng đem cất những rung động tình yêu xa xỉ vào góc sâu trái tim. Mục tiêu cô đề ra là “Đừng để lòng vướng bận”. Song lẽ dĩ nhiên, trời chẳng chiều lòng người, đợt cải tổ nhân sự định kỳ của đài phát thanh đã mang đến cho cô một cộng sự khó nhằn - một nhà sản xuất chương trình còn sáng tác cả thơ. Để đối phó với anh ta, dường như mọi sự phòng bị là không đủ, hoặc chỉ một cốc smoothie đã đủ… Viết về những con người gần gũi trong cuộc đời bình dị, những người lớn dù đã khoác lên mình lớp vỏ trưởng thành song vẫn còn vô số khuyết điểm cũng như nhược điểm, ngày ngày vẫn đối mặt với nỗi cô đơn trong chừng mực cho phép, đây là câu chuyện “thử yêu thêm lần nữa” của họ, của bạn và của tôi. *** [Review nhè nhẹ] Hòm thư số 110 – Yi Do Woo “Bạn biết bạn đã đọc một cuốn sách hay, khi giở đến trang cuối cùng và cảm nhận như mình vừa mất đi một người bạn.” (Paul Sweeny) Thú thật thì mình là người yêu thích văn học (tiểu thuyết) Hàn Quốc nên khi cuốn sách vừa xuất bản là lao ngay tới quầy sách Nhã Nam để đón “Hòm thư số 110” về. Không nhiều hy vọng về một câu chuyện tình yêu phải có những tình tiết nhân văn hay đưa lại một ký ức thật đặc biệt, mình đón nhận cuốn sách với tâm thế đọc để “giao lưu học hỏi”. Thế rồi ba ngày trôi qua, chỉ rời cuốn sách khi nấu cơm, ăn cơm, vệ sinh cá nhân, đi ngủ, làm việc, mình đã bị “đốn gục” bởi cái sự bình dị mà không tầm thường của “Hòm thư số 110”.  Câu chuyện kể về tình yêu đầy tự nhiên của những con người nhỏ sống ở Seoul. Là cái cách nữ biên kịch Jin Sol từng bước một thoát khỏi cuộc sống nội tâm đầy cô đơn của mình, để bước ra với thế giới bên ngoài và “nhảy” vào tình yêu với vị PD Lee Geon mà cô làm chung. Tình yêu của họ tự nhiên đến độ không có một sự đưa đẩy khiên cưỡng nào làm độc giả lấn cấn hay phản đối. Bầu không khí trong phòng thu, cách họ dạo bước trên cầu Mapo, những cuộc đối thoại trong xe, cảm xúc lúc họ cùng trốn bảo vệ để khám phá cung điện ở Gwanghwamun vào giờ cấm, rồi cùng ngắm sao băng với bạn bè hay uống với nhau vài chén… đều rất trong trẻo và dịu dàng. Ngay cả cái cách miêu tả Jin Sol khi ầng ậc nước mắt, quay người sửa gối vì mất ngủ, khóc òa nơi chân cầu thang thoát hiểm cũng rất mượt mà và làm tim người đọc quặn thắt theo. Là câu chuyện tình yêu của cặp đôi phụ Ae Ri và Seon Woo “chặt không đứt, bứt không rời” cứ như thể họ đã gặp nhiều thật nhiều kiếp, nên ở kiếp này dù có khó khăn thế nào cũng vẫn sẽ tìm thấy nhau, vì nhau mà thay đổi. Vì Seon Woo, cô nàng học giỏi Ae Ri có thể từ bỏ cả việc học hành cao lên, chỉ để cùng nhau làm những việc họ thích đó là mở một quán trà trong con ngõ nhỏ ở Insadong – quán trà “Mở cửa vào ngày mưa”. Vì Seon Woo, Ae Ri có thể mòn mỏi chờ đợi ngay cả khi anh ích kỉ đi du lịch một mình cả tháng trời không liên lạc lại – vào mỗi lần anh thấy u uất trong lòng. Thương Ae Ri, khó chịu với tính cách của Seon Woo, nhưng rồi cứ càng đọc, người ta lại càng hiểu ra thật ra trong lòng Seon Woo luôn có sự tự ti chưa có thuốc giải, và Ae Ri cuối cùng cũng là người “bào chế” thuốc giải đó cho anh. Là hình ảnh người ông của PD Lee Geon với một cuộc sống vui vẻ, hào sảng và luôn thích chuyện trò. Dù xuất hiện không nhiều, nhưng cách mà ông gây cười rồi gây xúc động, cách mà ông xuất hiện dần dần – rõ nét – và tan biến đi lại giống như ánh sáng của con đom đóm - khi đèn điện sáng choang, ta sẽ không chú ý tới chúng, nhưng trong màn đêm thăm thẳm, chúng lại rõ nét và xúc động đến lạ kì. Ngoài những câu chuyện tình yêu đầy tự nhiên và ý nghĩa, “Hòm thư số 110” còn được tác giả viết ra những đoạn văn sinh động như thể đang xem một cảnh phim. Những con chữ lúc thì biến thành chiếc lá bay bay trên đường, khi lại là hạt tuyết rơi trắng xóa, lúc lại là những cơn mưa xối xả, hay vệt sao băng rơi trên bầu trời. Mỗi lần đọc đến đoạn văn mang tới cảm xúc như xem một bộ phim đang hiện hữu là mình lại thầm chắp tay cảm ơn tác giả, dịch giả và biên tập viên. Cuốn sách này đã được mình vừa đọc vừa chép vào sổ tay những đoạn văn, đoạn đối thoại ý nghĩa. Nhưng 2 trong số đó làm mình yêu thích nhất, đó là: 1. “Lát nữa chúng ta sẽ được ngắm những ngôi sao băng rơi từ 150 năm trước sao?” “Những ngôi sao ấy bay hàng vạn năm ánh sáng tới đây mà. Chúng xuất phát từ ba mươi nghìn năm trước tới giờ mới rơi xuống. Đúng là sự tình cờ mất rất nhiều thời gian nhỉ.” 2. “Qua 3 tháng nữa là em đã đi làm được 10 năm rồi. Không hiểu sao em có cảm giác như này. Chắc chắn… bên trong em có một cái giếng, và em đã dùng gàu múc hết số nước trong giếng ra… Giờ chỉ còn trơ đáy giếng mà thôi.” ------- *Bonus 1 chút, tiểu thuyết mới nhất của cô tác giả này đã được đài JTBC chuyển thể thành phim và sẽ phát sóng cuối tháng 2 này với tiêu đề "TRỜI ĐẸP EM SẼ ĐẾN - If the Weather Is Good, I’ll Find You" do Park Min Young và Seo Kang Joon thủ vai chính.* ® Nguyễn Thanh Hương *** Những mạt gỗ mỏng manh rơi từ đầu cây bút chì còn mới nguyên xuống tờ giấy đã dùng một mặt. Jin Sol dùng dao chuốt cho đến khi ruột bút lộ ra, bột chì đen mịn lả tả rơi xuống dính vào mặt giấy. “Vậy tóm lại là PD Lee Geon cũng thuộc phe Daeho à?” Jin Sol vừa áng chừng độ nhọn của ruột chì vừa hững hờ hỏi. Chỉ còn một tuần nữa là đến ngày cải tổ nhân sự mùa thu. Từ sáng sớm phòng biên kịch đã nhốn nháo bàn tán về các chương trình mới cũng như PD được phân công phụ trách. “Nếu phân rạch ròi thì là thuộc phe Daeho chứ còn gì nữa, dù xét về quan hệ đồng môn hay đồng hương anh ta cũng thuộc bên đó thôi, đám người có thế lực ấy!” Biên kịch Kim miệt mài gõ bàn phím máy tính xách tay ngay bên cạnh Jin Sol, từ ban nãy đã liên tục cung cấp thông tin về PD Lee Geon cho Jin Sol. Phía đối diện, biên kịch Choi, người phụ nữ U40 đã lập gia đình đang chăm chú viết bản thảo ôn tồn chen vào cuộc trò chuyện giữa hai người. “Đừng có nói linh tinh. Theo chị anh chàng này, dù sống trong chung cư Daeho đi chăng nữa cũng không thuộc phe Daeho đâu. Đài phát thanh có việc gì còn chưa bao giờ thấy cậu ta ló mặt nữa là. Đây chính là mẫu người chỉ muốn một mình nhẹ thân. Chị từng làm việc với cậu ta nên biết.” Jin Sol thầm nghĩ, những lời này có lẽ đúng bởi kỳ vừa rồi biên kịch Choi đã làm chương trình Nhạc phim đêm cùng với Lee Geon. Đột nhiên bị chọc mạnh vào mạng sườn, Jin Sol lập tức liếc nhanh sang hướng biên kịch Kim vừa chỉ. Ở một góc phòng, biên kịch Song vẫn được đồn là có mối quan hệ thân thiết với hội chung cư Deaho mặt lạnh tanh, tay đặt lên bàn phím ra điều đang làm việc, nhưng kỳ thực tai lại dỏng lên nghe ngóng. Biên kịch Kim lén lè lưỡi còn Jin Sol cười tủm. Jin Sol đặt ngay ngắn chiếc bút chì đã gọt nhọn vào hộp bút rồi lại bắt đầu gọt một cái mới. Những lúc rảnh rỗi hay khi đột nhiên thấy hưng phấn hoặc bồn chồn, cô lại có thói quen lôi vài cây bút chì ra gọt. Jin Sol thích ngắm những mạt gỗ mỏng manh rơi xuống khỏi mũi dao và ruột chì đen lộ dần ra nơi đầu bút. Dù bao năm trôi qua, cô vẫn say đắm hương gỗ phảng phất mỗi khi gọt bút chì, mùi hương vẫn vẹn nguyên như thời cô còn ấu thơ. Kể từ năm cuối đại học đến giờ, đã tròn chín năm cô đặt chân đến đài phát thanh, đảm nhận chân viết kịch bản quèn. Sau khoảng hai năm làm trợ lý biên kịch, phụ trách vài phần kịch bản dưới sự hướng dẫn của các tiền bối, cô đã được mang danh biên kịch đúng nghĩa và tự viết chương trình của riêng mình. Sau khi làm việc tại vài đài phát thanh, ba năm trước, cô bắt đầu chuyển về công tác tại FM Radio có trụ sở đặt ở quận Mapo. Jin Sol không thuộc típ người quá hoạt bát năng nổ hay hòa đồng quảng giao nên ngoại trừ những người làm việc chung, cô chỉ duy trì mối quan hệ xã giao với người khác ở mức nếu gặp thì khẽ cúi đầu chào mà thôi. Cô vô thức thở dài khiến đống mạt gỗ nằm trên mặt giấy bay lên nhè nhẹ rồi lại rơi xuống. Trong vòng một năm rưỡi qua, cô đã đảm nhận công việc viết kịch bản cho hai chương trình phát thanh: Chiếc xe ngựa hoa chuyên gửi tặng các ca khúc truyền thống và Studio hạnh phúc dành cho phái đẹp. Không hiếm trường họp các PD đảm nhận một chương trình trong suốt vài năm trời nên cũng có khi biên kịch phải gắn bó với chương trình đến ba kỳ liên tiếp. Tuy nhiên, trong đợt cải tổ nhân sự lần này, giám đốc đài cho rằng chương trình Chiếc xe ngựa hoa đang trong giai đoạn cần phải đổi mới. Tức là sẽ được chuyển giao cho PD Lee Geon 33 tuổi mới vào công ty được năm năm phụ trách. Với một người mắc bệnh sợ người lạ nặng như Jin Sol, việc phải hòa hợp với cộng sự mới quả có chút đáng ngại. “Gong Jin Sol, giờ cô đã là bậc thầy trong lĩnh vực gọt bút chì rồi đấy.” Biên kịch Kim nửa xuýt xoa nửa trêu chọc khi nhìn thấy đầu bút chì xinh xắn Jin Sol vừa gọt. “Đúng thế. Em đắc đạo rồi.” Jin Sol cười khúc khích hưởng ứng. Đột nhiên cửa phòng mở tung, một giọng nói trong trẻo vang lên khiến ánh mắt mọi người đều đổ dồn về phía đó. “Chào mọi người. Lâu lắm rồi không gặp!” Là biên kịch Ahn Hee Yeon, cô gái luôn khiến người đối diện phải chú ý bởi phong cách thời trang nổi bật và ngoại hình tươi sáng, tràn đầy năng lượng. Biên kịch Kim khẽ nghiêng người thầm thì. “Chuyện gì thế này, sao cô ả lại hạ cố đến cái phòng biên kịch xa xôi hẻo lánh này cơ chứ. Trước giờ toàn ngồi cạnh PD một lát rồi đi ngay cơ mà.” Hee Yeon đi thẳng vào phòng biên kịch, tiến đến vị trí gần cửa sổ nơi Jin Sol đang ngồi, duyên dáng ghếch bộ mông xinh đẹp của mình lên bàn làm việc. “Biên kịch Gong, lần này cô làm việc với PD Lee Geon đúng không?” Mái tóc đen dày, óng mượt của Hee Yeon được tết năm sin sít và cột lại bằng dây nơ màu lá phong. Nhìn bím tóc trước mặt, Jin Sol chợt nghĩ, tết năm như vậy thì phải tết theo thứ tự thế nào nhỉ. “Ừ. Có vấn đề gì sao?” “Tôi vừa đi họp về. Chương trình World Music của chúng tôi kỳ này vẫn sẽ tiến hành như thường lệ. Cô biết anh Geon sẽ làm Chiếc xe ngựa hoa và một chương trình khác nữa rồi chứ? Anh ấy dò hỏi tôi xem biên kịch Gong là người như thế nào, đương nhiên tôi đã nói tốt về cô trước mặt anh ấy rồi.” Nói tốt về mình ư? Ahn Hee Yeon lại biết rõ về mình sao? Dù nghi ngờ nhưng Jin Sol vẫn cố nở nụ cười. “Thế à? Cảm ơn cô nhé.” “Tôi nghĩ biên kịch Gong và anh Geon sẽ làm việc ăn ý với nhau thôi. Anh ấy vốn rất thông minh.” Jin Sol gượng cười, lẳng lặng lấy cây bút chì thứ ba và chỉ gật đầu. Anh Geon cơ đấy. Cho đến tận giờ, cô nàng Ahn Hee Yeon 28 tuổi này chưa từng gọi bất cứ ai trong số các biên kịch ở đài phát thanh bằng chị hay tiền bối. Cả với Jin Sol năm nay đã 31 tuổi hay với những người lớn tuổi hơn nữa, Hee Yeon cũng chỉ gọi trống không là “biên kịch X” để tạo cảm giác ngang hàng. Trước thái độ dửng dưng của Jin Sol, Hee Yeon lén nhìn cô một lượt từ đầu đến chân. Gong Jin Sol dáng người nhỏ bé, đang chăm chú nhìn xuống đầu ngón tay lẳng lặng gọt bút chì. Nghe bảo cô ta viết bản thảo rất chắc tay, lại được các PD đánh giá rất cao? Nhưng theo Hee Yeon thấy, Jin Sol chỉ là một phụ nữ hết sức bình thường, không giỏi xã giao, không có tham vọng, cả chí tiến thủ cũng không nốt. “Cô có biết PD Lee Geon là nhà thơ không?” “Gì cơ?” Suýt chút nữa thì bị dao cứa vào tay. Jin Sol khựng lại, ngước lên nhìn Hee Yeon như thể vừa nghe thấy điều không nên nghe. Cô há hốc miệng vì ngạc nhiên. Phải đến lúc này, Hee Yeon mới mỉm cười tươi tắn. “Cô không biết sao? Cách đây mấy năm, PD Lee Geon còn ra một tập thơ. Viết hay lắm.” Vẻ mặc cảm thoáng hiện lên trên gương mặt Jin Sol, cô khẽ thở dài. “… Chết tiệt.” Hee Yeon nở nụ cười thỏa mãn rồi nhấc mông khỏi bàn. “Tôi phải đi trước đây, còn phải đến Yeouido nữa. À, cô có xem chương trình tôi viết kịch bản không? 12 giờ đêm thứ Năm hằng tuần nha. Mong cô giúp tăng tỉ suất người xem một chút nha. Hẹn gặp lại mọi người sau.” Hee Yeon rạng rỡ vẫy tay chào tạm biệt tất cả mọi người trong phòng rồi bỏ đi. Biên kịch Song ngồi ở phía cửa ra vào cười khẩy như thể vừa nghe một chuyện thật hoang đường. Ngoài chương trình World Music,Hee Yeon còn đảm nhận cả kịch bản Jazz Concert và cô nàng chưa bao giờ ngừng khoe khoang về việc này. Jin Sol nhìn biên kịch Choi ngồi phía đối diện với vẻ mặt oán trách. “Tiền bối, sao chị không nói với em?” “Chuyện PD Geon là nhà thơ á? Cái đó có gì quan trọng đâu cơ chứ?” Biên kịch Choi đưa tay đẩy lại gọng kính trên sống mũi rồi rời mắt khởi màn hình máy tính, ngước lên nhìn Jin Sol. Ở đài phát thanh có rất nhiều nhà sản xuất họ Lee nên Lee Geon thường được các đồng nghiệp gọi là PD Geon. “Với em thì có đấy. Chị biết trước đây em từng khổ sở như thế nào với tay phê bình âm nhạc kia còn gì?” “Em cứ thử làm việc với người ta đi đã. Thật tình, PD Geon khó tính trong chuyện bản thảo lắm nhưng cậu ta cũng không phải kiểu người thích gây sự lung tung đâu. Cứ làm việc với tâm trạng thoải mái là được.” “Đâu có dễ vậy ạ.” Jin Sol lẩm bẩm trong miệng nghe như tiếng thở dài. Đoạn, cô bỏ dao và bút chì vào ống đựng bút rồi gói tờ giấy hứng bột chì và mạt gỗ lại. Anh ta mà viết lách giỏi thật thì con đường gian nan lại sắp mở ra trước mắt Jin Sol rồi đây. Jin Sol không thích những PD giỏi viết lách, kiểu làm thơ, viết tiểu thuyết hay phê bình văn học. Đâu phải mình cô nghĩ vậy. Mọi biên kịch đều muốn tránh các PD giỏi viết lách. Vài năm trước, Jin Sol từng làm việc chung với một nhà sản xuất kiêm phê bình âm nhạc mà đến tận bây giờ chỉ cần nhớ đến quãng thời gian đó cô lại lắc đầu nguầy nguậy. Người đó luôn vặn vẹo về các bình luận ca khúc, thậm chí là từng câu chữ diễn đạt của cô. Anh ta thuộc típ người trong một ngày phải sửa được một chỗ theo đúng ý mình mới vừa lòng, cho dù nội dung trước và sau sửa không khác biệt là mấy. Jin Sol nghĩ anh ta cứ sửa theo thói quen vậy thôi. Mời các bạn mượn đọc sách Hòm Thư Số 110 của tác giả Yi Do Woo & Trần Hải Dương (dịch).