Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng

“Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là một tác phẩm văn học tiêu biểu của nhà văn nổi tiếng F. Scott Fitzgerald. Đây là cuốn sách mà tác giả gửi gắm cả cuộc đời của mình vào. Chắc hẳn chúng ta đều đã biết đến nhân vật trứ danh Gatsby, một nhân vật ám ảnh nhiều thế hệ bạn đọc trong tác phẩm kinh điển “Gatsby Vĩ Đại”. Bộ tiểu thuyết này được viết dưới ngòi bút của Fitzgerald. Cùng với Hemingway, Fitzgerald được xem là nhà văn tiêu biểu nhất của nước Mỹ nửa đầu thế kỷ XX. Ngoài “Gastby Vĩ Đại”, “Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là tác phẩm vững vàng nhất của nhà văn vào khoảng thời gian ông đã trưởng thành trong sự nghiệp văn học của mình. Cuốn sách nói nhiều đến vấn đề sự nghiệp và kế sinh nhai. Monroe Stahr không giống bất cứ nhân vật nào khác của Fitzgerald, đã bị lôi cuốn vào một nền kỹ nghệ mới mà chính tác giả là người đi đầu sáng lập. Cuốn sách được nhà văn viết vào lúc cuộc sống gặp nhiều khó khăn nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Bởi vậy, cuốn sách mang một tư tưởng sâu sắc, một ý nghĩa mà nhiều người cần phải suy ngẫm mới hiểu được. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn F. Scott Fitzgerald thường tự nhận mình là người con của “thời đại nhạc Jazz”. Cùng với người vợ xinh đẹp Zelda Sayre, ông sống một cuộc đời sôi động, tràn đầy tiệc tùng và luôn tiêu tiền như nước. Tuy vậy, trong một truyện ngắn, ông mở đầu: “Thế giới người giàu hoàn toàn khác biệt với bạn và tôi”. Và thế giới được coi là “khác biệt” với mình đó còn được ông miêu tả trong rất nhiều những tác phẩm như Đẹp và đáng nguyền rủa, Gasby vĩ đại. Cuộc sống chìm trong rượu và những đại tiệc xa xỉ của vợ chồng Fitzgerald đã thu hút sự hiếu kỳ của công chúng thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các sáng tác của ông khá đắt khách. Trong lá thư gửi cho một người bạn, nhà văn viết: “Một truyện ngắn có thể viết ngay đầu miệng chai nhưng với một cuốn tiểu thuyết, anh phải giữ cho đầu óc mình thật tỉnh táo và minh mẫn để có thể kiểm soát được tất cả các nhân vật như Ernest Hemingway đã làm được trong Giã từ vũ khí”. Tác phẩm: This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920) Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920) The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa/Đợi Của, 1922) Vegatable (Rau cỏ, 1923) The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925) Tender is the Night (Đêm dịu dàng/Cuộc Tình Bỏ Đi, 1934) Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng/Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng/Ông Hoàng Hollywood, 1941) The Crack-Up (Sụp đổ, 1945) Gatxbi Vĩ Đại Và Truyện Ngắn - Francis Scott Fitzgerald *** LỜI NGƯỜI DỊCH Fitzgerald là ai? Ông là người đã nhìn thấy rõ những nỗi vui buồn tế nhị nhất của con người, và đã biết dùng ngôn từ để mô tả những nỗi buồn vui đó một cách khéo léo, rõ ràng, tỉ mỉ nhất. Những hàng chữ ông đã viết ra, những cuốn truyện ông để lại cho nhân loại là “trầm tích” để con ngươi mãi mãi về sau này biết rằng những ngươi sống trước mình hàng chục năm, trăm năm, ngàn năm, triệu năm đã có những tình cảm như thế đấy. Cũng như Homer, Nguyễn Du, Shakespeare, Fitzgerald sẽ sống mãi với thời gian và không gian. Nhờ những đứa con đó mà nhân loại có thể tìm lại dấu vết của mình. Tìm lại dấu vết để có một sức sống liên tục, để suy tư về số kiếp và định mệnh của mình đồng thời toan tính một dự phóng cho tương lai. Nhà tài phiệt cuối cùng là cuốn truyện Fitzgerald đã gửi gấm cả cuộc đời mình trong đó. Ông đã viết nó vào lúc nghèo đói nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Những tư tưởng sâu sắc nhất, những tình cảm cuối cùng ông đã đặt trong cuốn truyện này để gửi lại cho hậu thế. Chúng ta đã đọc Đoạn trường tân thanh và đã khóc cho Nguyễn Du. Chúng ta hãy đọc thêm Nhà tài phiệt cuối cùng để khóc thêm cho Fitzgerald khốn khổ một giọt nước mắt. Như thế là công bằng, bởi vì những người đó đã chảy rất nhiều mồ hôi, nước mắt mới viết lên được các tác phẩm để lại cho chúng ta ngày nay. Trước khi vào chuyện xin quý độc giả lướt qua vài nét chính về cuộc đời của Fitzgerald. Scott Fitzgerald: cơn sốt của đời sống “Mẹ ơi, sau này con có tất cả mọi cái mà bây giờ con chưa có hay không?” Cậu Fitzgerald đã hỏi mẹ câu đó lúc cậu bốn tuổi, sau này cậu đã có tất cả và Fitzgerald cũng đã trả lại cho xã hội tất cả. Ông chính là tác già những cuốn “Gatsby Huy hoàng” “Đêm trường êm dịu” và trở thành nhà văn lớn của Mỹ quốc. Cuối cùng, ông đã vĩnh biệt cuộc sống trong cảnh thanh bần và quên lãng của thế nhân. Phải chăng cuộc đời thi nhân giống như ngôi sao lạ, ánh sáng huy hoàng của mình phát ra lại thiêu đốt chính cuộc đời của mình? Francis Scott Key Fitzgerald chào đời ngày 24-9-1896 tại thành phố Saint Paul thuộc tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Ông là con trai duy nhất trong gia đình. Trưức khi sinh ông, cha mẹ ông đã có hai con gái, nhưng cả hai đều chết vì bệnh đậu mùa. Sau này Fitzgerald kể lại: “Trước khi sinh tôi ba tháng thì hai chị tôi qua đời. Tôi có cảm tượng cuộc đời văn sĩ của tôi bắt đầu từ đó. Tôi không biết tại sao nhưng nhất định là như vậy”. Càng lớn lên cậu Fitzgerald càng tỏ ra là một học sinh xuất sắc, thông minh, ngoan ngoãn. Cận có rất đông bạn bè và được mời đi hết dạ hội này đến dạ hội khác. Các cô bạn gái thích ngồi nghe cậu kể chuyện hàng ngày không chán. Những kỷ niệm đó, Fitzgerald không bao giờ quên, và ông dã dùng để xây dựng nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của ông sau này. Năm 17 tuổi, Fitzgerald theo học ở đại học Princeton và bắt đầu viết bài cho những đặc san của nhà trường. Ông say mê viết suốt đêm và nhiều khi đến sáng lại liệng tất cả vào sọt rác. Trong lớp, Fitzgerald thường mơ mộng và nhiều khi cậu chỉ nghe loáng thoáng được câu sau này vị giáo sư văn chương hay nhắc lại nhiều lần: “Mọi việc đều tùy theo quan điểm của mỗi người. Thưa quý vị, vấn đề nào cũng có phương diện chủ quan của nó”. Túc cầu và binh nghiệp Càng ngày những bài của cậu viết trong đặc san của nhà trường càng được nhiều người chú ý, và chẳng bao lâu cậu trở thành một cây viết chính trong ban biên tập. Tuy nhiên ngoài công việc làm báo, còn một môn khác mà cậu cũng say mê không kém, đó là môn túc cầu. Không có buổi chiều nào Fitzgerald vắng mặt trên sân cỏ. Nhưng điểm đặc biệt nhất là chàng có cái nhìn thật quyền rũ, và một cách cư xử với bạn bè rất lịch thiệp, cởi mở. Sau khi tốt nghiệp ở đại học Princeton, Fitzgerald gia nhập quân đội với cấp bậc Chuẩn úy. Năm 1918, đơn vị của ông đóng ở tiểu bang Alabama, và tại đây lần đầu tiên Fitzgerald đã gặp Zelda, một thiếu nữ mà chàng cảm thấy tình yêu chân thành của mình và của nàng cùng hòa chung một nhịp với nhau. Hai ngươi có gương mặt giống nhau và nhiều người lầm tưởng họ là hai anh em ruột. Nhưng sự giống nhau giữa hai khuôn mặt chưa bằng sự giống nhau giữa hai tâm hồn của chàng và nàng. Chẳng bao lâu mối tình của cặp Fitzgerald - Zelda đã được cả thành phố biết, và mọi người đều ước mong cho họ mãi mãi được hưởng hạnh phúc. Những ngày lang thang ở Nữu ƯớcChiến tranh Âu châu kết liễu, Fitzgerald được giải ngũ, chàng liền lên đường đi Nữu Ước để tìm cư hội lập nghiệp. Trước đó chàng đã bàn chuyện hôn nhân với Zelda, nhưng nàng trả lơi: chỉ cưới nhau khi nào chàng kiếm được công ăn việc làm. Tới Nữu Ước, chàng ôm khư khư những bản thảo đi khắp nhật báo này đến nhật báo khác mà vẫn không kiếm được công việc gì. Cuối cùng chàng đành phải nhận làm công việc viết các tấm bảng quảng cáo trong một hãng quảng cáo với số lương 90 dollars một tháng. Chàng phải sống chui rúc trong một căn nhà ổ chuột hôi hám ghê gớm. Thơ, truyện ngắn, kịch của chàng đem đến các báo và nhà xuất bản, chẳng có chỗ nào thèm đăng hay in. Fitzgerald đã nhận được tất cả 225 lá thư của các nhật báo và nhà xuất bản trả lời từ chối không đăng hoặc in các tác phẩm của chàng. Chàng dán tất cả những lá thư đó lên vách và nằm suy nghĩ tìm hiểu lý do của sự thất bại. Cuối càng một an ủi nhỏ đã đến với Fitzgerald: chàng bán được một truyện ngắn cho tờ “Smart Set” với số tiến ba mươi dollars. Chàng liền khởi viết cuốn chuyện dài “This Side of Paradise”. Sau một năm trời cặm cụi sáng tác suốt ngày đêm, cuốn sách được hoàn thành và chàng tràn đầy hy vọng, hăng hái gởi tác phẩm đến nhà xuất bản Scribners. Một tháng sau đó, chàng nhận đirạc điện tín của nhà xuất bản báo tin bằng lòng in cuốn truyện nói trên. Ngày đó chàng sung sướng đến ngây ngất. Zelda đem đến cho chàng một chai rượu mừng chiến thắng và nàng nhận lời làm lễ cưới với chàng. Ngày 26 tháng 3 cuốn “This Side of Paradise” bắt đầu xuất hiện trong các tiệm sách. Ngày 3 tháng 4, lễ cưới giữa Fitzgerald và Zelda diễn ra tại nhà thờ Saint Patrick ở Nữu Ước. Từ trong nhà thờ bước ra, chàng thấy tương lai mở rộng trước mặt và say sưa trong men chiến thắng. Chàng đã được cả tình lẫn tiền: Zelda đi bên cạnh và cuốn “This Side of Paradise” đã được in lại lần thứ hai. Báo chí nói đến một Thiên tài bí mật xuãt hiện. Các nhà phê bình ví chàng với Byron và Kipling (là hai đại văn hào Anh quốc). Báo chí còn thần thánh hóa mối tình của chàng với Zelda, và cái tên Fitzgerald được mọi người nhắc nhở để tượng trưng cho tiền tài, danh vọng, tình yêu và tuổi trẻ. Sẵn tiền chàng thường cùng với bạn bè giắt đầy đô la trong túi đi nhậu nhẹt say sưa tối ngày sáng đêm. Có khi họ vào rạp hát và cười lớn trong khi cả rạp đang yên lặng, hay ngồi trên mui xe tắc xi đi dạo phố và nhiều hành động lố bịch khác nữa, nhưng dư luận đã dễ dàng tha thứ cho chàng. Ở nhà thì lúc nào cũng đầy những bạn bè, nào nhà văn, nhà thơ, kịch gia, tài tử, nhà báo... Ngày vui chẳng được bao lâuVới lối sống phung phí tiền bạc như thế, chẳng bao lâu Fitzgerald không còn được một đồng xu dính túi, Tháng 3-1922 cuốn “The Beautiful and Damned” xuất hiện với sự hoan nghênh của dư luận, nhưng tiền bản quyển chàng đã lấy trước và tiêu sạch cả. Chẳng những thế chàng còn nợ thêm nhà xuất bản một số tiền lớn nữa, và phải tiếp tục viết để trừ nợ dần. Chàng làm việc đến 12 tiếng một ngày và uống rượu liên miên, nhiều khi người ta thấy chàng say nằm ngủ ngay ở bãi cỏ trong công viên. Tình trạng ăn ngả thất thường và làm việc quá độ đó khiến ông mắc phải bệnh phổi, bệnh đau dạ dày và chứng mất ngả. Năm 1924 Fitzgerald và Zelda sang Âu châu. Ông thuê một biệt thự xinh xắn ở Côte D’Azur và tiếp tục viết tác phẩm “Gatsby huy hoàng”. Năm 1925 tác phẩm hoàn thành và xuất hiện một cách thành công rực rỡ đối với dư luận, nhưng về phương diện tài chánh không làm cho ông thỏa mãn. Sách bán được 25.000 cuốn, chỉ vừa đủ để trừ nợ những số tiền ông đã nhận trước của nhà xuất bản. Năm 1927 ông trở về Hollywood viết truyện phim nhưng sau đó ông lại bỏ sang Âu châu và sống lang thang ở Thụy Sĩ, một xứ mà ông nhận xét là “nhiều cái đã hoàn thành nhưng ít cái được bắt đầu”. Trong thời này Zelda bắt đầu bị đau thần kinh. Năm 1929 ông phải đưa vợ về Mỹ để lo chạy chữa. Zelda tiều tụy đến nỗi không còn đủ sức lượm một trái banh ten-nít. Fitzgerald không bao giữ thốt một lời than vãn và tận lụy săn sóc vợ. Đầu hàng định mệnhBệnh tình của Zelda càng ngày càng trở nên nặng và chẳng bao lâu trở thành điên thực sự. Fitzgerald, sống trong cảnh khốn cùng, ông viết truyện ngắn kiếm ăn lần hồi. Sức lực mỗi ngày một thêm kiệt quệ. Nhiều đêm trường ông thức trắng đêm để viết. Cũng có khi thức đến sáng mà không viết được chữ nào! Năm 1934 ông hoàn thành cuốn “Đêm trường êm dịu” nhưng số bán không được nhiều như ông mong mõi. Càng ngày ông càng uống rượu nhiều và bị ám ảnh bởi nợ nần, bệnh tật, ông viết một tiểu luận nhan đề là “Sự rạn vỡ” phán tách tình trạng của ông. Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 40 của ông, tờ New York Post có viết một bài mô tả ông như là một người khốn khổ đáng thương nhất trên đời. Ông đọc xong bài báo quá thất vọng ông toan tự tử bằng morphine nhưng được cứu thoát. Hãng MGM lại mời ông viết truyện phim, ông đi Hollywood và gặp nữ ký giả Sheilah Graham. Hai người trở nên bạn thân, ông tâm sự: “Nhà văn mà không viết được nữa thì phải trở thành điên dại”. Ngày 20-4-1940 sau khi cùng với Graham đi coi hát về, ông đang ngồi ở ghế nói chuyện về cuốn tiểu thuyết mới tên là “The last Tycoon” mà ông đã hoàn thành được một nửa. Bỗng nhiên như có một sức mạnh vô hình lôi kéo, đầu ông bật ngửa về phía sau và im lặng không nói nữa. Graham vội vàng lay gọi, nhưng Fitzgerald đã tắt thở. Ngoài trời, một vì sao sáng cũng vừa đổi ngôi trong lúc thiên tài rời bỏ cuộc sống. Tháng Ba năm 1948 nhằm ngày 11, nhà thương điên ở Highland phát hỏa. Zelda cùng chín bệnh nhân khác ở tầng chót bị chết cháy. Người ta an táng Bà cạnh mộ Fitzgerald ở Rockville. Đó chính là nơi an sống ngàn thu của hai tâm hồn giai nhân và thi sĩ vậy. Saigon ngày 30 tháng 3 năm 1974 Tuyết Sinh Mời các bạn đón đọc Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng của tác giả F. Scott Fitzgerald & Tuyết Sinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyện Làng Cuội
“ Cũng là lạ. Không biết nội bộ nó là gì mà phổ biến đến tận đứa trẻ con. Ngành nào, cấp nào làm gì cũng làm theo những chỉ thị, nghị quyết nội bộ chứ không làm theo luật pháp. Luật pháp cứ ra, cứ học, cứ thuộc ra rả như con vẹt mà làm gì, xử lý bất kể việc gì, kể cả tội giết người cũng cứ là từng làng, từng xóm, từng ngành, từng giới có cách giải quyết riêng theo những chỉ thị, nghị quyết nội bộ của người ta. ” Trích “Chuyện làng cuội”. Đó là một câu chuyện trải dài mấy chục năm, từ đời ông đến đời con, rồi đến đời cháu, suốt mấy thời kỳ, từ trước Cách mạng tháng tám, đến cải cách ruộng đất, rồi đến những năm đầu chuyển sang cơ chế thị trường. Với một cốt chuyện hấp dẫn, “Chuyện làng cuội” đã tái hiện chân thực về cuộc sống con người và vùng quê sông Hồng trong sự chuyển mình của làng quê, của Đất nước trong thời kỳ đổi mới. *** Nào ai ngờ cái chết của bà Hiêu Đất lại tạo cho làng Cuội ta một khí thế tưng bừng sôi nổi, rất là tự hào. Sau hàng tháng trời lơ lửng trong nỗi buồn ngơ ngác “được phân phối hụt” do huyện chỉ đạo tháo đê quai, cái xác trôi lênh phênh của bà Đất dạt về bến Chợ Quán như nắp thùng tô-nô đựng đầy ám khí được bung ra. Tiết trời mấy ngày nay cũng quang quẻ hẳn. Xa xôi quá thì ít người am tường, chỉ tính năm sáu chục năm đổ lại đây, kể từ năm Quý Dậu, năm cuối cùng của hội thi nói khoác ở miếu Ông Cuội cũng là năm cô Đất bỏ làng đi biệt tăm, đến bây giờ làng mới lại có một vẻ mặt đồng loạt buồn. Nhưng mà sôi động. Khi nào làng có chung một khuôn mặt buồn đều ào ào náo nhiệt và thì thào còn chán. Thế lại hoá vui. “Tuổi Mão đi năm Mùi là đúng cách. “Hợi Mão Mùi”, “Nam xung nữ hợp”, nhất định bà lão phải “đi” vào năm nay. Ông đã biết từ lâu rồi. Nhưng bà lão này thiêng lắm. Không à? Ông dám chắc bà ấy mà dạt về đúng quê, nhất định làng Cuội có sự. Đại sự”. Ông thống Bứt vừa liêu xiêu đi ra phía bờ sông vừa quát lác. Không cần có ai, hoặc giả trong cơn say ông đã nhìn thấy một thằng người cứ theo ông, ông bước bước nào nó bước bước nấy, nên ông cứ tự hỏi rồi tự giả nhời như thế. Hôm nay ông phải làm một việc hệ trọng. Bắc cầu cho mẹ đồng chí Lưu Minh Hiếu phó chủ tịch tỉnh lên bờ. Khổ thân bà lão. Suốt đời long đong tủi nhục, được lúc con cái ăn nên làm ra, đi Tây đi Tàu như đi chợ lại lăn xuống sông mà chết. Cũng là số trời run rủi. Đồng chí Hiếu là hiếu nghĩa với bố mẹ, đời nào để bà lão chết nhục nhã đến nỗi thế này. Xác bà lão được vớt lên từ trưa hôm qua. Một cái xác trương phềnh. Cả mặt và hai cánh tay xước tướp táp, không hiểu do cá rỉa hay mắc mớ vào đâu mà không còn một mảng da nào nguyên. Trưa hôm qua, chiếc tàu chở khách từ Hà Nội xuôi, sóng rào rạt xô vào bờ một người mặc quần đen, áo nái vàng, tóc xoã như là ma nhoài lên nằm nghiêng ở bờ cát một tay dang ra như là cố bám lấy cát để khỏi trụt xuống. Các cô bé đang đập chiếu tàm tạp trông thấy thế, kêu lên thất thanh, chạy lao lên ngã dúi dụi vào quán bà Cu Từ. Tiếp theo là ông Cu Mỡ, em ruột ông Cu Từ, vác một manh chiếu xuống bờ sông đắp lên cái xác cũng với câu: “Đ. mẹ nó, điềm này, làng Cuội lại ăn cứt”. Rồi đám người gỡ dây khoai, những người gieo ngô, đám đốt lò vôi, dân thợ xẻ, lò rèn bỏ hết đồ nghề, giống má, chạy túa lại quán bà Cu Từ và ông Cu Mỡ đứng nhìn xuống sông và nghe các cô gái thuật lại “đầu đuôi”. Mấy anh thợ “phơ” đóng gạch, cầm kéo cắt đất táo tợn chạy đến hất chiếu ra, lấy tay kéo lật ngược mặt bà lão lên nhìn: “Đếch phải người làng này”. “Chắc lại oan khuất gì, tự vẫn đây”. “Có khi bị trấn, lấy của rồi nó cho xuôi”. Khách qua đò ùn tắc lại. Trẻ con tan học hổn hển chạy đến rào rào như gió. Chả mấy chốc bến đò Chợ Quán nghìn nghịt như một cái chấm đen khổng lồ tụ giữa cánh đồng làng Cuội bát ngát phù sa. Quán nhà bà Cu Từ, ông Cu Mỡ nứt nở kẻ đứng người ngồi. Cho đến 10 giờ đêm các đồng chí Đảng uỷ, uỷ ban, hợp tác xã, công an, bàn bạc trong quán bà Cu Từ hết 37 bìa đậu phụ, một bình lạc rang, gọi tròn năm chục chén, mười ba cút rượu, tám gói thuốc lào hội nghị mới ra được một quyết định: lập biên bản báo cáo lên huyện chờ xin ý kiến. Cần nghiên cứu thêm ý kiến của trưởng ban thông tin văn hoá: có thể đưa lên “quảng cáo” trên ti vi. Độ này người ta quảng cáo tất tần tật, không thiếu thứ gì. Dễ lắm. Thân nhân của họ về nhận sẽ phải tính công vớt từ giữa sông lên rồi công của mấy chục con người canh giữ suốt 24 trên 24 không để thi hài thất thoát. Biết đâu lại chả trúng quả đậm. “Có gì ta làm bữa thả phanh cho bõ công đêm hôm lăn lội, ngồi suông”. Mặt khác, ngày mai, uỷ ban thảo một công văn lên phòng thương binh xã hội xin duyệt một cỗ ván. Việc này có trở ngại là: muốn được duyệt nhanh chóng thì phải có dăm bao ba số, thậm chí còn phải kéo ra cửa hàng lòng lợn, hoặc “cầy tơ”. Kinh phí lấy vào khoản nào? Vậy, tất cả cứ chờ ý kiến của huyện và chờ đồng chí chủ tịch đi thăm bố vợ ốm trên tỉnh, nội nhật ngày mai về. Tối mai ta hội ý lại rồi quyết định sau. Đằng nào bà ta cũng rữa ra rồi. Cho anh em bảo vệ hắt mấy xẻng đất xơ xơ cho đỡ bốc mùi, rồi thù lao cho anh em. Cũng chả cần trông nom gì. Ai họ lấy đi cho là phúc. Đúng là cái vạ cho xã ta. Đồng chí Nạc – anh đã đổi cái phụ âm đầu nhưng chỉ có cấp trên gọi anh là Lạc còn bà con trong xã vẫn gọi anh là Nạc. Ở vùng này thường lấy tên con đệm trước tên bố mẹ hoặc đẻ con trai đầu gọi là cu, con gái là đĩ. Anh Cu Từ, cụ Cu Từ, ông Cu Mỡ là thế. Bà Hiêu Đất cũng vì con là Hiếu (họ bỏ dấu sắc đi để gọi cho tiện chứ không hẳn là tin theo kẻ xấu bụng, đổi họ và tên anh từ Lưu Minh Hiếu thành Lưu Manh Hiêu). Đồng chí Nạc cầm quyển sổ có treo bút chì bằng dây gai, ghi các khoản nợ của tối hôm nay. Bà Cu Từ hấp háy đưa ra trước ánh đèn soát lại. Trên mặt chõng cũng nhẵn hoén không còn sót lấy một viên lạc, gói thuốc. Bà yên trí “xin phép các cụ” “cứ tự nhiên” để bà ngả cái nong xuống nằm khoanh tròn trong ấy. Bí thư Đảng uỷ ngồi chồm hỗm trên những đoạn tre đóng vào hai đầu cọc hàng giờ không biết tê, lúc anh thả hai chân xuống, phủi đít quần đứng dậy thì Nạc lại có một sáng kiến mới. Nghiêng tai nghe tiếng ngáy rất dư dật của bà bác dâu, anh vươn người về phía bí thư nói nhỏ nhưng mọi người đều nghe. Anh nói rằng tình hình này sự đồn đại thất thiệt sẽ còn lan đi ghê lắm. Nhưng có lợi cho ta. Ai cũng bịa tạc những tin giật gân, bí hiểm nên người tò mò kéo đến đây xem càng đông. Nhất là cho lên ti vi thì sẽ không biết cơ man nào là người từ các thành phố kéo về đây. Thành phố bây giờ họ có làm gì đâu. Một người ngã xe máy còn xúm đông xúm đỏ lại xem, huống hồ nghe tin có ma hiện lên ở bờ sông làng Cuội. Bí thư cắt ngang. - Lạy bố. Thế thì rách việc lắm. Mà hơi sức đâu lại đi tìm hiểu để báo cáo nguyên nhân từ đâu có cái tin ấy. Rồi còn phải giải quyết tư tưởng cho bà con. Chết, chết! - Thiên hạ họ đồn mắc mớ gì đến mình. Biên bản mình sẽ gửi đi. Pháp y họ về, họ làm gì kệ xác họ. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Anh không hiểu ý tôi. Tôi hỏi các anh: Các anh có công nhận là mới từ trưa đến giờ đã bao nhiêu người bổ về đây xem thực hư? Đấy là chưa kể bao nhiêu người ở bên kia không có đò sang. - Đúng rồi – Gần như mọi người cùng trả lời. - Tôi quả quyết ngày mai còn đông hơn. - Nhất trí! - Trời nắng này, người như nêm ấy, có cần uống nước, hút thuốc không? - Có quá chứ lị. Mời các bạn đón đọc Chuyện Làng Cuội của tác giả Lê Lựu.
Tỳ Vết Tâm Linh
Vào khoảng đầu thập niên 70, Nguyễn Nam Anh của tạp chí Văn ở Sài Gòn có hỏi Bình-nguyên Lộc trong một cuộc phỏng vấn về tác phẩm ưng ý nhất của ông, Bình-nguyên Lộc cho biết, trong tất cả những gì đã viết, ông thích nhất ba cuốn : Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình-nguyên Lộc, Cuống rún chưa lìa và Tỳ vết tâm linh. „Tại chủ quan tôi thấy nó hay. Nhưng người khác chưa chắc đã thấy như tôi. Tỳ vết tâm linh là cuốn truyện dày về một thiếu nữ bị bệnh tâm trí. Cùng một chủ đề tâm trí, ông còn nhiều truyện ngắn. Cái cảm tình „chủ quan“ của ông đối với cuốn truyện dày kia có chỗ thương tâm.             Chúng ta chắc chắn là chưa kiểm điểm dược mọi nỗi niềm tâm sự của Bình-nguyên Lộc : đời có ai thấu hết được lòng ai. Tưởng không nên tham lam quá. *** Ra khỏi trại bịnh hơn mười phút đồng hồ rồi mà Lưu còn nghe choáng váng bàng hoàng.  Chàng vừa trải qua những phút chấn động tâm thần mãnh liệt, nó suýt dìm chàng vào cõi bất thức giác y như người em gái của chàng, con bịnh mà chàng vừa thăm.  Ba tháng trước, ngày Bích lên cơn điên, chàng ở trên Đà Lạt. Cha mẹ chàng đã đưa Bích vào nhà thương Chợ Quán rồi đánh điện cho chàng hay tin.  Chàng đã thăm Bích hai lần, khi về Sàigòn, lúc ấy thì Bích đập phá, la hét rầm trời nhưng chàng không hề bối rối hay hoảng sợ chút nào. Chàng đã nghe sách vở và bạn hữu của chàng, những người bạn nghiên cứu chuyên khoa về khoa tâm bịnh, nói rằng những con bịnh làm ồn và phá phách, coi vậy mà rất mau khỏi.  Vả lại, lúc ấy Bích còn tươi tốt hồng hào lắm, hồng hào quá, và rất hung hăng, trông Bích như một con ác thú, như một người say rượu, không gợi tình thương xót bao nhiêu.  Rồi thì Bích được đưa lên đây, lên dưỡng trí viện nầy mà tục thường gọi là nhà thương điên Biên Hòa.  Đường xa, chàng bận học, cha mẹ chàng, nhứt là mẹ chàng, cứ giành đi thăm Bích mãi nên chàng không thấy mặt Bích đã hơn mười tuần lễ rồi.  Cứ theo lời mẹ chàng thì Bích đã đỡ nhiều, không la, không cười vô cớ nữa, cũng không đánh đập, cào cấu cắn xé ai nữa. Nhưng chàng ngờ 1ắm. Người ta đưa Bích lên Biên Hòa, sự kiện ấy chứng tỏ một tình trạng ngược lại mà bà cụ không dè.  Chàng thì chàng biết, cũng cứ qua sách vở và lời của bạn hữu. Nhưng chàng chỉ biết vậy... vậy thôi, cho đến cái giây phút đầu mà chàng thấy mặt đứa em gái thân yêu của chàng ở lần thăm đầu, hôm tuần trước.  Lưu trông Bích không khác ngày thường bao nhiêu. Nàng giống một thiếu nữ vừa qua một cơn ốm nặng, cảm cúm, hay sốt rét rừng gì đó, nước da xanh mét, thân thể tiều tụy. Chỉ có thế thôi. Mà với sinh lực hai mươi, sự suy đồi của cơ thể của Bích không đáng ngại, hễ ăn ngon ngủ kỹ vài hôm, hoặc tiêm độ năm bảy mũi thuốc nước cốt gan là lại sức ngay. Nhưng mà …  Bích chỉ còn là một con hình nộm không hồn mà thôi. Đôi mắt lờ đờ, mất thần của nàng trước người anh ruột của nàng, nhìn chàng trân trân mà không thấy, đôi môi cứ mấp máy, lẩm bẩm những gì không nghe được, bốn ngón tay cứ xe mãi một sợi chỉ vô hình rất dài, tất cả những thứ ấy làm cho chàng thấy em gái của chàng xa chàng vạn dặm.  Chàng đã mất Bích rồi, mất hẳn, không sao tìm lại được, vì chàng lo rằng Bích đã bước qua cái giai đoạn khó khăn nhứt trong các chứng bịnh tâm trí, giai đoạn mà bản ngã của con người co rút lại để không bao giờ mở ra được nữa cả.  Lưu đã khóc, đó là những giọt lệ đầu tiên của người con trai nầy, kể từ khi hắn rời bỏ tuổi thơ ấu.  Thật ra thì chàng đã khóc ngày chàng vừa được điện tín của cha mẹ chàng đánh lên Đà Lạt. Chàng biết em chàng đau khổ từ ngày vị hôn phu của nó bỏ rơi nó để cưới con gái một triệu phú.  Cái anh vị hôn phu ấy là bạn của chàng, hắn tới lui nhà chàng thường lắm nên hai đứa nó yêu nhau, và Bích mới yêu vỡ lòng nên yêu nhiều lắm.  Chàng đã khóc hôm ấy, nhưng rồi chàng buồn cười cho chàng lắm, bật cười ra và hết buồn ngay. Chàng cứ ngỡ Bích nó trẻ con nên đau tương tư bậy bạ vậy thôi rồi vài ngày nó sẽ nguôi.  Lần thăm trước thì chàng khóc nghẹn ngào. Và lần nầy nữa, vì đây là lần thứ nhì mà chàng đi thăm Bích. Không dám đứng lâu nơi cửa phòng bịnh để nhìn mãi cái cảnh đau lòng mà chàng hoàn toàn bất lực cứu vãn, Lưu bước ra ngoài, đi thơ thẩn trên con đường viền cỏ vú sữa, bần thần như là chính mình đang đau ốm.  Khi chàng lần bước ra tới ngã ba mà con đường nhỏ nầy gặp con đường lớn, con đường chánh của nhà thương, thì chàng thoáng thấy hai người đi thăm bịnh cũng vừa bước tới đó.  Hôm nay là một ngày thường, tức ngày làm việc, nên người thăm bịnh thưa thớt lắm.    Mời các bạn đón đọc Tỳ Vết Tâm Linh của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Nửa Đêm Trảng Sụp
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1914 (giấy tờ ghi  1915) tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai); mất ngày 7/3/1987 tại Rancho Cordova, Sacramento, California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên, cha là Tô Phương Sâm làm nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy đồ, tiểu học ở trường làng; trung học (1928-1934) Pétrus Ký, Sài Gòn. Rời trường không bằng cấp. 1934, kết hôn với cô Dương Thị Thiệt, 1935, vào làm công chức ở kho bạc Thủ Dầu Một. 1936, đổi về Sài Gòn làm kế toán viên ở Tổng Nha Ngân Khố. Tháng tám 1945, bỏ việc, tham gia kháng chiến. 1946, hồi cư về Lái Thiêu và 1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn làm báo. Bình Nguyên Lộc bắt đầu viết từ 1942, cộng tác với tạp chí Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, nhưng đến 1946, mới thực sự bước vào nghề văn, nghề báo. 1950, in tập truyện ngắn Nhốt gió. 1958, chủ trương tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. 1985, di cư sang Hoa Kỳ, hai năm sau ông mất. Bình Nguyên Lộc đã viết hàng trăm tác phẩm, nhưng bản thảo bị thất lạc cũng nhiều, phần in trên các báo, chưa xuất bản thành sách cũng lớn. *** Làm xong bài toán hình học không gian, Nhan ngáp dài. Nàng xem lại đồng hồ tay thì thấy đã mười giờ bốn mươi rồi. Cô nữ sinh đệ tứ ấy xếp giấy má sách vở lại, đứng lên toan tắt ngọn đèn tọa đăng rồi đi ngủ, nhưng còn chần chờ đứng lại trước bàn để lắng nghe tiếng mưa đêm xào xạc ngoài vườn, và tiếng gió hú đằng xa, nơi cánh đồng vắng sau nhà. Sanh hứng, cô ngâm lên bài ca dao hay bài thơ của ai, cô không còn nhớ nữa:  Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu  Con trời lấy chú chăn trâu cũng kỳ  Một là duyên,  Hai là nợ …  Bỗng tiếng mở cửa buồng bên trái làm Nhan giựt mình. Nàng day lại thì thấy ông Tám Huỳnh, cha của nàng, hiện ra nơi khung cửa buồng ấy, trong ánh mờ của cây đèn dầu bàn học của nàng.  Tám Huỳnh mặc áo mưa, đi giày ống bằng cao su và tay cầm một chiếc nón lá cũ.  Hai cha con lặng lẽ nhìn nhau rồi Tám Huỳnh như sợ con, trốn mắt nó và ngó xuống gạch.  - Ba ! Trời mưa mà ba đi đâu vậy ba ?  Tám Huỳnh ú ớ không nói được, lâu lắm ông mới thốt ra vài tiếng, nhẹ như hơi gió thoảng, Nhan cố lắng tai mới nghe:  - Ba đi, con ở nhà vài bữa với bà Tư.  Nhan châu mày rồi hỏi:  - Có phải ba đi việc đó không ba ?  Tám Huỳnh đưa ngón tay trỏ lên trước miệng ra hiệu bảo con chớ có to tiếng rồi đáp:  - Ừ …  - Con sợ quá ba à ! Nhan nói mà giọng nàng run run.  - Không sao, con cứ an lòng.  - Con không muốn ba đi nữa …  - Ba đã hứa nghe lời khuyên can của con, nhưng còn phải chờ dịp như ba đã cắt nghĩa, mà dịp ấy chưa đến.  Nhan nghẹn ngào, cố nuốt nước mắt, nàng cắn môi dưới lại để khỏi khóc ra tiếng. Ông Tám Huỳnh bước tới và đứng gần con. Ông xẳng giọng, nghiêm mặt lại mà rằng:  - Con biết tánh ba hay tin dị đoan. Người trong nghề, ai cũng thế. Con đừng làm cho ba sợ, con nghe chưa ?  Nhan sợ hãi, lấm lét, liếc lên nhìn trộm cha. Ông Tám Huỳnh ngày thường trông cũng hiền từ, nhưng hễ ông nổi giận thì gương mặt ông hung tợn lạ kỳ, khiến cho người con gái độc nhứt và được thương mến hết sức của ông cũng phải kinh hoảng, không dám hó hé.  Thương con quá, ông Tám dịu mặt và dịu gọng lại rồi nhỏ nhẹ nói:  - Con ở nhà đừng thức khuya, hôm nào mưa thì đừng đi học, kẻo mắc mưa sanh bịnh. Đây, ba cho con tiền chợ và tiền bánh hàng.  Ông Tám vừa nói vừa móc trong túi ra một ghim giấy bạc một trăm, đặt lên bàn học của con và dặn thêm:  - Ai có hỏi, nói ba đi Sài Gòn uống thuốc.  Nhan nhìn xấp giấy bạc rồi nức nở thêm:  - Nín, kẻo bà Tư hay ! Ông Tám lại xẳng giọng.  Nhưng Nhan không còn sợ nữa, nàng nói:  - Con... thương …ba !  - Cố nhiên, ba lại không biết hay sao. Nhưng chính vì ba cũng thương con nên...  - Con đi buôn gánh bán bưng nuôi ba được.  - Đã lỡ rồi con à, đặt lại vấn đề làm gì. Ba có muốn theo nghề nầy đâu, nhưng hoàn cảnh đã đưa đẩy ba tới đó, rồi ba không thoát được nữa. Nhưng ba sẽ cố gắng làm vừa lòng con. Con nên nén lòng đợi một thời gian. Thôi, ba đi con nhé ! Nhớ đóng cửa cẩn thận.  Tám Huỳnh lặng lẽ bước tới mở hé cửa rồi lách mình ra ngoài. Nhan cũng vội bước theo cha, rồi nhìn vào bóng tối. Chớp nhoáng lên và nàng trông thấy bóng dáng dình dàng của cha nàng dưới chiếc nón lá và chiếc áo tơi, bước mau trong mưa gió: ông Tám quẹo ra sau nhà để tiến vào rừng sâu.  Bóng đêm lại tràn ngập không gian, khiến Nhan kinh sợ, vội đóng cửa lại và cài then cẩn thận. Đoạn nàng tắt đèn và đánh diêm lên soi đường để đi vào buồng nàng ở phía hữu.  Ông Tám Huỳnh góa vợ từ lâu, nhưng ông ở vậy để nuôi con. Nhà chỉ có ba người: ông Nhan và bà Tư, một người dì họ của ông. Bà nầy ngủ ớ nhà sau, vì thế mà ông ra đi bằng cửa trước cho khỏi bị một người như bà bắt chợt bí mật của ông.  Bí mật ấy, cách đây một tháng, do một sự tình cờ; Nhan đã khám phá được, sau nhiều năm nghi hoặc. Nàng đã khóc thầm nhiều ngày, rồi rốt cuộc quyết định cật vấn cha.  Thấy không thể chối cãi được, ông Tám đành thú nhận với con rằng ông buôn lậu, hơn thế ông chỉ huy một toán tải hàng lậu từ biên giới Việt-Miên đến một khu rừng gần chợ Trà Võ để giao lại cho đoàn khác đưa về Sài Gòn bằng xe hơi.  Nhan đã khuyên dứt cha, nhưng ông Tám bảo không khá lắm, phải đợi tìm dịp để xoay nghề mới, mới buông nghề cũ được, và nhứt là phải tìm chỗ ở mới cho thật xa, vì hễ cải tà qui chánh thì phải trốn bọn đồng đảng cũ, chúng sợ bị tố cáo, dám thủ tiêu ông lắm.  Chỉ có một đứa con, mà là con mất mẹ, ông Tám cưng Nhan vô cùng, vì thế nên nàng tríu mến cha y như là tríu mến mẹ. Nên chi nàng đã âm thầm đau khổ nhiều sau cuộc khám phá đó, phần lo sợ cho an ninh của cha, phần ngại cho danh dự của gia đình vì ông Tám Huỳnh đă được thiên hạ kính nể bởi nếp sống ra mặt của ông, không có vết nhơ và không ai biết đời sống thứ nhì bí ẩn của ông hết.  Nhan đi nằm nhưng trằn trọc mãi không sao nhắm mắt được. Nàng lắng tai nghe mưa gió và hình dung ra người cha già đang lướt đi dưới phong vũ, trong bóng đêm, có thể lâm nguy bất cứ vào lúc nào.  Nàng xấu hổ mà nghĩ rằng tiền nàng ăn xài từ thuở giờ do một nguồn lợi bất chính mà ra, và thầm trách cha đã làm xằng. Tuy nhiên đêm nay, như bao đêm rồi, rốt cuộc Nhan vẫn tha thứ cho cha vì có bằng cớ hiển nhiên là ông Tám đã không muốn thế và chỉ bị hoàn cảnh đẩy đưa vào đó thôi. Mời các bạn đón đọc Nửa Đêm Trảng Sụp của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Lữ Đoàn Mông Đen
Mông là bộ phận cao quý trên con người ta. Vội quá không gọi điện được cho bác Nguyễn Việt Hà xin cái định nghĩa về mông trong từ điển tiếng Việt và 103 câu trích dẫn có liên quan đến mông, phí quá :d Đây rồi, cũng tìm được hầu các bác một bộ mông tuyệt vời, không những thế lại là mông đen nữa, quá oách, mà lại được viết ra từ ngòi bút một trong hai nhà văn được coi là miền Nam nhất của miền Nam từ sau 1945: Bình Nguyên Lộc (người kia là Sơn Nam, dĩ nhiên), tức tác giả cuốn truyện lừng danh Đò dọc tới gần đây vẫn tái bản nhiều lần, Lột trần Việt ngữ và vô số tác phẩm văn xuôi. Lữ đoàn mông đen Bình Nguyên Lộc viết đăng phơi-ơ-tông từ 1966 trên Tin Sớm, bản sách này là bản 1972 của Mây hồng, đề rõ "tiểu thuyết tình cảm xã hội". Chị So trí nhớ tốt nhắc hộ em các vụ việc liên quan đến mông từng bùng nổ trên blog của em cái, giờ em chỉ nhớ được mỗi vụ cái gì mà "Ngoài phố mùa đông đôi m. em là đốm lửa hồng" :d Khinh rẻ các bộ phận trên cơ thể là một trọng tội về luân lý hahaha. "Lữ đoàn mông đen" là phiên từ "Brigade mondaine", các bác tự tìm hiểu nhé, trong truyện có pha tán tỉnh hơi bị mỹ mãn, hay hơn phim Hollywood nhiều. Còn quyền Ý thức bùng vỡ là quà chờ sẵn dành để tặng em Z. Em có thích hông? Lười chụp ảnh nên cóp tạm trên Internet, nhưng em yên tâm là quyển em sẽ có còn đẹp hơn quyển này :) Trong thế giới sách cũ Việt Nam Ý thức bùng vỡ được xếp vào loại kịch độc, như người ta nói là dùng để giết chuột được khỏi phải đi thăm anh Hoàng Tiến. *** Bình Nguyên Lộc sinh tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông xuất thân trong một gia đình trung lưu đã có mười đời sống tại Tân Uyên.[2] Cha là ông Tô Phương Sâm (1878-1971) làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (hay Mẹo) (1876-1972). Theo giấy khai sinh, Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1915. Tuy nhiên, trên thực tế có thể ông sinh ít nhất một năm trước ngày ghi trong giấy khai sinh, nghĩa là năm 1914, nhưng không rõ có đúng là ngày 7 tháng 3 hay không. Nhà ông chỉ cách bờ sông Đồng Nai hơn một trăm mét và con sông in đậm dấu ấn trong một số tác phẩm của ông sau này như truyện ngắn Đồng đội (trong Ký thác), hồi ký Sông vẫn đợi chờ (viết và đăng báo ở California, Mỹ)...[3] Từ năm 1919 đến 1920, ông theo học chữ nho với một ông đồ trong làng. Sau đó Bình Nguyên Lộc học trường tiểu học ở Tân Uyên vào những năm 1921-1927. Năm 1928 ông ở nhà luyện tiếng Pháp để thi vào trung học Pétrus Ký ở Sài Gòn. Từ 1929 đến 1933, ông học trung học ở trường Pétrus Ký và lấy bằng Thành chung (Diplôme d´Études Primaires Supérieures, tú tài phần thứ nhất) năm 1933[3]. Tuy nhiên, có tài liệu nói ông đậu bằng Thành chung trong niên khóa 1933-1934 và thôi học do kinh tế khủng hoảng. Cũng có tài liệu nói ông không học xong trung học và nghỉ học năm 1935.[2] Năm 1934, Bình Nguyên Lộc về quê lập gia đình với cô Dương Thị Thiệt. Sau đó ông thi vào ngạch thư ký hành chính nhưng vì kinh tế khủng hoảng, hơn một năm sau ông mới được tuyển dụng. Ban đầu, ông làm công chức tại kho bạc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1936, ông đổi về làm nhân viên kế toán ở kho bạc Sài Gòn (sau đổi tên thành Tổng nha ngân khố Sài Gòn). Ông bắt đầu viết văn trong thời gian này. Truyện ngắn đầu tay của ông có tên Phù sa, viết về công cuộc Nam tiến của người Việt vào miền đất mới Nam Kì, đăng trên tạp chí Thanh niên của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Ông kết bạn với những tác giả khác viết cho báo Thanh niên như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Hoàng Tư, Lâm Thao Huỳnh Văn Phương, Dương Tử Giang,.. Vào khoảng năm 1943, ông hoàn tất tác phẩm Hương gió Đồng Nai (khởi thảo từ năm 1935), tập truyện ngắn và tùy bút về hương đồng cỏ nội đất Đồng Nai. Tác phẩm được Xuân Diệu, Huy Cận và vài nhà văn khác tán thưởng, nhưng sau đó bị thất lạc trong chiến tranh. Năm 1944, Bình Nguyên Lộc bị bệnh thần kinh nên xin nghỉ dài hạn không lương, và từ đó về sau không trở lại với nghề công chức nữa. Năm 1945, ông tản cư về quê, nhưng cuối năm 1946 ông hồi cư trở lại quận Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một. Trong thời gian này, Bình Nguyên Lộc có tham gia công tác kháng chiến tại miền Đông Nam Bộ và là thành viên của Hội Văn hoá cứu quốc tỉnh Biên Hòa. Vào những năm 1944-1947, do bệnh cũ tái phát gây khủng hoảng tinh thần nên Bình Nguyên Lộc không viết tác phẩm nào. *** Định không biết nhảy, nhưng cứ vào những nơi nầy mỗi đêm, sợ người ta sinh nghi, nên chàng cố bươi trí để làm cho sự có mặt của chàng được ổn. 1  Dân chơi thì họ bất kể chàng, chàng chỉ lo bị nhơn viên của các hộp đêm nầy ngạc nhiên, tìm biết rồi có thể sẽ biết. Các em ca-ve, người tài-pán, các bồi bàn, toàn là những kẻ điểm mặt từng khách một để ghi họ vào sổ hồng, nếu họ sộp, vào sổ đen, nếu họ keo kiệt.  Mà không phải chỉ điểm mặt mà thôi đấy nhé. Họ sẽ truy tầm căn cước, nghề nghiệp chàng, thì nguy to.  Nguy to là vì cái nghề tạm bợ mà chàng quơ đại để ăn cơm, cái nghề ấy, họ mà biết thì chàng không còn làm được nữa, tức là bể chén cơm, chớ không phải sợ ai ám sát đâu.  Chẳng là chàng đang thất nghiệp, tới xin tiền một thằng bạn, ngỡ sẽ bị nó hất hủi chàng, không dè nó lại mừng rỡ reo to lên:  - Cứu tinh đã đến !  Rồi nó lại hỏi thêm:  - Mầy có cần tiền không ?  Có mỉa mai chưa ? Chàng tưởng nó giễu chàng, nên chàng nín lặng hồi lâu vì căm tức rồi mới nhẫn nại đáp:  - Ơ... hơ... cũng hơi cần.  - Mầy có thích chỗ làm lương cao chăng ?  - Tao chỉ mong có bấy nhiêu đó thôi.  - Vậy mai đi làm, nói đúng ra là tối mai. Tối nay, tao sẽ tiến dẫn mầy với "ổng" là xong.  - Nhưng làm cái quái gì mới được chớ ?  Câu chuyện nầy xảy ra lúc ông Diệm đang cầm quyền.  - Nè, thằng ấy nói, phải giữ mồm giữ miệng đa nhé. Hiện ông Mật vụ trưởng vừa lập một cơ sở lấy tên là "Lữ đoàn mông đen" và cần vài nhơn viên lỗi lạc cho Lữ đoàn, mỗi nhơn viên được xem như là ông xếp của một khu riêng biệt.  Mầy có vó sang trọng, tức là mầy khá mông đen, thì mầy được lắm. Ổng nhờ tao tìm người đáng tin cậy, có khả năng, tao cũng chẳng biết ai, nên đang bể óc đây thì mầy tới, may quá !  - Nhưng Lữ đoàn ấy sẽ đánh giặc với ai ? - Định hỏi.  - Không có đánh giặc, đánh giả gì hết ráo. Đó là dịch ở danh từ "Brigade mondaine" ra. Lữ đoàn mông đen chỉ cần len lỏi vào các giới ăn chơi để theo dõi những công chức, những nhơn vật tăm tiếng mà ăn chơi quá khả năng tài chánh của họ để mà báo cáo lên thượng cấp, rồi thượng cấp làm gì họ, mình cũng chẳng cần biết. Dễ ăn lắm mà.  Mới nghe qua thì quá dễ ăn thật đó, nên chi Định nhận lời lập tức, lòng phấn khởi vô cùng.  Nhưng đêm nay, đêm đầu làm việc, vào vũ trường Eldorado, chàng mới thấy là khó ăn.  Chàng có vó sang trọng thật đó, nhưng lại không sang trọng tí nào, vì chàng là học trò mới ra trường vừa tìm được một chỗ làm thì vài tháng sau đã bị đuổi, vì cự với ông chủ hãng, thế thì lấy tiền đâu mà chàng ăn chơi để sang trọng ? Như vậy, mặt mũi của những ông bự mà chàng có phận sự theo dõi, chàng không biết ra sao cả, chàng như thằng mù thì còn làm ăn gì được.    Mời các bạn đón đọc Lữ Đoàn Mông Đen của tác giả Bình Nguyên Lộc.