Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngụ Ngôn Thời Hiện Đại - Cẩm Nang Xử Thế - Sue Gallehugh & Allen Gallehugh
Yêu thương bản thân là nền tảng thúc đẩy sự trưởng thành của cá nhân và xã hội. Đây không phải là sự yêu mình thái quá mà là tự nhận thức được bản thân, khả năng và những gì mình có được. Người yêu thương bản thân luôn cảm thấy dễ chịu, thoải mái với lòng tự tin, có trách nhiệm đối với những hành động của mình. Yêu thương bản thân bao gồm việc xem xét lại những ý tưởng tiêu cực để nhận thức rõ về mình, từ đó có thể chọn những giải pháp tích cực và cách hành xử thích hợp. Chúng ta thường dễ dàng học tập qua chuyện ngụ ngôn, vì chúng đơn giản, tự nhiên và gây ấn tượng dễ ghi nhớ. Nụ cười giúp ta thư giãn và giảm bớt những lời tự biện hộ để có thể lắng nghe và thấu hiểu. Những nhân vật trong sách truyện này rất đáng yêu và khôi hài chứng minh được những nguyên tắc cơ bản về lòng yêu thương bản thân và sự trưởng thành. Hãy thực hiện từng bước một để tiến đến mục đích và hãy để những người lạc quan, biết yêu thương vây quanh, khích lệ mình. Cuốn sách tập hợp những câu chuyện được viết lại qua phong cách ngụ ngôn thời hiện đại, được ví như “cẩm nang xử thế” gối đầu giường dành cho tất cả chúng ta. Giờ đây bạn hãy đọc-suy ngẫm để học cách yêu thương người khác, yêu thương bản thân và sẵn sàng sẻ chia. *** Chú dê đực Billy là thành viên nhỏ nhất của gia đình Gruff. Cậu giống như một con ngựa bất kham coi thường những uy quyền. Một ngày nọ, cậu quyết định đi qua cây cầu dẫn đến Louis Pasture để tìm kiếm cho được một số cái hộp nhôm đầy hương vị. Niềm đam mê những sản phẩm tái chế đã làm cho cánh đồng của chú bị bỏ hoang cằn cỗi, khô khan. Vì thế, cậu cho rằng chắc hẳn bên kia sông là một cánh đồng cỏ cằn cỗi hơn. Billy biết rằng có một cái quán trên cầu nhưng cậu không có cho dù chỉ là một ít tiền lẻ để trả lệ phí qua cầu. Cậu đã ăn cách đây 15 phút để có thể chờ đến bữa ăn chiều. Cậu không định đi bởi vì cậu không mua được vé của người khổng lồ để qua cây cầu bằng con đường nhanh nhất. Cuối cùng không còn sự lựa chọn nào khác, Billy quyết định thử lẻn qua cây cầu mà không làm náo động đến người khổng lồ. Thật ngạc nhiên, người khổng lồ canh gác cây cầu không phải là người độc ác, xấu xa. Ông đã từng là người làm ra những món đồ chơi đầy sáng tạo mang đến niềm vui tuyệt vời cho trẻ em trong làng. Thậm chí ông ấy còn tạo ra khuôn mẫu những con búp bê khổng lồ xấu xí. Tóc của những con búp bê được bắt chước theo kiểu tóc rậm rạp, rối bù của ông. Thật không may, ý tưởng về con búp bê khổng lồ đã bị một công ty búp bê lớn đánh cắp trước khi ông có cơ hội thu lợi từ nó. Những con búp bê có mặt khắp vùng nhưng người khổng lồ thì chưa bao giờ thấy được xu nào từ sự thành công đó. Người khổng lồ cố gắng kiện công ty búp bê ra tòa nhưng nhiều năm kiện tụng thất bại đã khiến ông cảm thấy cay đắng, chua xót. Ông tập trung vào ý muốn trả thù đến nỗi ông đã đánh mất đi niềm vui và cảm xúc sáng tạo khi hoàn thành một sản phẩm như trước đây. Người khổng lồ dựng một cái lều trên cây cầu bởi vì ông cảm thấy thế giới này đã nợ mình một cái gì đó. ... Mời các bạn đón đọc Ngụ Ngôn Thời Hiện Đại - Cẩm Nang Xử Thế của tác giả Sue Gallehugh & Allen Gallehugh.
Triết Lý Cuộc Đời - Jim Rohn
“Đừng đi trước tôi, có khi tôi sẽ chẳng theo sau, Đừng đi sau lưng tôi, có lẽ tôi sẽ không dẫn dắt, Hãy đi bên cạnh tôi, và làm bạn cùng tôi.” Tuy chỉ qua 3 câu nói súc tích, ngắn gọn nhưng Jim Rohn đã truyền toàn bộ những thông điệp mà ông muốn gửi gắm tới độc giả, những người luôn ủng hộ và góp phần làm nên sự thành công của ông. Bộ 5 cuốn sách: Bốn mùa cuộc sống, Chìa khóa thành công, Những mảnh ghép cuộc đời, Triết lý cuộc đời và Châm ngôn ngày mới được Jim Rohn ghi chép lại về những thành công, thất bại, những kinh nghiệp, triết lý sống được ông rút ra trong quãng đời 79 năm của ông. Đây như một món quà mà Jim Rohn muốn gửi tặng đến độc giả, người thân, bạn bè, những người luôn theo dõi, động viên, ủng hộ ông trong mỗi bước của sự nghiệp. Cuốn nhật ký Triết lý cuộc đời viết về cuộc đời, kinh doanh trong suốt một quá trình lâu dài được Jim Rohn tổng hợp lại để truyền đến độc giả những nguồn cảm hứng giúp họ thể hiện hết khả năng của bản thân, thay đổi “chất lượng cuộc sống”. Theo Dottie Walters, Chủ tịch Tổ chức Diễn giả Quốc tế Walters, tác giả cuốn sách “Những diễn giả vĩ đại nhất mà tôi từng được nghe” cho biết: “Thông qua cuốn sách, bạn sẽ thấy nó mở ra cho bạn những cánh cửa để đi tới thành tựu mà bạn tưởng rằng mình sẽ không bao giờ đạt tới”. Điều Jim Rohn hy vọng là sau khi đọc xong những trang sách của ông, những người đang nản lòng trước những khó khăn hay chưa có bất cứ 1 định hướng nào cho cuộc sống sẽ tìm thấy động lực để đứng dậy và đi tiếp. “Hãy thay đổi con người mình, nếu không bạn sẽ chỉ nhận được những gì bạn đã nhận được mà thôi”. *** Jim Rohn  là một trong những diễn giả biết cách truyền động lực nhất. Đến thời điểm hiện tại, sự nghiệp phát triển bản thân và mang lại động lực cho mọi người của ông đã được 40 năm. Thêm vào đó, ông còn được biết đến như một nhà tư tưởng và một triết gia vĩ đại. Cuộc đời Jim Rohn là câu chuyện về thành công từ tay trắng. Sinh ra trong một gia đình nông dân, bỏ học đại học chỉ sau một năm, khánh kiệt năm 25 tuổi, nhưng nhờ gặp được một người thầy tốt, ông đã trở thành triệu phú ở tuổi 31. Ông được mời chia sẻ câu chuyện thành công của mình ở khắp nơi, từ trường cấp ba, đại học, cho đến các bữa tiệc rồi các buổi hội thảo. Dần dần, ông trở thành diễn giả có ảnh hưởng nhất thế giới. Ông là thầy của Mark R. Hughes (nhà sáng lập Herbalife) và diễn giả Anthony Robbins, đồng thời có ảnh hưởng sâu sắc đến Brian Tracy, Jack Canfield, và T. Harv Eker. . Ông đã làm việc với hàng triệu người và đã giúp họ đạt được thành công. Một trong số đó phải kể đến là Anthony Robins và Zig Ziglar. Tác phẩm tiêu biểu: Bốn Mùa Cuộc Sống 7 Chiến lược Thịnh Vượng và Hạnh Phúc Triết Lý Cuộc Đời Chìa khóa thành công Những Mảnh Ghép Cuộc Đời   Mời các bạn đón đọc Triết Lý Cuộc Đời của tác giả Jim Rohn.
Chuyến Xe Năng Lượng - Jon Gordon
Mỗi chúng ta đều có hai lựa chọn để khởi đầu ngày mới của mình: vui vẻ, lạc quan để thấy tin yêu cuộc đời hoặc bi quan, chán nản để nhìn đời bằng đôi mắt tiêu cực. Bạn có quyền lựa chọn cuộc sống như mong muốn của mình. Nhưng trước khi đưa ra quyết định, bạn nên nhớ rằng thái độ sống của bạn tác động rất lớn đến những người xung quanh. Bạn có thể tiếp thêm nguồn năng lượng giúp họ làm việc tốt hơn nhưng cũng có thể khiến họ cảm thấy mệt mỏi và giảm sút năng suất lao động. Và quyết định sáng suốt ở đây chính là hãy trở thành động lực cho những người xung quanh bằng mười bí quyết tăng cường nguồn năng lượng tích cực được chuyển tải qua cuốn sách. Trong Chuyến xe năng lượng tác giả đề cập đến những khó khăn mà chúng ta thường phải đối mặt, đồng thời phân tích cặn kẽ tác động của chúng đối với công việc và cuộc sống của mỗi người. Từ kinh nghiệm của bản thân cũng như những người xung quanh, tác giả Jon Gordon đã tìm ra mười bí quyết giúp độc giả xây dựng nguồn năng lượng tích cực cho mình. Cuốn sách là một cẩm nang quý giá cho những ai muốn khám phá nguồn năng lượng tích cực của bản thân và của tập thể. Nội dung cuốn sách được dẫn dắt theo một logic khá thú vị, anh chàng George gặp hàng loạt vấn đề rắc rối trong cuộc sống của mình và lại bị xẹp lốp xe ô tô vào ngày có cuộc họp quan trọng ở công ty. Thế là mặc dù rất ghét đi xe buýt những George buộc phải đón xe buýt để đến chỗ làm. Và cũng từ đó George đã học rất nhiều bài học có ý nghĩa từ người nữ tài xế Joy luôn vui vẻ và quan tâm đến mọi hành khách trên xe. Hành trình mỗi ngày đến chỗ làm của George đồng thời cũng là hành trình qua mỗi chương sách thật sự là một trải nghiệm và khám phá bản thân hết sức thú vị. Dù bạn là ai hay công việc và cương vị hiện tại của bạn là gì thì chúng tôi vẫn tin rằng, cuốn sách Chuyến xe năng lượng cũng sẽ giúp ích cho bạn trong việc tìm kiếm hướng đi thích hợp đồng thời vượt qua những thử thách trong công việc và trong cuộc sống. Một khi đã tích lũy được nguồn năng lượng tích cực, nhất định bạn sẽ yêu thích hành trình cuộc sống của mình và đạt được thành công như mong muốn. *** “Trong C năng lượng, Jon Gordon đã đề cập đến những khó khăn mà chúng ta thường phải đối mặt, đồng thời phân tích cặn kẽ tác động của chúng đối với công việc và cuộc sống của mỗi người. Từ kinh nghiệm bản thân cũng như của những người xung quanh, Jon Gordon đã tìm ra mười bí quyết giúp độc giả xây dựng nguồn năng lượng tích cực cho mình. Tôi đặc biệt yêu thích mục ‘Lái xe có mục đích’. Cuốn sách này thật sự là một cẩm nang quý giá cho những ai muốn khám phá nguồn năng lượng tích cực của bản thân và của tập thể.” - Tom Gegax, sáng lập viên chương trình Tires Plus, tác giả cuốn The Big Book of Small Business.   “Mục đích, niềm tin và lòng nhiệt huyết là những yếu tố quan trọng có thể giúp con người đạt được thành công trong công việc cũng như trong cuộc sống thường ngày. Và đây cũng chính là điều Jon Gordon gửi gắm trong Chuyến xe năng lượng. Hãy bước lên xe và tận hưởng hành trình của mình với những bí quyết từ Chuyến xe năng lượng của Jon Gordon.” - Pat Williams, Phó Chủ tịch cấp cao tổ chức NBA’s Orlando Magic. “Hãy sống có mục đích, tầm nhìn và xây dựng cho mình nguồn năng lượng tích cực để đạt được thành công trong công việc và cuộc sống. Hãy để Chuyến xe năng lượng đưa bạn vào hành trình khám phá những bí quyết cần thiết để sống một cuộc đời hữu ích và trở thành một lãnh đạo thật sự.” - Mac Anderson, Chủ tịch tổ chức Simple Truths, sáng lập viên Successories. “Nếu bạn muốn xây dựng nguồn năng lượng tích cực cho bản thân, cho những người xung quanh cũng như cho tổ chức của mình, hãy đọc cuốn sách này và áp dụng những bài học mà Jon Gordon đã chuyển tải trong đó.” - Jerry Fox, tác giả cuốn The Secret of Great Rainmakers. “Năng lượng tiêu cực có thể làm giảm sút năng suất lao động của mọi công ty và thậm chí, có thể khiến công ty đó phá sản. Vì thế, hãy loại bỏ nguồn năng lượng tiêu cực trong công ty bạn bằng cách chú ý phát triển nguồn năng lượng tích cực. Hãy sử dụng những bí quyết mà Jon Gordon gửi gắm trongChuyến xe năng lượng để khám phá nguồn năng lượng của bản thân và của công ty bạn.” - Dwight Copper, Lãnh đạo cấp cao của Professional Placement Resource. “Cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn mỗi chúng ta đều biết đến bí quyết về năng lượng tích cực của Jon Gordon.” - Danny Gans, phụ trách mục Entertainer of the Year của Las Vegas. “Jon Gordon và Chuyến xe năng lượng của ông đã truyền cảm hứng cho đội ngũ kinh doanh chuyên nghiệp của chúng tôi. Bất kỳ ai cũng có thể áp dụng những triết lý này để đạt được thành công như mong muốn.” - Linda H. Sherrer, Chủ tịch HĐQT công ty bất động sản Prudential Network. *** Jon Gordon là tác giả của rất nhiều tựa sách bán chạy trên tạp chí phố Wall như The Energy Bus, The No Complaining Rule, Training Camp, The Shark and the Goldfish, Soup và The Seed… Đồng thời ông cũng là diễn giả đem lại nguồn cảm hứng cho rất nhiều độc giả, khán thính giả trên toàn thế giới. Những triết lý mà ông đưa ra đã được kiểm chứng bởi hàng triệu NFL, NBA, những hướng dẫn viên và đội tuyển trường đại học, nhóm các công ty thuộc Fortune 500, nhóm các trường học, bệnh viện và các tổ chức phi lợi nhuận.   Mời các bạn đón đọc Chuyến Xe Năng Lượng của tác giả Jon Gordon.
Kinh Nghiệm Thành Công Của Ông Chủ Nhỏ - Lão Mạc
Sau khi cuốn sách Kinh nghiệm thành công của ông chủ nhỏ đầu tiên của tôi được phát hành, không ngờ chỉ trong vòng nửa năm đã có tới hơn một triệu lượt truy cập trên mạng, rất nhiều độc giả để lại lời nhận xét, cảm ơn vì cuốn sách đã giúp công việc kinh doanh của họ khởi sắc. Nói thật, những lời nhận xét đó chính là nguồn động viên lớn nhất đối với tôi, khiến tôi cảm thấy vui hơn cả việc số lượng bản in trong nửa năm đã tăng lên không ngừng, bởi xét cho cùng thì tôi không phải một nhà văn chuyên viết sách, việc ra sách chỉ là niềm vui và cũng là sự tổng kết những trải nghiệm trong cuộc đời của tôi. Những điều tâm đắc và những trải nghiệm của tôi phần lớn là tự lượm lặt, chúng có thể khác xa những tài liệu MBA bạn từng đọc. Tôi luôn cảm thấy kì lạ vì những người đã từng học MBA ở Trung Quốc thường chỉ có thể trở thành giám đốc bộ phận chứ không thể làm ông chủ. Những người được xếp vào hạng “Ông chủ lớn” chắc chắn không phải người bình thường mà đều là những bậc “tinh anh”. Sự “tinh anh” này không phải là thứ có thể học được trong nhà trường mà chỉ có thể tích lũy trên trường đời mà thôi. Hi vọng sau khi đọc cuốn sách này, các bạn có thể biến trải nghiệm của tôi thành trải nghiệm của các bạn, giúp các bạn rèn luyện sự “tinh anh” cho mình. Tôi không hề phản đối các bạn học MBA vì chính tôi cũng đã từng học MBA, điều đó có thể giúp chúng ta hệ thống hóa những kiến thức kinh doanh, kiến thức quản lí và suy ngẫm vấn đề một cách toàn diện hơn. Có một độc giả gửi thư điện tử cho tôi nói rằng, trong lúc chờ lên máy bay, anh ta đã tiện tay chọn cuốn sách của tôi và đọc thử, trong bụng vốn nghĩ rằng đây chỉ là cuốn sách viết cho những người kinh doanh nhỏ như bán bánh nướng, bán đậu phụ thối ngoài đường, không ngờ sau khi đọc kĩ mới thấy, cuốn sách này không chỉ có ích cho những ông chủ nhỏ mà còn hữu ích với cả những ông chủ lớn, thế là anh ta quyết định mua sách về nhà đọc. Tôi xin giải thích một chút, tại sao tôi lại đặt tên cho cuốn sách này là Kinh nghiệm thành công của ông chủ nhỏ : Theo tiêu chuẩn phân loại doanh nghiệp của Chính phủ, trừ những doanh nghiệp bán lẻ, cho thuê chỗ ở hoặc phục vụ ăn uống thì tất cả những doanh nghiệp có doanh thu dưới 300 triệu tệ một năm đều được coi là những “ông chủ” nhỏ. Ngoài ra tôi còn nghĩ rằng, doanh thu nhiều hay ít chỉ là một trong các tiêu chuẩn đánh giá về doanh nghiệp vì có những doanh nghiệp tuy làm ăn lớn nhưng cơ cấu doanh nghiệp và phương thức kinh doanh vẫn mang dáng dấp những ông chủ nhỏ, chính vì thế, tôi gọi họ là những ông chủ nhỏ. Cuốn sách Kinh nghiệm thành công của ông chủ nhỏ trước đây chủ yếu tập trung vào quản lí tài chính và kiểm soát lưu chuyển tiền tệ. Sau khi xuất bản, rất nhiều độc giả góp ý rằng họ muốn biết thêm về những bí quyết và chiến lược kinh doanh nên tôi đã viết thêm một cuốn sách với nội dung khác biệt, chú trọng vào những kinh nghiệm kinh doanh của tôi cũng như bạn bè, có thể sẽ giúp ích được nhiều hơn cho những bạn trẻ đã và đang dấn thân vào lĩnh vực kinh doanh. Trong cuốn sách này, trước tiên tôi nêu ra tình huống, sau đó đi sâu phân tích, đưa ra những luận điểm về những tình tiết quan trọng trong câu chuyện và có đề cập tới những lĩnh vực có thể ứng dụng luận điểm đó. Những câu chuyện mà tôi viết ra không được phân loại theo phương thức quản lí kinh doanh mà dựa theo đặc điểm cách làm của doanh nghiệp. Những câu chuyện mà tôi viết cũng không phải là những câu chuyện quen thuộc từng được đề cập trong giáo trình thương mại, có những câu chuyện sẽ mang hơi hướng “giang hồ” một chút, thậm chí, trước lúc xuất bản, tôi còn phải lược bỏ đi vài chuyện có phần hơi “lách luật” nữa. Tôi không khuyến khích các bạn “lách luật”, tôi luôn nghĩ rằng để có thể làm nên sự nghiệp một cách quang minh chính đại thì không nên làm những trò “trộm gà trộm chó” không ra gì. Ngay trong cuốn sách này, tôi cũng viết rằng: “Một người có thể làm nên sự nghiệp được hay không, thành đại nghiệp được hay không, phụ thuộc rất nhiều vào cốt cách của người đó, người có nhân cách lớn mới làm nên đại nghiệp.” Để bạn đọc có thể hiểu nội hàm kinh doanh một cách nhanh chóng và sâu sắc hơn, tôi sẽ viết về những suy nghĩ nội tâm của những người làm kinh doanh nhỏ, họ muốn làm gì, lên kế hoạch thế nào để mình vừa có lợi, vừa có thể khống chế được cục diện, vừa có thể giữ nghề mà lại hạn chế được thủ đoạn của đối phương. Những nhân vật trong sách đều là những người làm kinh doanh tiêu biểu, họ là những bậc thầy trong việc tạo lợi nhuận cho bản thân. Tất nhiên, tất cả bọn họ đều không phải là kẻ xấu vì không ai ôm tư tưởng “Thà phụ người còn hơn bị người phụ”. Đa số những tình huống trong sách đều là trải nghiệm của chính bản thân tôi và những người xung quanh. Tuy chúng tôi là những người làm kinh doanh, nhưng cũng là những người hết sức lương thiện. Làm ông chủ đã khó, làm ông chủ nhỏ lại càng khó hơn nữa. Những ông chủ nhỏ đa số đều xuất thân từ tầng lớp bình dân trong xã hội, nên cần phải có sức sống mãnh liệt như cỏ dại vậy, có tồn tại được hay không phải dựa vào may mắn và nghị lực của người đó. Những ông chủ nhỏ không phải là những người đa năng, việc gì cũng làm được, muốn lập nghiệp thì cần phải có tuyệt chiêu “thứ nhất độc đáo, thứ hai dám làm”, và không được cả thèm chóng chán. Những ông chủ nhỏ cũng giống như những “ông trùm” vậy, vừa phải quản lí cấp dưới theo quy định, vừa phải dùng tình nghĩa huynh đệ để đoàn kết mọi người với nhau. Chuyện về ông chủ nhỏ thì có rất nhiều, rất nhiều chuyện có thể viết thành sách, nếu có thời gian thì tôi sẽ viết thêm cuốn Kinh nghiệm dùng người quản người của ông chủ nhỏNhững tình thế tiến thoái lưỡng nan và thất bại của ông chủ nhỏ để các bạn cùng suy ngẫm. Cuối cùng, tôi xin được chia sẻ với các bạn một câu nói mà tôi biết khi còn trẻ, đó là: “Nếu đã chọn làm ông chủ nhỏ thì phải biết đương đầu với sóng gió và vượt qua khó khăn.” TÁC GIẢ "Cuốn sách này không phải là chuyện bán bánh nướng, bán chân giò xông khói... thế nào cho đắt hàng như nhiều người thoạt tưởng? Thực ra nó là chuyện lên kế hoạch và thực hiện chiến lược kinh doanh để có thể khống chế được cục diện, vừa phát triển nghề, vừa hạn chể được đối thù cạnh tranh của một ông chủ." Mời các bạn đón đọc Kinh Nghiệm Thành Công Của Ông Chủ Nhỏ của tác giả Lão Mạc.