Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Donald Trump Chiến Lược Đầu Tư Bất Động Sản - George H. Ross & Andrew James McLean

Sách Nói Donald Trump Chiến Lược Đầu Tư Bất Động Sản   Donald Trump Chiến Lược Đầu Tư Bất Động Sản - Những Bài Học Của Tỷ Phú Trump Cho Nhà Đầu Tư Nhỏ. Các chiến lược kinh doanh của nhà tỷ phú Trump có thể giúp các nhà đầu tư trung bình như thế nào? Ross cho rằng những nguyên tắc cơ bản đã làm cho các toà nhà của Trump ở Manhattan tạo ra siêu lợi nhuận vẫn có thể áp dụng cho tất cả các nhà kinh doanh bất động sản khác ở mọi cấp độ, cho dù vốn của họ là bao nhiêu. Chiến lược đầu tư bât động sản của Trump trình bày một cái nhìn toàn cảnh về ý tưởng sáng tạo đã đưa Trump lên đến đỉnh cao thành công. Kể cả bạn là một nhà kinh doanh bất động sản dày dặn kinh nghiệm hay là người mới học việc trong lĩnh vực này, bạn sẽ kiếm được nhiêù tiền hơn trong các thương vụ đầu tư của mình nếu áp dụng các chiến lược của tỷ phú Trump. Đây là cuốn sách hữu ích không chỉ cho các nhà đầu tư, kinh doanh BĐS ở mọi quy mô, các luật sư, nhà tư vấn và môi giới, nhà quản lý bất động sản, mà còn đặc biệt bổ ích cho các nhà khoa học, sinh viên các ngành kinh tế liên quan đến lĩnh vực BĐS. Những kiến thức trong cuốn sách sẽ giúp cho chúng ta tránh khỏi những rắc rối không đáng có, tiết kiệm thời gian tiền bạc và bảo đảm mức độ thành công cao trong các thương vụ BĐS. Mười một chương của cuốn sách Donald Trump - Chiến lược đầu tư bất động sản: Những bài học của tỷ phú Trump cho các nhà đầu tư nhỏ của tác giả George Ross là một tập hợp kiến thức phong phú về những vấn đề liên quan đến marketing, tài chính, quản lý và kinh doanh, đàm phán trong lĩnh vực BĐS. *** Thị trường bất động sản (BĐS) tại Việt Nam chính thức được hình thành từ năm 1993, sau khi Luật Đất đai cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Năm 1996, lần đầu tiên khái niệm “Thị trường bất động sản” được chính thức đề cập trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Với sự ra đời của Luật Đất đai 2003, Dự thảo Luật Kinh doanh BĐS, Luật Nhà ở và hàng loạt những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành đã khẳng định sự tồn tại và phát triển của thị trường BĐS ở nước ta. Có thể khẳng định rằng kinh tế BĐS là một thành phần quan trọng, chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế của tất cả các nước phát triển. Đối với các nước đang phát triển, kinh tế BĐS có vai trò tạo nên tích lũy tài chính ban đầu của quá trình công nghiệp hóa đất nước. Điều này đã được chứng minh bằng thực tế ở các nước và vùng lãnh thổ như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong. Ở Việt Nam trong những năm gần đây, kinh tế BĐS đã thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội và đóng góp nhiều cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế BĐS ở nước ta nhìn chung đã và đang phát triển một cách tự phát, phần lớn hoạt động ngoài sự kiểm soát của nhà nước, mang nhiều “tính chất” đầu cơ và là hoạt động không đúng hướng. Mặc dù trong quá trình đổi mới, Việt Nam đã thu được những thành tựu lớn về nhiều mặt nhưng trong lĩnh vực kinh doanh BĐS thì sự phát triển còn yếu kém. Hiệu quả hoạt động thấp trong lĩnh vực này ảnh hưởng đến sự tăng giá BĐS đến “chóng mặt”, làm giảm “nhiệt” trong cầu về BĐS, chuyển sang cầu các mặt hàng khác. Từ phía cung, nghĩa là trong việc sản xuất các mặt hàng và dịch vụ của khu vực BĐS, còn tồn tại nhiều khó khăn trên con đường nâng cao hiệu quả hoạt động như: sự thiếu chuẩn mực trong quá trình xây dựng, khai thác, sửa chữa; những qui định làm kéo dài và tăng chi phí đầu tư; khó khăn trong việc tiếp cận đất đai và các khoản tín dụng cần thiết. Lĩnh vực khoa học về BĐS nói chung và kinh doanh BĐS nói riêng cho đến nay vẫn còn rất mới mẻ tại Việt Nam, thậm chí rất mới đối với những người làm trong các ngành liên quan đến đất đai và xây dựng. Khi cần đến sự giúp đỡ về những vấn đề liên quan đến BĐS, phần lớn mọi người đều tìm đến trước tiên là người quen, bạn bè, sau đó là luật sư, kiến trúc sư, “cò” môi giới, nhân viên ngân hàng, những người mà họ quen biết... Trong phần lớn các trường hợp, những mong đợi của họ đều không được đáp ứng. Đây cũng là vấn đề còn gây nhiều bức xúc trong khi thị trường mua bán, cho thuê BĐS đang phát triển rộng khắp, cho dù đó chỉ là một khu đất nhỏ, căn hộ chung cư hay đơn giản chỉ là một chỗ khiêm tốn trong phòng trọ. Cuốn sách mà các bạn đang cầm trong tay sẽ là một cẩm nang quý giá và hữu ích để giúp chúng ta giải quyết được phần nào những bức xúc nêu trên. Phải là chuyên gia hàng đầu, với một kho kinh nghiệm phong phú, hoạt động trong thị trường bất động sản khốc liệt nhất thế giới - Thành phố New York, mới có thể viết được cuốn sách thực tiễn, dễ hiểu, kiến thức phong phú, xem xét vấn đề một cách tổng quát như vậy về lĩnh vực BĐS. George H. Ross - tác giả cuốn sách - là một luật sư, nhà tư vấn kinh doanh và thương thuyết nổi tiếng tại Mỹ. Trong cuộc đời hoạt động trong lĩnh vực BĐS, G. Ross đã từng thốt lên rằng “thật hân hạnh và may mắn cho tôi được cống hiến những năm thành công rực rỡ nhất trong sự nghiệp với tư cách là cánh tay phải của Donald Trump” và “Trump là một đại tài trong kinh doanh BĐS, một người vĩ đại trong công việc”. Nhưng Donald Trump là ai mà nhận được sự kính phục của G. Ross đến vậy? Donald Trump được coi là ông trùm của các ông trùm BĐS ở Mỹ. Danh mục bất động sản thuộc quyền sở hữu và quản lý của ông trùm này bao gồm vô số các khách sạn nổi tiếng, các khu giải trí, casino, toà nhà văn phòng và chung cư cao cấp ở rất nhiều thành phố lớn trên toàn cầu. Donald Trump không chỉ là một trong những người giàu nhất mà còn là một trong những người biết cách kinh doanh nhất. Thêm vào đó, ông cũng là người hòa nhã, phung phí và ngông cuồng. Thật khó có thể tìm được một người Mỹ không ngưỡng mộ ông. Mặc dù trưởng thành trong điều kiện vật chất đầy đủ, ông đã không được thừa hưởng bất kỳ tài sản nào. Ông nổi tiếng và giàu có nhờ vào những thành tựu của chính mình trong kinh doanh. Điều làm cho Donald Trump thật sự trở nên rất đặc biệt là ông đã thành công để trở thành một trong những người biết cách thay đổi phương pháp kinh doanh xuất sắc nhất trong lịch sử. Chính tài năng đã giúp ông trở nên giàu có, nhưng điều làm ông nổi bật trong thế giới người giàu là tính bộc trực, thẳng thắn, dám nói lên các sai lầm của mình trước công chúng. Ngày nay thị trường BĐS tại Việt Nam đang bắt đầu phát triển một cách đồng bộ theo xu hướng hội nhập và mở cửa. Những cơ hội phát triển kinh doanh BĐS hiện tại và trong tương lai là rất lớn. Cơ hội này chia đều cho mỗi người trong chúng ta, cho bất kỳ ai quan tâm, yêu thích lĩnh vực đầy tiềm năng này. Bằng những kinh nghiệm quý giá có được từ những năm sát cánh bên D. Trump trong các thương vụ BĐS, G. Ross đã cho ra đời cuốn sách vô cùng thú vị về nghệ thuật đầu tư và kinh doanh BĐS. Những bài học G. Ross rút ra sẽ là chỉ dẫn cho những ai biết áp dụng một cách linh hoạt trong hoạt động của mình. Qua việc giới thiệu một số thương vụ cụ thể, những mô hình đầu tư BĐS rất khác nhau, đặc biệt là mô hình quy mô nhỏ, với những chi tiết sáng tạo và bất ngờ, cuốn sách đã thu hút được rất nhiều độc giả trên toàn thế giới. Đây là cuốn sách hữu ích không chỉ cho các nhà đầu tư, kinh doanh BĐS ở mọi quy mô, các luật sư, nhà tư vấn và môi giới, nhà quản lý bất động sản, mà còn đặc biệt bổ ích cho các nhà khoa học, sinh viên các ngành kinh tế liên quan đến lĩnh vực BĐS. Những kiến thức trong cuốn sách sẽ giúp cho chúng ta tránh khỏi những rắc rối không đáng có, tiết kiệm thời gian, tiền bạc và bảo đảm mức độ thành công cao trong các thương vụ BĐS. Mười một chương của cuốn sách Donald Trump - Chiến lược đầu tư bất động sản: Những bài học của tỷ phú Trump cho các nhà đầu tư nhỏ của tác giả George Ross là một tập hợp kiến thức phong phú về những vấn đề liên quan đến marketing, tài chính, quản lý và kinh doanh, đàm phán trong lĩnh vực BĐS. Hiện nay khi những cuốn sách viết về đề tài BĐS còn khá hiếm, khó tìm thì việc giới thiệu cuốn sách này với độc giả là một việc làm kịp thời đáng khích lệ. Như lời của Jared Shlaes, một nhà tư vấn BĐS nổi tiếng hoạt động trong Hiệp hội các nhà tư vấn tại Mỹ thì "Kiến thức không chỉ mang đến quyền lực mà còn cả tiền bạc". Với tư cách là một người hoạt động trong lĩnh vực khoa học về BĐS, tôi xin trân trọng giới thiệu tới độc giả cuốn sách thú vị về một lĩnh vực đặc biệt hấp dẫn - lĩnh vực kinh doanh BĐS. Hà Nội, ngày 22/6/2006 TS. NGUYỄN MINH NGỌC Giảng viên Khoa Bất động sản và Địa chính,  trường ĐH Kinh tế Quốc dân Mời các bạn đón đọc Donald Trump Chiến Lược Đầu Tư Bất Động Sản của hai tác giả George H. Ross & Andrew James McLean.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ai Nói Voi Không Thể Khiêu Vũ? - Louis V. Gerstner
Quản trị doanh nghiệp lớn là một công việc đặc biệt phức tạp và khó khăn. Tại Việt Nam, bài toán và thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp là hệ thống quản trị. Hiệu quả kinh doanh thấp và thiếu linh hoạt, không thay đổi kịp với sự phát triển của thị trường và khách hàng dường như là căn bệnh kinh niên của các tập đoàn lớn. Tuy nhiên, không chỉ với Việt Nam mà trên toàn thế giới, việc điều hành một tập đoàn cũng là một thách thức lớn. Câu chuyện về IBM là một ví dụ điển hình về việc điều hành và cải tổ một tập đoàn khổng lồ, cồng kềnh. Vậy đâu là giải pháp cho việc quản trị một tập đoàn lớn? Louis V. Gerstner và cuốn sách "Ai nói voi không thể khiêu vũ?" là một trong những lời giải đáp hoàn hảo cho vấn đề này. "Ai nói voi không thể khiêu vũ?" cho thấy thành công của Louis Gerstner trong việc chuyển đổi thành công nền văn hóa quan liêu của IBM thành nền văn hóa kỷ luật, coi trọng thành quả chung và hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Cuốn sách đồng thời cũng cho thấy tài năng của Louis Gerstner khi làm sống lại những giá trị cốt lõi của IBM cũng như mục tiêu hàng đầu của công ty: đó là vượt trội. *** Louis Vincent Gerstner Jr. là một doanh nhân người Mỹ, nổi tiếng với nhiệm kỳ là chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc điều hành của IBM từ tháng 4 năm 1993 đến năm 2002, khi ông nghỉ hưu làm giám đốc điều hành vào tháng 3 và chủ tịch vào tháng 12. Ông chủ yếu được ghi nhận với việc xoay chuyển vận may của IBM. Đây không phải là cuốn tự truyện về bản thân tôi. Tôi không nghĩ sẽ có ai đó ngoài bọn trẻ nhà tôi muốn đọc cuốn sách này (thậm chí tôi cũng không chắc chắn 100% như vậy). Tuy nhiên, với mong muốn giới thiệu đến các bạn bối cảnh giúp tôi khôi phục IBM, dưới đây sẽ là một bức tranh nhỏ về bối cảnh đó. Tôi sinh ngày 1 tháng 3 năm 1942, ở Mineola, New York - trung tâm của Hạt Nassau, Long Island. Cha tôi lái xe tải chở sữa và sau này ông làm nhân viên vận chuyển của Công ty F&M Schaeffer. Mẹ tôi làm khá nhiều nghề: thư ký, môi giới bất động sản, và cuối cùng là nhân viên hành chính cho một trường đại học. Cùng với ba anh em trai, tôi sống trong một ngôi nhà ở Mineola cho tới khi ra trường năm 1959. Chúng tôi là một gia đình trung lưu đầm ấm, gắn bó và theo đạo Thiên chúa. Mọi thành công trong cuộc sống của tôi đều được khơi nguồn từ những ảnh hưởng của cha mẹ. Cha tôi là một người kín đáo, say mê học tập và có ý chí quyết tâm cao. Mẹ tôi là người có kỷ luật, chăm chỉ và đặt nhiều hoài bão nơi các con. Bà hướng tôi tới sự hoàn hảo, thành tích và thành công. Học tập là ưu tiên hàng đầu trong gia đình Gerstner. Cha mẹ tôi phải cầm cố nhà 4 năm một lần để trả tiền học phí cho chúng tôi? Tôi học ở trường công, sau đó là trường Chaminade, một trường Công Giáo. Tôi tốt nghiệp năm 1959 và sau đó đến Notre Dame khi nhận được học bổng của Trường Dartmouth. Đó là một khoản tiền rất lớn so với nguồn tài chính của gia đình tôi, do vậy tôi lên đường đến Dartmouth vào tháng 9 năm 1959. Bốn năm sau, tôi tốt nghiệp với tấm bằng chuyên ngành khoa học kỹ thuật rồi tôi học thêm hai năm nữa tại Trường Kinh doanh Harvard. (Khi đó, việc sinh viên năm cuối một trường đại học học thẳng lên các trường kinh doanh là điều mà đa số các trường kinh doanh không chấp nhận.) Sau đó, ở độ tuổi 23, tôi rời trường Harvard và bắt đầu hoạt động kinh doanh. Tôi gia nhập hãng tư vấn quản lý của McKinsey tại New York vào tháng 6 năm 1965. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là nghiên cứu chế độ đền bù cho các nhà lãnh đạo của công ty Socony Mobil Oil Co. Tôi sẽ không bao giờ quên ngày làm việc đầu tiên trong dự án đó. Tôi hoàn toàn không biết gì về chế độ đãi ngộ cho các vị lãnh đạo cũng như ngành dầu khí. May mắn là tôi chỉ đóng vai trò thứ yếu trong dự án, nhưng trong thế giới của McKinsey, người ta luôn được kỳ vọng sẽ tạo nên những bước đột phá. Trong vài ngày tôi đã có một cuộc họp với các vị lãnh đạo cấp cao hơn tôi hàng chục tuổi. Chín năm sau, tôi trở thành cổ đông lớn của McKinsey. Tôi chịu trách nhiệm về mặt tài chính của hãng và cũng là thành viên của ủy ban lãnh đạo cấp cao. Tôi phụ trách ba khách hàng chính, hai trong số đó là các công ty cung cấp dịch vụ tài chính. Điều quan trọng nhất tôi học được từ McKinsey là phải hiểu rõ các hoạt động nền móng của một công ty. McKinsey luôn đề cao và quan tâm đến các bản phân tích sâu sắc thị trường của một công ty, vị thế cạnh tranh và định hướng chiến lược của nó. Khi gần 30 tuổi, tôi nhận thấy rõ ràng rằng mình không thể duy trì nghề tư vấn suốt cả cuộc đời. Mặc dù thích sự thách thức mang tính trí tuệ, tốc độ nhanh cũng như sự trao đổi với các lãnh đạo cấp cao, nhưng tôi ngày càng mất dần niềm say mê với vai trò cố vấn cho người ra quyết định. Tôi đã tự nhủ: “Mình không muốn trở thành một người bước vào phòng và trình bày một bản báo cáo cho một người ngồi trên chiếc ghế lớn trong phòng; tôi muốn trở thành người ngồi trong chiếc ghế đó - người ra quyết định và hành động.” Giống như nhiều cổ đông thành công khác của McKinsey, tôi nhận được vô số lời mời chào gia nhập các tổ chức của khách hàng, nhưng không có đề xuất nào thật sự đủ hấp dẫn để khiến tôi từ bỏ công việc nơi đây. Tuy nhiên, vào năm 1977, tôi nhận lời mời của American Express, khách hàng lớn nhất của tôi khi đó, vào vị trí Giám đốc Mảng các dịch vụ liên quan đến Du lịch (thẻ American Express, Séc du lịch và các hoạt động Văn phòng du lịch). Tôi làm việc cho American Express gần 11 năm, và đó là khoảng thời gian đầy ắp niềm vui và sự hài lòng. Trong một thập niên, nhóm của chúng tôi đã giúp tăng 17% tỷ lệ lũy kế mảng Các dịch vụ liên quan đến Du lịch; mở rộng số lượng thẻ từ 8 triệu lên gần 31 triệu và xây dựng toàn bộ các hoạt động kinh doanh mới liên quan đến Thẻ Doanh nghiệp, bán hàng và các lĩnh vực xử lý thẻ tín dụng. Tôi cũng học được rất nhiều điều. Tôi đã phát hiện ra ngay từ đầu rằng sự trao đổi ý tưởng cởi mở với tinh thần tự do giải quyết vấn đề khi thiếu vắng hệ thống cấp bậc mà tôi đã học được tại McKinsey không thể thực hiện dễ dàng trong một tổ chức hoạt động dựa trên cấp bậc. Tôi còn nhớ rõ mình đã gặp phải nhiều sai lầm như thế nào trong những tháng đầu tiên khi tiếp cận với những người mà tôi đánh giá là có kiến thức tốt về một lĩnh vực dù cấp bậc của họ kém tôi hai hay ba cấp. Do đó, chúng tôi phải bắt đầu một quá trình xây dựng lâu dài trong đó cho phép tổ chức có hệ thống cấp bậc nhưng mọi người phải hợp tác cùng nhau để giải quyết vấn đề, cho dù họ ở bất cứ vị trí nào trong tổ chức. Cũng tại American Express, tôi đã hiểu rõ được giá trị chiến lược của công nghệ thông tin. Hãy nghĩ về những điều Thẻ American Express biểu trưng cho. Đó là một lĩnh vực kinh doanh điện tử khổng lồ, mặc dù chúng tôi không bao giờ nghĩ tới những thuật ngữ đó vào những năm 1970. Hàng triệu người đi du lịch trên toàn thế giới với các tấm thẻ trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Mỗi tháng, họ nhận một hóa đơn liệt kê các giao dịch, tất cả đều được chuyển đổi sang một đơn vị tiền tệ. Hiện nay, các chủ cửa hàng được thanh toán với hóa đơn giao dịch bởi hàng trăm, nếu không phải là hàng nghìn người trên toàn cầu mà họ không biết và có lẽ không bao giờ gặp lại. Tất cả những điều này đều được thực hiện chủ yếu qua điện tử, qua các trung tâm xử lý dữ liệu hàng loạt trên toàn thế giới. Tính cấp thiết của yếu tố công nghệ trong hoạt động kinh doanh này là điều mà tôi đã phải “vật lộn” trong nhiều năm. Đó cũng là lần đầu tiên tôi phát hiện ra hình ảnh một “IBM cũ”. Tôi sẽ không bao giờ quên ngày mà một vị giám đốc chi nhánh gọi cho tôi và nói gần đây họ đã lắp đặt máy tính Amdahl trong trung tâm dữ liệu lớn mà trước đó được lắp đặt toàn bộ bằng thiết bị của IBM. Anh ta nói rằng sáng đó đại diện của IBM đã đến và nói với anh ta rằng IBM đang rút lại tất cả sự hỗ trợ dành cho trung tâm xử lý dữ liệu hàng loạt theo quyết định của Amdahl. Tôi lặng người vì kinh ngạc. Vào thời điểm đó, Amercian Express là một trong những khách hàng lớn nhất của IBM, tôi không thể tin rằng nhà cung cấp lại có thể hành động ngạo mạn như vậy. Ngay lập tức, tôi gọi điện đến văn phòng giám đốc điều hành IBM hỏi liệu ông ấy có biết điều này hay không hay đã tha thứ cho hành vi này. Tôi không thể gặp được ông ấy và chỉ gặp nhân viên hành chính, cô ấy nói rằng ông ấy sẽ gọi lại. IBM là lãnh địa của những vị lãnh đạo dễ tính và vì thế, sự cố đã qua đi. Tuy nhiên, tôi không thể nào quên được sự việc đó. Tôi rời American Express ngày 1 tháng 4 năm 1989, để nhận lời tham gia cuộc thi mà giới truyền thông gọi là “cuộc thi sắc đẹp” của thập niên. RJR Nabisco, một công ty đóng gói hàng hóa lớn hoạt động được một vài năm trước khi sáp nhập với Công ty Thuốc lá R. J. Reynolds, xếp thứ chín trong số những công ty được ngưỡng mộ nhất nước Mỹ, các nhà săn đầu người gọi cho tôi nói như vậy. Tổ chức này đã trải qua một trong những cuộc phiêu lưu mạo hiểm nhất trong lịch sử kinh doanh nước Mỹ hiện đại: một cuộc đấu giá khác thường giữa các hãng đầu tư nhằm sở hữu riêng công ty này bằng cách mua lại dựa trên vay nợ (LBO). Đơn vị thắng thầu là hãng đầu tư mạo hiểm của Kohlberg Kravis Robers & Co. (KKR). Ngay sau đó, KKR mời tôi làm Giám đốc điều hành của công ty tư nhân mắc nhiều nợ này. Bốn năm sau đó, tôi hoàn toàn bị ngập trong những thách thức mới. Mặc dù hiểu rõ nhu cầu ngày càng cao về các công ty sản xuất hàng tiêu dùng ngay từ những ngày còn làm việc tại American Express, nhưng tôi thật sự dành hầu hết thời gian của mình tại RJR Nabisco để quản lý bảng cân đối vô cùng phức tạp. Bong bóng LBO trong thập niên 1980 bùng nổ ngay sau giao dịch của RJR Nabisco, mang đến vô số rắc rối cho nền kinh tế. Cuối cùng, vì nhận ra bản chất của vấn đề muộn nên KKP đã trả giá quá cao cho công ty này, và bốn năm sau đó, họ phải đối mặt với cuộc đua tái cấp vốn cho bảng cân đối, nhưng vẫn cố gắng giữ vẻ bề ngoài ổn định trong nhiều hoạt động kinh doanh riêng lẻ của công ty. Đó thật sự là một quang cảnh hỗn độn. Chúng tôi phải bán tổng tài sản trị giá 11 tỷ đô-la trong vòng 12 tháng đầu tiên. Chúng tôi có những khoản nợ mà tỷ lệ lãi suất lên đến 21% một năm. Chúng tôi có nhiều chủ nợ và hội các chủ nợ và tất nhiên là đã giải quyết hoàn toàn những khoản chi tiêu hoang phí trong thời kỳ quản lý trước đó. (Ví dụ, khi tôi tới nhậm chức, công ty có tới 32 vận động viên chuyên nghiệp trong danh sách bảng lương hàng tháng - tất cả đều trong “Nhóm Nabisco”.) Đó thật sự là thời kỳ khó khăn đối với tôi. Tôi thích xây dựng các doanh nghiệp, chứ không phải là gỡ bỏ chúng. Tuy nhiên, chúng ta đều có thể học hỏi kinh nghiệm từ tất cả những việc chúng ta làm. Tôi rời khỏi đây với kinh nghiệm này cùng sự hiểu biết sâu sắc về vai trò của tiền mặt trong hoạt động của công ty - “dòng tiền tự do” là thước đo quan trọng nhất đối với kết quả hoạt động cũng như khả năng bền vững của mỗi doanh nghiệp. Tôi cũng thu được những kinh nghiệm về mối quan hệ giữa quản lý và việc làm chủ. Tôi có được điều này tại McKinsey, một công ty tư nhân được sở hữu bởi các cổ đông. Vai trò của các nhà quản lý được coi trọng ngang với các cổ đông - không phải qua những hoạt động tài chính phi rủi ro như là quyền chọn cổ phiếu, mà qua quy trình chuyển số vốn đầu tư của họ thành quyền sở hữu trực tiếp công ty - trở thành một vấn đề quan trọng trong quan điểm quản lý tôi mang đến cho IBM. Cho đến năm 1992, tôi hiểu rằng khi RJR Nabisco đang hoạt động tốt, LBO sẽ không tạo ra nhiều lợi nhuận tài chính như mong đợi của các cổ đông. Tôi nhận ra rằng KKR đang tìm kiếm lối thoát, do vậy khiến tôi cũng có hành động tương tự. Cuốn sách này, bắt đầu từ trang tiếp theo, sẽ kể lại câu chuyện của tôi. Mời các bạn đón đọc Ai Nói Voi Không Thể Khiêu Vũ? của tác giả Louis V. Gerstner.
Từ Bản Năng Đến Nghệ Thuật Bán Hàng - Daniel H. Pink
Trong Phần 1 của “Từ bản năng đến nghệ thuật bán hàng”, Daniel trình bày các luận điểm để chúng ta suy nghĩ lại một cách rộng hơn về lĩnh vực bán hàng mà chúng ta đã biết. Ở Chương 1, tác giả sẽ chỉ cho bạn thấy các cáo phó thông báo cái chết của người chào hàng trong thế giới kỹ thuật số ngày nay đang sai lầm ghê gớm. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, cứ mỗi chín nhân công thì vẫn có một người kiếm sống bằng cách cố gắng khiến những người khác mua một món hàng. Có thể họ đang buôn bán các ứng dụng mẫu cho điện thoại thông minh và cung cấp các kinh nghiệm thay vì bách khoa toàn thư, nhưng họ vẫn làm việc trong lĩnh vực bán hàng truyền thống. Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên hơn là những gì xảy ra với tám người còn lại trong số chín người đó. Họ cũng đang bán hàng. Họ không rình rập khách hàng trong một phòng trưng bày đồ nội thất, nhưng họ - và cũng chính là chúng ta - đang tham gia vào lĩnh vực mà tác giả gọi là “bán hàng phi thương mại”. Chúng ta đang thuyết phục, năn nỉ và gây ảnh hưởng đến người khác để họ từ bỏ một thứ gì đó của mình và trao đổi nó với thứ mà chúng ta có. Những phát hiện trong cuộc phân tích đầu tiên trong số những phân tích cùng loại về các hoạt động của mọi người tại nơi làm việc sẽ cho bạn thấy chúng ta đang dành hơn 40% thời gian trong công việc của mình để tác động đến người khác. Và chúng ta coi việc đó rất quan trọng đối với thành công trong nghề nghiệp của mình. Ở Chương 2, bạn đọc sẽ được khám phá việc làm thế nào quá nhiều người trong số chúng ta rốt cuộc lại thuộc về ngành nghề gây tác động đến người khác này. Trong chương 3, tác giả sẽ chỉ cho bạn thấy cán cân quyền lực đã thay đổi như thế nào - và chúng ta đã di chuyển từ thế giới caveat emptor; người mua phải thận trọng, sang thế giới caveat vendior, người bán phải thận trọng ra sao - nơi sự trung thực, công bằng và minh bạch thường là con đường sống sót duy nhất. Từ đó dẫn đến Phần 2, nơi Dan chọn lọc các nghiên cứu từ lĩnh vực khoa học xã hội để tìm ra ba phẩm chất có giá trị nhất hiện nay trong việc tác động đến những người khác. Từ lâu đã có một câu ngạn ngữ trong giao dịch bán hàng là ABC (Always be closing) - “Luôn phải dứt điểm”. Ba chương trong Phần 2 giới thiệu các chữ cái ABC mới - Hòa hợp, hăng hái, và rõ ràng. Chương 4: Viết về “sự hòa hợp” - hòa nhập bản thân một người với các cá nhân, đội nhóm, và hoàn cảnh. Tác giã đưa ra một kho nghiên cứu dồi dào để trình bày với bạn đọc ba quy tắc của sự hòa hợp - và tại sao những người hướng ngoại lại hiếm khi là những người bán hàng tốt nhất. Mời các bạn đón đọc Từ Bản Năng Đến Nghệ Thuật Bán Hàng của tác giả Daniel H. Pink.
Trinh Quán Chính Yếu - Phép Trị Nước Của Đường Thái Tông - Ngô Hách
“Trinh Quán” là niên hiệu của Đường Thái Tông Lý Thế Dân (598−649). Lý Thế Dân sinh ra vào cuối thời kỳ thống trị của Tùy Văn Đế, lớn lên tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình nhà Tùy từ thịnh đến suy, cuối cùng bị diệt vong, đồng thời đích thân cùng với cha là Lý Uyên tham gia các hoạt động dẹp loạn, gây dựng nhà Đường. Lịch sử rối ren cuối Tùy đầu Đường đă để lại ấn tượng sâu sắc trong ông. Bởi vậy sau khi lên ngôi hoàng đế, ông đã chú ý tổng kết và đúc rút các bài học kinh nghiệm trị nước của các đời vua trước, nhìn thẳng vào hiện thực xã hội, lập ra hàng loạt chính sách có lợi cho sự thống nhất nước nhà, đoàn kết dân tộc, phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội, từ đó điều hòa hữu hiệu mâu thuẫn giữa các giai cấp, dân tộc cũng như nội bộ tập đoàn thống trị, dần tạo nên một cục diện thái bình thịnh trị. Theo sử sách ghi lại, thời kỳ Trinh Quán là thời kỳ thanh bình, quan lại thanh liêm, hình phạt không hà khắc, dân phong thuần phác. Khi Đường Thái Tông lên ngôi trong tình trạng rối ren cuối nhà Tùy, dân số thưa thớt, kinh tế tiêu điều, trăm họ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Trước tình trạng đó, vua tôi Đường Thái Tông đã một mặt tích cực áp dụng mọi biện pháp làm trong sạch bộ máy thống trị, mặt khác tiết kiệm, đồng cam cộng khổ cùng nhân dân. Nhiều năm sau, kinh tế dần phát triển, nông nghiệp liên tục được mùa, xã hội ổn định, dân phong thuần phác, thậm chí đi đường gặp của rơi không nhặt, đêm ngủ không cần đóng cửa. Năm Trinh Quán thứ tư, cả nước chỉ có 29 người bị xử tử hình. Năm Trinh Quán thứ sáu, Đường Thái Tông cho phép 390 tử tù về từ biệt người nhà, mùa thu năm sau trở lại “thọ hình”. Đến hạn mà không một tội phạm nào bỏ trốn, đây là một kỳ tích vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Trung Quốc. Có thể nói, “Trinh Quán chi trị” là nét son rực rỡ nhất, chói lọi nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc hơn hai nghìn năm. Vậy thì Đường Thái Tông Lý Thế Dân cùng quần thần đã thực hiện “Trinh Quán chi trị” như thế nào? Các nhà chính trị và sử học từ đầu nhà Đường trở đi đã nỗ lực tìm câu trả lời. Người đầu tiên coi trọng vấn đề này và cung cấp cho hậu thế sử liệu đầy đủ và tư tưởng nghiên cứu cơ bản là Ngô Hách thời Đường qua bộ “Trinh Quán chính yếu”. Ngô Hách (670 − 749) là một nhà sử học, sinh ra vào thời Đường Cao Tông, người Tuấn Nghi, Biện Châu (nay là Khai Phong, Hà Nam). Từ nhỏ ông đã hiếu học, rất thích nghiên cứu sử sách, điều này đã đặt nền tảng vững chắc cho nghề viết sử của ông sau này. Cách viết sử của Ngô Hách trọng “giản hạch” (đơn giản mà trúng trọng tâm), được gọi là “lương sử” (sử tốt). Đồng thời ông cũng coi trọng nguyên tắc viết “thẳng thắn không kỵ húy”, được người đương thời đánh giá rất cao. “Trinh Quán chính yếu” là một bộ sử được viết theo chuyên đề, chủ yếu ghi lại lời bàn luận chính trị của vua tôi Đường Thái Tông. Bộ sách này được các nhà nghiên cứu Nhật Bản đánh giá cao hơn bộ “Tam quốc diễn nghĩa” về tư tưởng chính trị. Mời các bạn đón đọc Trinh Quán Chính Yếu - Phép Trị Nước Của Đường Thái Tông của tác giả Ngô Hách.
Từ Tơ Lụa Đến Silicon - Câu Chuyện Về Toàn Cầu Hóa Thông Qua 10 Cuộc Đời Lạ Thường - Jeffrey E. Garten
Sách nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của 10 nhân vật có nhiều ảnh hưởng, tạo ra những bước ngoặt trong sự phát triển của lịch sử thế giới, bao gồm: Gengis Khan, hoàng tử Henry, Robert Clive, Mayer Amschel Rothschild, Cyrus Field, John D. Rockefeller, Jean Monnet, Magaret Thatcher, Andrew Grove, Đặng Tiểu Bình và bàn thêm về người giỏi nhất còn chưa xuất hiện. Tuy nhiên, sách không chỉ nói về lịch sử mà bàn về những việc làm của họ xét ở góc độ người quản lý hiện đại, vì thế sách có tính ứng dụng cho hiện tại và tương lai. Mời các bạn đón đọc Từ Tơ Lụa Đến Silicon - Câu Chuyện Về Toàn Cầu Hóa Thông Qua 10 Cuộc Đời Lạ Thường của tác giả Jeffrey E. Garten.