Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)

Anna Karenina là một tiểu thuyết của nhà văn Nga, Lev Nikolayevich Tolstoy, được đăng tải nhiều kỳ trên tờ báo Người đưa tin từ năm 1873 đến năm 1877 trước khi xuất bản thành ấn phẩm hoàn chỉnh.   Lev Tolxtoi (1828 - 1910) là một trong những nhà văn cổ điển lớn nhất nước Nga, đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng:   - Truyện kể về Xevaxtopol,   - Luyxerno, Bốn năm sau khi viết xong Chiến tranh và Hòa bình, ngày 19-3- 1873, L. Tolstoi lại hạ bút viết dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết dài Anna Carenina. Cũng như nhiều nhà văn hồi đó, Tolstoi chịu ảnh hưởng của Puskin. Ông nói: "Tôi học tập được nhiều ở Puskin, ông là người cha của tôi, ta nên học tập ông". Đây không phải là ảnh hưởng bề ngoài về cách viết, giọng văn; cũng không phải là vay mượn, bắt chước cốt truyện này nọ. Những tác phẩm Puskin đã khơi dậy tất cả sức lực sáng tác sẵn có của Tolstoi, thôi thúc ông làm việc và gợi nhiều ý sáng tác tốt, mới. *** Anna Karenina - Nàng thơ với vẻ đẹp u buồn của Lev Tolstoy Nếu bài thơ Tôi Yêu Em của thi hào Nga Pushkin được khởi nguồn từ mối tình không thành với con gái viện sĩ viện Hàn lâm Nga thì cuốn Anna Karenina của Lev Tolstoy được lấy ý tưởng từ con gái của Pushkin. Đó là cô Maria Pushkina. Trong lần đầu gặp gỡ Pushkina tại bữa ăn tối, Lev Tolstoy đã bắt đầu lưu ý tưởng viết cuốn sách ấy. Cũng có thể nói con gái nhà thơ Pushkin chính là nguyên mẫu của hình tượng nàng thơ Anna Karenina trong cuốn tiểu thuyết của tên. Kể từ ngày đầu phát hành vào năm 1877, cuốn sách Anna Karenina đã gây được tiếng vang trong giới phê bình văn học Nga. Cuộc sống khắc họa một bóng dáng nàng thơ u buồn Anna Karenina. Cô sống trong vòng dây xiềng xích, trói buộc tự do trong xã hội Nga những năm bất ổn chính trị với tư tưởng phong kiến già cỗi. Anna Karenina vốn rất yêu tiểu thuyết, cô đọc nhiều cuốn sách và cảm thấy như đó là cách để cô sống những cuộc đời khác. Những cuộc đời tự do, tự chủ và hạnh phúc hơn. Những thứ mà cô chưa từng biết đến, chưa từng nếm trải. Mọi chuyện bắt đầu từ lòng ham mê quyền thế và tiền bạc của bà cô của Anna. Bà đã đem Anna gả cho Karenin, một người có danh vọng và quyền lực, một người mà Anna không có tình yêu. Cuộc hôn nhân ấy đem đến cho gia đình Anna những lợi ích lớn. Anh trai của cô trở thành Chánh án dù có thành tích học tập không tốt. Tất cả là nhờ quyền lực của Karenin. Và cuộc hôn nhân ấy cũng chấm dứt tất cả cuộc đời tự do, hạnh phúc của Anna Karenina. Cuốn sách một nghìn trang: một xã hội Nga đương thời thu nhỏ Ngài Karenin, chồng của Anna là một người có danh vọng và địa vị trong chính trường. Vì thế ông luôn quan tâm cách xã hội thượng lưu nghĩ gì về mình hơn là tự yêu thương và nhìn nhận bản thân. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Sống ở đời đau khổ nhất là nhìn người khác mà sống và sống để người khác nhìn.". Có lẽ Karenin chính là loại người như vậy. Ngài luôn làm theo những gì giới thượng lưu trông đợi, khiến mọi người phải ngưỡng mộ. Đó là thứ sĩ diện hão vốn phổ biến và bao trùm lên nước Nga trong những năm đầy biến động. Mọi thứ trong cuộc đời ngài Karenin đều vận hành như kế hoạch bản thân vẽ ra. Kể cả việc lấy vợ, kết hôn cùng Anna Karenina cũng là vì muốn giới thượng lưu nhìn thấy, mọi người ngưỡng mộ. Karenin lấy Anna vì cho rằng mình phải làm như vậy. Vì Anna là một người phụ nữ học thức, có khả năng quán xuyến gia đình, xã giao với giới thượng lưu, chứ không phải vì yêu và hoàn toàn không có tình yêu. Hôn nhân chỉ là một thứ làm đầy đủ, trang hoàng cho những thứ mà ngài Karenin có. Là thứ làm đẹp dòng họ Karenin trong xã hội Nga đương thời. Nhiều người vẫn nghĩ rằng Anna Karenina khi lấy ngài Karenin, đặt chân vào giới thượng lưu sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của người thiếu phụ trẻ ấy trong tám năm hôn nhân lại là những cuộc móc nối quan hệ thượng lưu theo ý của chồng. Ngài Karenin luôn muốn Anna phải làm quen với những phu nhân, tiểu thư của tầng lớp quý tộc giúp ngài. Khi ấy ngài sẽ dễ dàng trong con đường sự nghiệp hơn. Anna Karenina không thích tiệc tùng, cô chưa từng muốn đặt chân đến những nơi ấy. Cô yêu tiểu thuyết, yêu nghệ thuật, yêu những thứ gọi là cái đẹp, gọi là tự do. Nhưng cô lại sống suốt tám năm trong cái cuộc sống, trong cái xiềng xích khóa chặt tự do mà chính người cô ruột của mình đã đặt lên cổ mình. Chỉ vì tiền, người cô ruột đã đem Anna gả cho ngài Karenin. Và chỉ vì tiền mà bà cô ấy đã đốt tự do, hạnh phúc đời đứa cháu ruột Anna của mình cháy thành tro tàn. Chuyến xe lửa tình cờ Anna sẽ sống trong sự sắp đặt đến hết cuộc đời mình mãi cho đến khi cô đi chuyến xe lửa tình cờ ấy, gặp con người định mệnh đó. Đó là chàng sĩ quan Vronsky. Đại úy Vronsky là con người tự do, quyết đoán và can đảm. Anh từng nói: "Tôi sinh ra là người Digan và sẽ chết như người Digan.". Digan vốn là một tộc người yêu tự do, thích lang thang và phóng khoáng. Sĩ quan Vronsky cũng vậy, anh thích sống và yêu một đời tự do. Nhưng anh lại yêu Anna, một người không được phép sống cuộc đời đó. Đại úy Vronsky phải lòng Anna Karenina trên đoàn tàu xa lạ không hẹn ước. Chỉ một thoáng lãng mạn chàng sĩ quan đã không thể quên cô. Nhưng sau vài lần gặp gỡ, Vronsky nhận ra, có lẽ anh với Anna là yêu nhưng không thể yêu. Anh bước xuống, cố gắng không nhìn cô quá lâu như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời. Nhưng cũng như mặt trời, anh vẫn trông thấy cô dù chưa một lần chạm mắt Người thiếu phụ ấy dẫu bị ép lấy ngài Karenin nhưng họ vẫn là vợ chồng. Dẫu họ không hạnh phúc, Anna không hạnh phúc nhưng giới thượng lưu lại công nhận họ hạnh phúc. Còn Vronsky chẳng là gì cả, anh chỉ là một người trót yêu Anna. Một người xa lạ bên chuyến tàu định mệnh đem đến cho Anna sự hy vọng đầu tiên trong đời. Nhưng có lẽ đó chính là sự hy vọng muộn màng và bi thương. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Một trong những đau đớn của đời người là lúc chưa có năng lực lại gặp người mình muốn chăm sóc cả đời.". Có lẽ câu nói này giống với số phận của sĩ quan Vronsky. Lúc trong tay anh không có gì cả, lại gặp được người anh muốn che chở một đời. Gặp đúng người, nhưng lại sai thời điểm. Vronsky đã gặp Anna muộn mất tám năm trong khi cô đang đau khổ. Nhưng anh không thể bước tiếp mà chỉ có thể lùi lại phía sau. Vì Vronsky đã chậm mất tám năm, lỡ mất một đời. Vronsky không thể bước tiếp, còn Anna Karenina, cô lùi bước. Cô trở về Matxcova, kết thúc chuyến thăm quê sớm hơn dự kiến. Và chấm dứt hy vọng cuối cùng của mình với Vronsky. Màu sắc lãng mạn làm nền cho yếu tố hiện thực và tư tưởng tự do Qua cuốn sách Anna Karenina, Lev Tolstoy muốn chứng minh một điều rằng lãng mạn không phải là thứ vẻ đẹp để tô hồng cho cuộc sống hàng ngày. Lãng mạn không phải thứ xa xỉ mà người ta vẫn nói với nhau. Không phải là thứ sách viết về mở đầu thì phải yêu nhau đắm đuối. Không phải là thứ sách gợi cho người đọc quan tâm đến kết thúc là đau khổ hay vui vẻ, cặp đôi yêu nhau có đến nhau được hay không. Sau tất cả đó chỉ là tình yêu chứ không là gì cả, không có ý nghĩa nhân văn nào cả. Anna Karenina là cuốn sách muốn nói với người đọc và xã hội đương thời rằng tự do còn quan trọng hơn cả tình yêu, con người cần yêu trong tự do và đó là quyền của họ. Trong hiến pháp của Mỹ năm 1877, Tổng thống Washington đã tuyên bố rằng: Chúng tôi khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của Anna Karenina lại không có những quyền đó. Cô đã không hạnh phúc, không có quyền hạnh phúc. Đã không có tự do, bị ép sống không có tự do. Cô đã bị gượng ép kết hôn và không có quyền ly hôn. Cuốn sách đặt ra một câu hỏi tình huống nhức nhối muốn người đọc trả lời. Đó là nếu sống cuộc đời hôn nhân bị ép buộc thì phải làm sao. Chịu đựng hay ly hôn và đi tìm hạnh phúc của mình? Anna đã chịu đựng tám năm, cô không muốn phải sống như vậy nữa. Nhưng lại không thể ly hôn. Vì định kiến xã hội đương thời không cho phép một phụ nữ thượng lưu ly hôn. - Làm tất cả, nhưng đừng ly dị! - Darya Alexandrovna đáp. - Chị hiểu tất cả là thế nào? - Chao, thật ghê sợ! Cô ấy sẽ không phải là vợ của ai nữa, đời cô ấy thế là bỏ đi! Cuộc đời thế là bỏ đi - đó là cách mà xã hội nhìn nhận những người phụ nữ có ý định ly hôn. Giá trị của người phụ nữ đến thế là cùng. Anna Karenina đã không còn đường lui nữa. Phía trước cô là định kiến xã hội, còn phía sau cô lại là cuộc hôn nhân mất tự do. Không thể bước tiếp nữa, nhưng cũng không thể lùi bước được nữa. Sức chịu đựng của một người đến thế là cùng, ròng rã suốt tám năm, cô không thể chịu đựng được nữa. Cô sống trong cuộc hôn nhân đau khổ với ngài Karenin, nhưng khi gặp sĩ quan Vronsky thì lại càng đau khổ hơn. Có lẽ đại úy Vronsky cũng giống như thứ ánh sáng đẹp đẽ, cao quý làm đau mắt một người đã ngần ấy năm không nhìn thấy ánh sáng như Anna. Cô chỉ còn cách chọn con đường thứ ba, con đường buông bỏ. Buông bỏ cả đau khổ và và niềm vui muộn màng với sĩ quan Vronsky, buông bỏ cả tự do và định kiến. Sẽ không có cách nào để thoát khỏi định kiến nếu không buông bỏ tự do của bản thân. Đó là điều mà xã hội già cỗi đương thời của Nga đem đến cho thần dân nước mình khi họ muốn sống một đời tự do. Giải thoát bản thân mình bằng cái chết, Anna Karenina không chỉ muốn thoát thoát khỏi đớn đau mà còn muốn giáng một đòn mạnh mẽ vào ý thức hệ già cỗi, lạc hậu của nước Nga lúc bấy giờ. Và luồng sáng đã soi cho nàng thấy rõ cuốn sách cuộc đời mình với biết bao lo âu, phản phúc và đau khổ, lúc này càng bừng lên chói lọi hơn, rọi chiếu vào mọi vật bấy lâu nay chìm trong bóng tối; rồi nó rung rinh, mờ đi và tắt ngấm vĩnh viễn. Mãi về sau, đến năm 1941, khi tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao ra đời, người ta vẫn nhắc mãi về Anna Karenina của Lev Tolstoy: cái chết của Chí Phèo và Anna Karenina sao mà giống nhau quá. Chí Phèo muốn sống lương thiện nhưng không thể lương thiện, Anna Karenina muốn tự do nhưng không thể tự do. Họ chỉ đành tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình. Và cũng để những người sống đau khổ như họ không phải sống cuộc đời như vậy nữa. Cái chết ấy bất lực, là tiếng thét oan khuất giữa xã hội đầy biến động, đầy bất công. Nhưng cái chết ấy lại dũng cảm, là lời tố cáo đanh thép về một xã hội thiếu tự do được viết bằng máu và nước mắt của Anna Karenina. Anna Karenina- tác phẩm lớn nhất mọi thời đại do tạp chí Times bình chọn Cuốn sách Anna Karenina của Lev Tolstoy được phát hành lần đầu năm 1877, sau 147 năm, cuốn sách vẫn vẹn nguyên giá trị. Cuốn sách ấy vinh dự được Times bình chọn là tác phẩm lớn nhất mọi thời đại và gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền tư tưởng thế giới. Văn hào Lev Tolstoy, tác giả của cuốn sách Anna Karenina được tôn xưng là "Sư tử văn học Nga". Ông là nhà tư tưởng, cải cách giáo dục lớn với chủ nghĩa hoà bình và tư tưởng bất bạo động. Qua Anna Karenina ông đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về tư tưởng tự do đương thời: Trên hết, tôi sẽ không muốn mọi người nghĩ rằng tôi muốn chứng minh bất cứ điều gì. Tôi không muốn chứng minh bất cứ điều gì, tôi chỉ muốn sống; không gây ác cho ai ngoài bản thân mình. Tôi có quyền, phải không? Tư tưởng của Lev Tolstoy đã gây ảnh hưởng đến những con người có khả năng gây ảnh hưởng lớn cho xã hội. Trong đó có nhà lãnh đạo đảng Quốc Đại Ấn Độ, người đấu tranh cho tự do, Mahatma Gandhi. Martin Luther King, Jr, chủ nhân của giải Nobel Hòa bình năm 1964 cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng tự do bất bạo động của Lev Tolstoy. Có thể thấy, giá trị lớn nhất của một cuốn sách không phải là chân hay mỹ mà chính là thiện, là giá trị xã hội lan tỏa và làm xã hội tốt đẹp hơn. Đó còn là lòng yêu thương và bao dung, là con người cần được yêu thương và có quyền sống hạnh phúc. Trong tất cả nỗi buồn của con người, không có gì mang lại sự an ủi ngoài tình yêu và đức tin, và trong tầm nhìn của lòng từ bi của Chúa Kitô đối với chúng ta, không có nỗi buồn nào là tầm thường. Cuốn sách Anna Karenina không kết thúc bằng sự ra đi của Anna, mà là cuộc hành quân tình nguyện của sĩ quan Vronsky. Sau ngày Anna rời bỏ thế gian, trong lòng Vronsky có những chuyển biến quan trọng. Chàng sĩ quan rời quê hương và tham gia đội quân tình nguyện trong chiến tranh giúp Serbia chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Vẫn là lòng tin đó, lòng tin tự do không xa sẽ đến. Cùng với Chiến Tranh Và Hòa Bình, cuốn sách Anna Karenina đã đem tư tưởng tự do của Lev Tolstoy đi khắp thế giới. Sống tự do và hạnh phúc luôn là điều viên mãn nhất trên đời. Và khi nào, nơi nào đó trên thế gian này còn thiếu hai điều ấy, thì con người sẽ tiếp tục đấu tranh. Vì lẽ phải luôn đúng và luôn chiến thắng tất cả. Bài viết bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)của tác giả Lev Tolstoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bác sĩ Jekyll và ông Hyde - Robert Louis Stevenson
Ra đời năm 1886, đến nay, Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (tựa tiếng Anh: Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde) đã tròn 130 tuổi. Ít ai biết cuốn tiểu thuyết này có số phận lênh đênh, chìm nổi trước khi được thừa nhận là một kiệt tác văn chương.   Mặc dù, nhiều tờ báo về văn chương uy tín trên thế giới đã xếp Bác sĩ Jekyll và ông Hyde vào danh sách “100 cuốn tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại”. Nhưng ở thời điểm mới ra đời, tác phẩm chỉ được xem như một cuốn tiểu thuyết kỳ dị, ma quái, thuộc hàng “tác phẩm hạng nhì”. Gần 100 năm sau, giá trị của nó mới được nhìn nhận một cách đúng đắn. Bác sĩ Jekyll và ông Hyde là câu chuyện về một bác sĩ có tính cách khác thường. Sau khi nghiên cứu được phương pháp làm thay đổi gương mặt tiến sĩ Jekyll trở thành một con người khác, có tên là Hyde. Từ đó, phần thú tính trong con người của tiến sĩ Jekyll cũng được bộc lộ dưới nhân dạng của ông Hyde. Hyde đã gây ra hàng loạt vụ giết người dã man. Lần đầu tiên, Robert Louis Stevenson đưa ra những hình dung về hội chứng đa nhân cách của con người, trước khi y học ghi nhận về nó. Vì vậy, Jekyll và Hyde từ lâu không chỉ là tên của hai nhân vật mà đã trở thành thuật ngữ được dùng trong tâm lý học. Bác sĩ Jekyll và ông Hyde nhiều lần được đưa lên sân khấu kịch. Năm 1931, lần đầu tiên đạo diễn Rouben Mamoulian đã chuyển thể cuốn tiểu thuyết này thành phim. Bác sĩ Jekyll và ông Hyde  là bộ phim kinh dị đầu tiên dành được tượng vàng Oscar cho hạng mục Nam chính xuất sắc nhất với diễn xuất của tài tử Fredirc March. Phiên bản điện ảnh năm 1945 với sự tham gia diễn xuất của nữ minh tinh người Thụy Điển - Ingrid Bergman cũng được đánh giá cao. Trong 130 năm qua, tác phẩm này đã được chuyển thể tất cả 100 lần. Hãng Universal dự kiến sẽ thực hiện một phiên bản mới về cuốn tiểu thuyết này trong thời gian tới. Không chỉ vậy, Robert Louis Stevenson cũng là nhà văn có tác phẩm được chuyển thể nhiều nhất trên thế giới. Các tác phẩm của ông đã được chuyển thể hơn 200 lần. Ngoài Bác sĩ Jekyll & ông Hyde,  Robert Louis Stevenson còn một tác phẩm nổi tiếng khác khá quen thuộc với độc giả Việt Nam là Đảo giấu vàng (Treasure Island). *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. *** Luật sư Utterson là người có nét mặt thô kệch không bao giờ ánh lên một nụ cười, nói năng phớt lạnh, kiệm lời và lúng túng, khí chất rụt rè, dáng cao thon, khô khan, ảm đạm, nhưng lại có vẻ dễ thương khó tả. Trong những buổi gặp gỡ thân mật, và khi có rượu vang hợp với khẩu vị, mắt ông rạng ngời một tình cảm nồng nàn nhân hậu, một điều quả thật chẳng bao giờ tìm thấy trong lời nói của ông, nhưng tình cảm ấy không chỉ lặng lẽ biểu hiện qua nét mặt sau bữa ăn, mà thường bộc lộ rõ rệt qua hành động trong đời sống hằng ngày của ông. Bản thân ông sống khổ hạnh; khi một mình ông chỉ uống gin để tiết chế sở thích thưởng thức rượu ngon; và tuy thích kịch nghệ nhưng trong hai mươi năm ông chưa một lần nào bước chân vào cửa rạp hát. Tuy nhiên ông sẵn lòng khoan dung đối với người khác; đôi khi băn khoăn gần như tới mức ganh tị trước những thôi thúc mạnh mẽ muốn dính dấp vào các hành vi sai trái của họ. Và trong bất kỳ hoàn cảnh túng quẫn cùng cực nào ông cũng thường có khuynh hướng giúp đỡ hơn là trách cứ. Ông vẫn hay nói một cách ý nhị: “Tôi có xu hướng xa rời giáo điều chính thống giống như Cain[1]. Tôi để anh em mình đi với ma quỷ theo cách riêng của họ”. Vì cá tính này, ông thường ngẫu nhiên là người quen biết được tin cẩn cuối cùng và có ảnh hưởng tốt cuối cùng trong cuộc đời của những kẻ thất cơ lỡ vận. Và đối với những người như thế, khi họ tìm đến văn phòng ông, ông vẫn cư xử như bình thường, không hề tỏ ra một chút thay đổi nào. Hẳn nhiên thái độ đáng nể này là chuyện dễ dàng đối với ông Utterson, vì ông tuyệt đối không khoa trương, và thậm chí hình như tình bạn của ông đối với mọi người đều đôn hậu như nhau. Nó là biểu hiện của một người khiêm tốn đón nhận vòng thân hữu do bàn tay của số phận dọn sẵn cho mình, và đó là kiểu của ông luật sư. Bạn bè ông là những người cùng huyết thống, hay những người ông đã biết từ lâu. Lòng quý mến của ông, như cây trường xuân lớn lên theo thời gian, không đòi hỏi đối tượng phải xứng hợp. Vì thế, chẳng có gì để ngờ vực sự gắn bó của ông với ông Richard Enfield, một người bà con xa nổi tiếng khắp thành phố. Thiên hạ thấy khó mà hiểu được hai người này có thể thấy gì ở nhau, hay họ có thể tìm được đề tài chung nào. Những người tình cờ gặp họ trong những lần đi dạo với nhau vào ngày Chủ nhật kể rằng họ chẳng nói năng gì, nom thẫn thờ một cách lạ lùng, và họ sẽ vồn vã thở phào nhẹ nhõm thấy rõ khi có một người bạn xuất hiện. Dù thế, hai người dành mọi nỗ lực để có các cuộc du ngoạn này, xem đó là lúc quý giá nhất trong tuần, và họ không những gác lại mọi dịp vui khác mà thậm chí còn hoãn cả những việc cần làm, để có thể hưởng các buổi đi dạo này mà không bị ai ngăn trở. ... Mời các bạn đón đọc Bác sĩ Jekyll và ông Hyde của tác giả Robert Louis Stevenson.
Vòng Tay Người Khác - Đào Hiếu
Ð ôi khi nhìn ra đường phố, thấy xe cộ dập dìu, tôi nghĩ: những người đi đường kia, thoạt nhìn có vẻ như là những cái bóng thoáng qua nhưng thực sự bên trong mỗi con người ấy là cả một thế giới bí ẩn mà ngoài người ấy ra không ai có thể hiểu nổi. Nếu không có một biến cố gì đặc biệt chẳng hạn như một tai nạn giao thông thì người ta làm sao có thể biết dưới đáy hộp đựng son phấn kia có một bức thư hẹn hò, làm sao người ta có thể biết trong ngăn tủ khóa kín kia có những phác thảo chân dung khỏa thân. Ðó chỉ là một vài thứ mà tôi có thể biết được. Còn biết bao nhiêu thứ khác đã được tiêu hủy đi, bao nhiêu thứ khác không để lại dấu vết. Hai người đã làm gì trong những cuộc hẹn hò kéo dài suốt hai năm trời? Thế thì mấy cô gái đang đi ngoài đường kia, trong túi xách của họ đựng những gì? Trong ngăn tủ của họ chứa những gì? Và trong tâm hồn họ, trong ký ức họ? Cả những người đàn ông nữa. Trước đây tôi vẫn nhìn con người một cách đơn giản theo đúng cái lối đánh giá nhân viên, lính lác của mình. Chẳng hạn như về ưu điểm có gì, khuyết điểm có gì, mặt mạnh của người đó là gì, mặt yếu là gì… Và suốt mấy năm làm giám đốc tôi đã không hiểu gì về tâm hồn của một con người. Tôi đã không hiểu gì về vợ tôi. Và tôi cũng chẳng hiểu gì về tay họa sĩ ấy. Bởi vì xưa nay tôi vẫn coi thường hắn. Người mà tôi nghi ngờ có quan hệ với vợ tôi lại là Ðặng Tài. Tôi thấy hắn theo tán tỉnh vợ tôi, mời vợ tôi đi nhảy đầm, đi ăn nhà hàng… Vậy mà hắn chỉ là gã nhân tình hạng nhì của Huệ. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. Mời các bạn đón đọc Vòng Tay Người Khác của tác giả Đào Hiếu.
Tiếng Gọi Từ Vì Sao Xa - Shinkai Makoto & Ooba Waku
“Noboru hai tư tuổi ơi,  Mikako mười lăm tuổi đây. Này, cho đến giờ, mình vẫn cực kỳ, cực kỳ thích Noboru đấy…” Bằng giọng văn tự sự, cam chịu mà đau thấu tim, Tiếng Gọi Từ Vì Sao Xa đẩy khoảng cách vật lý trong tình yêu tới cực hạn. Câu chuyện khởi đầu bằng cách đưa cô bé lên vũ trụ, còn cậu bé ở địa cầu. Không điện thoại, không tin nhắn, càng không thể gặp mặt, chỉ có những dòng email bay qua bay lại nhờ các trạm trung chuyển không gian. Những rung động đầu đời non thơ, ngây ngô nhưng đã vấp phải thử thách ghê gớm nhất về thời gian, không gian, lẫn biến đổi sinh học. Một ngày trên trời bằng cả năm dưới hạ giới… Câu miêu tả tưởng chừng hoang đường thường gặp trong truyện cổ bỗng trở thành hiện thực đối với họ, thậm chí còn khắc nghiệt hơn, vì một email gửi đi có thể tám năm sau mới nhận được, làm lỡ làng bao nhiêu tháng ngày tuổi trẻ tươi đẹp lẽ ra đã được dùng để vun đắp cho những rung động kia nảy nở tròn vẹn thành tình yêu. Đọc xong, ta sẽ nhận ra rằng, khoảng cách trái đất tới thiên hà có khi chẳng đến nỗi đáng sợ bằng khoảng cách giữa hai con tim. Không rõ tiếng lòng mình có được người thương đón nhận hay không, đó mới là điều đáng buồn nhất trong một mối tình. *** Tuy mới nhập ngũ, lại vừa qua Tuần lễ Vàng nhưng tôi vẫn muốn xin nghỉ phép thử xem sao. Có điều, việc bỏ tiền ra mua vé tàu con thoi về Trái đất bằng tháng lương đầu còm cõi mới khiến tôi đau đầu hơn cả. Tôi gần như đã quen với công việc của hạm đội, tuy vậy, từ sau chiến dịch cứu trợ Lysithea, tôi vẫn chưa được leo lên chiến hạm liên sao đời mới thêm lần nào, thay vào đó phải tiếp tục khóa huấn luyện trên căn cứ Mặt trăng. Theo lịch trình, tháng Sáu tới, tôi có thể bắt đầu làm việc trên tàu. Tương tự như các thành viên được tuyển chọn khác của hạm đội, Nagamine đã giải ngũ. Trước mắt, cô có thể ở nhà nghỉ ngơi suy ngẫm về những chuyện đã qua. Tuy vẫn muốn tiếp tục phục vụ hạm đội nhưng chỉ ngồi trên Tracer, cô mới thấy thỏa mái. Tổng tư lệnh đánh giá rất cao khả năng của Nagamine nên ông vẫn đang nỗ lực để giữ cô ở lại. Lúc gặp nhau. cô đang mặc đồng phục y tá. Cô từng nói với tôi, nếu có thể ở trong cùng một hạm đội thì cô làm y tá cũng tốt. Từ Agartha trở về, tuy chẳng có bằng cấp gì nhưng cô đã cố gắng giúp đỡ đội ngũ y bác sĩ và trên thực tế đã trải qua công việc này suốt bốn năm trời. Có lẽ cô nên đi học ngành Y để lấy bằng. Đó là một ý tưởng không tồi. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Gọi Từ Vì Sao Xa của tác giả Shinkai Makoto & Ooba Waku.
Nhân Ngư Công Chúa - Thẩm Thệ Hà
Thủy Tinh cung hôm nay tưng bừng, rực rỡ. Toàn dân rộn ràng tấp nập dự hội Mùa Xuân vừa là ngày lễ mừng Nhân Ngư công chúa vừa đến tuổi cập kê, theo tục lệ triều đình Thủy quốc. Xứ Thủy Tinh là một xứ của giống Nhân ngư một giống dân đầu người, mình người, đuôi cá, ở tận dưới đáy đại dương. Hoàng đế và Hoàng hậu vô cùng phúc hậu. Công chúa Nhân ngư được vua ban danh hiệu là Thủy Tinh công chúa. Nàng là một trang quốc sắc, không một mỹ nhân nào ở trần gian có thể so sánh được với nàng. Dân cư vui vẻ sống trong cảnh thái hòa. Tiếng trúc, tiếng tơ hòa với giọng hát mê hồn ngày ngày vang lên khắp nơi... Hôm nay là ngày Đại hội nên Công chúa trang điểm cực kỳ diễm lệ. Mái tóc huyền óng ả được điểm thêm những cánh hoa li ti đủ màu. Gương mặt xinh tươi, duyên dáng lạ thường, sáng rỡ như một viên ngọc trân châu, dịu hiền như một đài hoa còn phong kín nhụy. Đôi mắt long lanh tỏa ra một hấp lực huyền diệu, lại phảng phất vẻ tình tứ qua làm mi chớp chớp mơ màng. Nụ cười tươi thắm thỉnh thoảng điểm trên làn môi mọng đỏ. Theo phong tục của loài Nhân ngư, mặc dầu là Công chúa, nàng không vận xiêm y kín đáo như người trần, cho nên nhan sắc của nàng càng mơn mởn tuyệt vời trong dáng dấp yểu điệu, ngây thơ. Hoàng đế ngự trên một cái ngai bằng san hô, mã não. Bên cạnh ngài, Hoàng hậu uy nghiêm ngồi trên một chiếc ghế bằng vàng. Công chúa khép nép đứng bên, tựa mình bên tay ghế của Mẫu hậu. Trước sân rồng, các hàng văn ban võ bá phân ngôi thứ ngồi hai bên, chờ đợi thưởng thức cuộc trình diễn nghệ thuật của đoàn vũ nhạc hoàng gia. ... Mời các bạn đón đọc Nhân Ngư Công Chúa của tác giả Thẩm Thệ Hà.