Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Giá Của Tự Do

Stephanie có sắc đẹp cổ điển, nhưng hơn thế, nàng có một trái tim đam mê. Ham thích mạo hiểm, nàng dám lao đầu vào những cuộc tình cuồng nhiệt và cũng sẵn sàng chịu trả giá cho những mối tình của mình. Một tính cách như vậy lại ra đời trong thời đại bão táp của nước Pháp nửa cuối thế kỷ XIX với những cuộc tranh giành quyền lực trong nước, chiến tranh ở ngoài nước, những cuộc xâm lược thuộc địa và sự phát triển nhanh chóng của các công ty liên quốc gia, ắt cuộc đời nàng phải bảy nổi ba chìm với ... yêu đương. Số phận éo le đã đẩy Stéphanie lưu lạc khắp năm châu và rơi vào đủ những mối tình hết sức khác nhau: - Nhà kinh doanh trẻ tuổi Armand Dytteville có tài sản lớn ở Nam Thái Bình Dương. - Chàng sĩ quan điển trai, tùy tùng của hoàng đế Napoléon III. - Chàng quý tộc Nga hào hoa Boris tại kinh thành Saint Petersburg. - Một thanh niên bản xứ tại miền đất hoang vu, Yann Kendelec. - Và ... văn hào Victor Hugo, cây bút vĩ đại đồng thời cũng nổi tiếng là thuộc số những đàn ông có nhu cầu tình ái mãnh liệt nhất trong lịch sử thế giới ... STEPHANIE lấy nhân vật cùng tên làm trung tâm, được viết thành 4 cuốn với tên gọi như sau: 1. Bốn mùa yêu. 2. Vì em yêu anh. 3. Cái giá của tự do. 4. Ngọn lửa tình. Tuy là bốn cuốn cùng viết về một nhân vật, song cũng như bộ tiểu thuyết Angelic đã quen thuộc với bạn đọc, mỗi cuốn đều là những câu chuyện hoàn chỉnh, độc lập với nhau, không nhất thiết phải đọc toàn bộ tác phẩm hoặc đọc theo trình tự nhất định mới thấu hiểu được nó. Tất nhiên, hy vọng rằng bạn đọc sẽ gắn bó và say mê với số phận của Stéphanie để không bỏ sót một cuốn, một tập nào, như đọc giả phương Tây đã hết sức hoan nghênh STÉPHANIE khiến bộ sách được tái bản liên tục trong vòng 10 năm nay kể từ khi nó ra đời. *** LÁ THƯ CỦA YVES KENDELEC Stephanie giận dữ lao ra khỏi phòng khách như kẻ mất trí. Xiêm áo, đăng ten, dải lụa sột soạt theo bước chân giận dữ của nàng. Cánh cửa đóng sập lại theo cái khoát tay của nàng. Toàn thân run lên vì uất ức, Stephanie đi thẳng đến phòng giấy, giật mạnh cánh cửa, bước vào, đóng sập lại cùng với động tác giận dữ như lúc nàng đóng cửa phòng khách. Lại một lần nữa nàng khẳng định quyền tự do của nàng trước René. Cái quyền này là điều kiện nàng đã đặt ra với chàng ngay từ khi cưới nhau. Tại sao René không chịu hiểu rằng không thể bắt vợ chỉ chăm lo đến áo quần, đầu tóc, chiêu đãi, tiệc tùng, đến chuyện phiếm với những kẻ kiêu kỳ nhưng ngu xuẩn? Tại sao chàng lại không muốn hiểu rằng Stephanie đâu phải loại người cam chịu sống theo dư luận, sợ hãi những lời đàm tiếu để không dám làm cái này cái nọ theo ý mình? Stephanie đâu thuộc loại ngươi quan tâm đến ý kiến nhận xét của những kẻ đạo đức giả, những kẻ không dám sống theo ý mình và không để người khác sống theo ý họ? Những kẻ chỉ chăm chăm tạo cho mình vẻ ngoài sang trọng, quí phái, kiểu cách phù phiếm? Stephanie thuộc loại phụ nữ hiếu động, yêu cuộc sống, thích lao vào những tình huống phức tạp, không sợ nguy hiểm, thích luôn luôn đương đầu với những hoàn cảnh bất ngờ... Đúng là gần đây nàng ít xông pha vào những tình huống nguy hiểm, nhưng nỗi lo lắng về số phận tầu thuyền của nàng ngoài biển, niềm kiêu hãnh khi nàng chiến thắng trong cuộc giành giật những mặt hàng quí với các đối thủ, niềm phấn hứng khi nàng vạch ra những ý đồ táo bạo, tính mạo hiểm trong việc bỏ vốn vào những vụ kinh doanh liều lĩnh... tất cả những thứ đó René đều tìm mọi cách tước đi của nàng. Stephanie đã ba lần giật sợi dây chuông gọi Aimé. Nàng đấm mạnh xuống mặt bàn mà vẫn không ghìm được cơn giận dữ. Lần này René đi quá mức. Chàng dám nói: “Khi mang danh hiệu cao quí phu nhân Guinchamp thì...” Cao quí gì? Cao quí chỗ nào? Nếu không do bà mẹ bán cái mã đẹp trai của con mình cho Agnès lấy món tài sản kếch sù của dòng họ Lomanais thì chàng đâu có cái biệt thự sang trọng “De Guinchamp” này?... Lương sĩ quan được là bao? Stephanie khinh thói nhu nhược, sợ dư luận của René nhưng vẫn không thể thôi không yêu chàng. Nghĩ cho cùng thì René xưa nay vẫn là người như thế. Nàng chẳng nói với Pompette ngày nào rằng “Tôi biết tất cả những nhận xét của bác về anh ấy, nhưng tôi yêu anh ấy với tất cả mọi ưu điểm và khuyết điểm. Biết làm sao được, tôi không thể không yêu René!” Nàng đã yêu chàng đến mức bất chấp nguy hiểm, bỏ nhà cửa, con cái, đuổi theo chàng ra tận chiến trường. Yêu đến mức nàng nhận lấy chàng để có chàng bên cạnh tất cả các đêm, để được nhìn thấy chàng cười, chàng đi lại, được nghe thấy giọng nói nồng ấm và dâm đãng của chàng thầm thì gọi tên nàng. Mỗi khi René thầm thì gọi “Stephanie”, lập tức nàng rùng mình tưởng như môi chàng đang lướt trên da thịt nàng. Nàng đã bỏ qua thói phù phiếm, thói sợ dư luận của chàng để được yêu chàng, để được hưởng những cơn ân ái cuồng nhiệt của chàng. René chỉ là người đàn ông để yêu đương. Tình ái là sở trường của chàng, là phẩm chất duy nhất của chàng. Than ôi, đúng là duy nhất! Ngoài khả năng yêu đương và ân ái ra, René không còn bất cứ phẩm chất nào khác! - Cứ vào! Nàng nói to khi nghe thấy ba tiếng gõ ngoài cửa. Đấy là mật hiệu giữa họ. Ba hồi chuông và ba tiếng gõ cửa! Ám hiệu giữa nàng và Aimé. Ngay sau lần cãi nhau đầu tiên, hôm ấy Stephanie báo chồng biết nàng có thai và René lợi dụng hoàn cảnh đó đã yêu cầu nàng thay đổi cách sống, bỏ những công việc quen thuộc của nàng, Stephanie lại trở về với Aimé. Nàng khôi phục mối quan hệ thân tình với anh. Với Aimé nàng có thể nói hết, bởi anh hiểu rõ nàng hơn cả chính nàng hiểu bản thân mình. Giữa Stephanie và Aimé có bao nhiêu sợi dây gắn bó với nhau: quê hương, những kỷ niệm thuở nhỏ, Charles, cùng bao nhiêu yếu tố bí hiểm khác. Trước kỳ sinh nở, René lại một lần nữa yêu cầu vợ rời bỏ công việc kinh doanh mà chàng gọi là “công việc của một mụ nhà buôn”. Sau khi Stephanie sinh cho chàng bé Diane, con gái không phải con trai như nàng mong ước, thì René lải nhải không biết mệt, ngày này sang ngày khác: - Bao giờ em mới chịu thôi cái việc la cà các hãng buôn? Bao giờ em mới chịu thôi đến phố Vivienne, thôi bàn bạc tranh cãi giá cả với đám chủ hiệu đồ gỗ? - Không bao giờ! Em trả lời anh lần này là lần cuối cùng. Đừng bao giờ anh nhắc lại câu hỏi đó với em nữa! Hôm đó, nói xong nàng đã băng ra ngoài và đóng sập cửa lại. - Bà chủ gọi tôi? Thoạt nhìn, Stephanie thấy ngay Aimé giữ thế rồi. Chỉ mấy tháng mới cưới tình thân giữa nàng và anh đã bị giảm bớt, sau đó họ đã lấy lại được tình thân ngày xưa. Lẽ tự nhiên là Aimé lại không ngần ngại tỏ thái độ ương ngạnh với nàng mỗi khi anh không tán thành việc gì đó. - Anh lại thế rồi! - Bà chủ muốn nói tôi lại tiếp tục chứ gì? Nàng cau mặt lườm anh. - Đến bao giờ René mới chịu thôi cái việc dằn vặt tôi? - Thì bà chủ có thôi bỏ thói ương ngạnh, thôi hành hạ ông ấy đâu? - Anh định nói rằng... - Theo cách suy nghĩ của ông chủ, thì ý kiến ông chủ đúng. Stephanie nổi cơn thịnh nộ. - Anh tán thành René à? - Tôi hiểu ông chủ. - Thế thì ích gì chứ? - Stephanie gầm lên. - Ích chứ! - Aimé nói bằng giọng ương ngạnh, cái giọng bao giờ cũng làm Stephanie điên người. - Anh cố tình nói thế để chọc tức tôi thêm! Đúng là Aimé làm thế. Anh thấy nên đẩy cơn giận của Stephanie đến tột đỉnh, sẽ có lợi cho nàng hơn. Phải sau khi lên đến đỉnh điểm, cơn uất giận của nàng mới chịu lui và khi đó anh sẽ lựa lời nói cho nàng hiểu. Tất nhiên không khí thuận hòa giữa hai vợ chồng họ chẳng thể kéo dài được mãi mãi. Dù sao trong một quãng thời gian, họ cũng được hưởng niềm hạnh phúc trong yêu thương. - Anh cũng khuyên tôi đừng hoạt động gì nữa? - Tất nhiên là tôi không khuyên như thế. Bản chất bà chủ đã như vậy làm sao thay đổi được? - Bản chất tôi làm sao? - Bà chủ là người thích leo trèo. - Tôi chưa hiểu - nàng bực tức Aimé giở cái giọng bí hiểm quen thuộc ra. - Ý tôi muốn nói hồi nhỏ còn ở lâu đài bà chủ đã thích tụt lan can cầu thang gác, thích nhẩy vài bậc một lúc, thích trèo cây, thích leo vách núi dốc đứng. Mỗi khi định thuyết phục nàng điều gì, Aimé luôn gợi nhớ lại thời thơ ấu của nàng ở quê nhà, gợi lại cuộc chiến tranh Crimée, khi nàng làm cấp dưỡng cho trung đoàn Bắc Phi. - Như thế thì sao? - Bản chất bà chủ là hiếu động. Tính hiếu động ấy tất nhiên phải được bộc lộ ra trong một công việc nào đó. Hồi cụ bà còn sống, phu nhân Hortense... Stephanie xưa nay vẫn cố học theo mẹ nhưng kết quả nàng lại khác xa mẹ. Bà Hortense ngày xưa không bao giờ nổi nóng. Mẹ nàng bao giờ cũng nói với giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ tình cảm trong khi vẫn kiên quyết. Không ai lay chuyển được điều gì một khi mẹ nàng đã quyết. - Mẹ tôi ngày xưa được làm việc theo ý riêng. Cha tôi không bao giờ cản trở. - Bởi cụ chủ ngày xưa đâu có giống ông chủ René de Guinchamp bây giờ? Stephanie hiểu câu đó như Aimé định nói: “Bà chủ đã sai lầm là lấy ông ta!” Nàng còn phạm thêm sai lầm nữa là chịu đến sống ở biệt thự Guinchamp. Như vậy thành ra nàng là người khác chứ không phải là nàng. Lẽ ra nàng phải tậu hoặc xây một tòa nhà khác. Nhưng hồi đó nàng đang khao khát tình yêu, Stephanie đâu có nghĩ gì. René bảo gì nàng cũng răm rắp nghe theo. Chính vì vậy bây giờ thằng bé René năm nay lên 2 cùng hai chị nó sống với nàng, trong khi bốn đứa con nàng đẻ ra - hai đứa sinh đôi con Armand và hai đứa một trai một gái con André, lại không được sống cùng với mẹ chúng. Bốn đứa vẫn sống với mẹ chồng thứ nhất của nàng, bà Francoise. Tình trạng này là do một loạt tình huống. Sau cái chết thương thảm của André, Stephanie một thời gian nằm liệt giường, đành để các con sống bên biệt thự Dytteville. Hồi đó chính Aimé đã khuyên nàng như thế. Vả lại bà Francoise không hề phân biệt đối xử giữa hai đứa cháu nội của bà với hai đứa em cùng mẹ khác cha của chúng. Còn thêm một nguyên nhân nữa khiến Stephanie dễ chấp nhận lời đề nghị của René là sau khi Agnès qua đời chàng đổi tên biệt thự Lomanais thành biệt thự Guinchamp. Nàng đã trở thành phu nhân Guinchamp, việc sống tại biệt thự Guinchamp đâu có gì không hợp lý? Tuy biết không thể lay chuyển những định kiến đã hình thành nên trong đầu Aimé, Stephanie vẫn cố tìm cách lay chuyển chúng. Nàng nói giọng xót xa: - Ôi nếu anh biết vừa rồi René nói với tôi như thế nào, dằn vặt tôi ra sao... Anh ấy dám bảo tôi: “Khi đã mang danh hiệu cao quí “phu nhân Guinchamp” thì có những loại người em không nên tiếp xúc. Quá lắm là đến nhà họ nếu như em buộc phải gặp!”. - Chắc ông chủ định nói đến Vaudières! - Ông Vaudières quen biết tôi lâu năm. Ồng lại là chủ ngân hàng, tôi cần quan hệ với ông ta. - Nhưng bà chủ cũng biết, ông chủ không ưa ông Vaudières! - Tôi đang muốn tậu khu đất ở Chesnay thuộc ngoại thành Vaudières và nhất định tôi sẽ tậu, nàng nói giọng dứt khoát - Tôi đã “ngửi” thấy đó là miếng đất tuyệt vời, sẽ có lãi rất lớn. Vụ này cần tiến hành nhanh chóng kẻo có người thọc gậy bánh xe. Tôi không thể đưa chuyện đó ra bàn ở phố Vivienne vì cha tôi quá thận trọng, còn chú Hippolyte thì trước mỗi việc cứ cân nhắc quá lâu. Tôi bàn chuyện với ông Vaudières và hai cố vấn thì có gì là xấu? - Tất nhiên rồi. Nhưng hình như bà chủ lại yêu cầu ông chủ bắt tay họ, những người ông chủ vẫn khinh thường, thậm chí ghét nữa. Quả là Stephanie có yêu cầu René chào hỏi, bắt tay họ! Nàng rất biết rằng Antonin Vaudières cũng như hai người cố vấn kia nếu được nghe René Guinchamp niềm nở chào hỏi, họ sẽ “mềm” hơn khi nàng trao đổi với họ về các khoản trong hợp đồng. René đã hai lần chịu tiếp họ tại biệt thự Guinchamp, nhưng lần nào cũng bảo vợ: “Chỉ lần này thôi đấy”. Đến hôm nay, chàng lại bảo: “Anh đã nói rồi, anh không muốn ai bàn chuyện hàng hóa, buôn bán trong cái nhà này. Em muốn bàn bạc ở đâu tùy em. Tại các văn phòng công ty, tại cửa hiệu hay quán giải khát nào cũng được, miễn không phải ở đây! Em nhớ rằng đã mang danh hiệu cao quí phu nhân Guinchamp thì... “ Chính câu đó làm nàng điên tiết. Danh hiệu cao quí Guinchamp! Bà mẹ René không đào mỏ mấy cô gái nhà giầu thì lấy đâu ra sự “cao quí” của cho Guinchamp. - Mà một cái bắt tay, một nụ cười niềm nở và một câu chào lịch sự thì có gì mà không thể làm được? - Stephanie rầu rĩ nói. - Xin phép bà chủ tôi xin nói thế này. Bà chủ có lý thì ông chủ cũng có lý. Mọi người đều có lý hết. Tuy nhiên Bắc cực và Nam cực không bao giờ đến với nhau. Riêng tôi thì bà chủ hãy tin rằng tôi thi hành mọi điều bà chủ yêu cầu và các vị khách đó tôi sẽ tiếp họ chu đáo: cà phê, trà, nước ngọt, bánh trái... tất tất đều có đủ. Trong lòng Stephanie lại trào lên nổi căm giận René! Vì tình yêu nàng, tại sao chàng không thể bỏ ra năm phút “quí giá”, chào hỏi khách để chiều vợ? Trong khi nàng từng đã dám bỏ cả gia đình để theo chàng ra chiến trường, sẵn sàng chịu dựng bao nỗi gian truân ở Dobroudja. Alma, ở Sebastopol? Đến đây nàng chợt nghĩ đến Boris! Boris! Đến nay nàng vẫn luôn, nghĩ đến chàng. Chàng là tình yêu không gợn sóng mây, tình yêu của tình yêu. Trong thời gian cuộc triển lãm thương mại ở Paris, Boris đã quan tâm đến công việc của nàng. Chàng đã tính sẽ trở lại Paris để nghiên cứu những kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh của nước Pháp. Boris là người thật sự hiểu mình. Stephanie thầm nghĩ, chàng chịu nghe những lời khuyên của nàng. Boris vêrr nàng tuyệt đối, nhưng rồi... chiến tranh, cuộc bao vâv Paris, cái chết của Agnès, René tự do và nàng lấy René! Hoàng thân Boris Petrovitch Biotsky và quận chúa Nalasa vợ chàng đã gửi thư chúc mừng đám cưới Stephanie. Nhưng nàng cũng nhận được một lá thư của Boris mà nàng vẫn còn giữ, một lá thư tuyệt diệu... “... Anh hiểu rằng anh không thể dâng cho em danh hiệu dòng họ anh, tài sản của anh, cuộc đời anh, nhưng anh yêu em và trong ký ức anh, em gần gụi với anh hơn nhiều so với phu nhân Guinchamp đang sống ở Paris. Tha lỗi cho anh. Trong mấy năm tới anh chưa thể sang Pháp. Anh rất đau lòng. Anh vẫn gìn giữ em trong tim anh, trong linh hồn anh, trong con mắt anh. Mong em hạnh phúc, Stephanie! Stephanie của anh, chỉ của riêng anh thôi!...” Cuối thư chàng viết, ám chỉ René: ‘Anh đã cứu sống con người ấy trên bãi chiến trường, cứu hắn vì em, vậy mà bây giờ em lại ở đó với hắn, trở thành vợ hắn... Chúa đã an bài như thế biết làm sao được”? Anh chỉ cầu Chúa một điều, em thân yêu, là sau đây Chúa sẽ cho hai ta được chung sống bên nhau mãi mãi. Đấy là lời cầu Chúa duy nhất của anh!”. Stephanie đưa tay lên gạt những hình ảnh hiện ra trước mắt. Mơ màng làm gì? Boris đã có cuộc đời chàng. Nàng có cuộc đời nàng, cuộc đời mà nàng tự ý lựa chọn. Bao tháng nay cuộc đời ấy biến thành nỗi đau khổ ngấm ngầm, không làm sao chữa được. Thói ngoan cố của René mỗi ngày làm nàng thêm cay đắng trong lòng. Tại sao René bất công làm vậy? Tại sao René thiển cận làm vậy? Lúc ăn bữa trưa, nàng đã tính sẽ giảng hòa với chồng và thuyết phục thêm đôi chút. Nhưng lúc nàng gọi lấy cà phê, René nói ngay: - Phu nhân tha lỗi... Cách xưng hô nhạt nhẽo “phu nhân” nàng rất ghét. Cách đó nàng chỉ chịu được nơi đông người. - Tôi sang uống cà phê bên biệt thự Resmont. Achille đã có lời mời tôi, bởi biết phu nhân hôm nay bận tiếp khách kinh doanh. - Anh ấy biết là do anh kể chứ gì? - Nàng bực tức nói. - Chính phu nhân báo trước cho tôi biết chuyện đó và tôi muốn phu nhân hoàn toàn thoải mái, hoàn toàn tự do làm những công việc quan trọng của phu nhân. Phu nhân coi tự do là thứ quí giá nhất. Cũng nói thêm, nếu phu nhân định mời những vị khách kia đến ăn tối, xin phu nhân cho tôi biết trước để tôi liệu. Đúng là thái độ khiêu khích! Stephanie không nhịn được, quật mạnh khăn xuống bàn, giận dữ đứng phắt dậy, cặp mắt tóe lửa nhìn thẳng vào mắt René, nhưng René làm như không thấy, thản nhiên bước ra cửa. - René! René vẫn thản nhiên mở cửa, điềm tĩnh bước ra ngoài, coi như không nghe thấy vợ gọi. Anh ta đã biến thành vừa câm vừa mù vừa điếc! Stephanie cắn ngón tay, lẩm bẩm một mình: - Mình sẽ không chịu! Mình không muốn chịu nhún. René phải hiểu mình... Mình buộc anh ấy phải hiểu... Còn anh ấy vẫn ngoan cố, mình sẽ tiếp Vaudières tại đây. Mình sẽ tậu bằng được khu đất ở Chesnay! Tối hôm ấy, Stephanie thấy chồng về, nàng không buồn hỏi xem ngày hôm ấy chàng có gì vui không. René tỏ ra vẫn đẹp trai, duyên dáng và đáng yêu như mọi khi. Chàng hỏi vợ nên nhận hay thoái thác lời mời đến dự buổi vũ hội ở biệt thự nữ công tước Lozencoise. Không muốn gây chuyện thêm, Stephanie nở nụ cười rất tươi, bảo chồng rằng nàng sẽ rất vui đến dự buổi vũ hội ấy. René nghiêng mình cảm ơn vợ tỏ ý chàng rất sung sướng thấy nàng cũng muốn dự. “Mình đành đầu hàng vậy - Stephanie thầm nghĩ - Mình có mong ước gì đâu, ngoài việc làm cho chàng vui. Rồi chàng sẽ phải hiểu như thế, sẽ chiều mình và niềm nở tiếp những khách kinh doanh của mình”. Nhưng trong khi nghĩ thế, nàng lại càng thấy ghét nữ công tước Lozencoise. Bà ta góa chồng, công tước Wedborg, nhưng còn rất trẻ. Đó là một phụ nữ tóc vàng vô cùng xinh đẹp, được nam giới kháo nhau là “người phụ nữ mặc áo có cổ rộng nhất Paris!” Đã một thời gian dài Lozencoise là nhân tình lén lút của René, ngay từ hồi Agnès còn sồng. Stephanie rất ghét bà ta vì mỗi lần hai vợ chồng nàng gặp bà ta trong một cuộc hội họp đông người nào đó, Lozencoise đều tỏ thái độ thân mật quá mức với René và hai người trò chuyện theo kiểu nói như ngầm ám chỉ những kỷ niệm ân ái với nhau, Stephanie rất khó chịu thấy Lozencoise lẳng lơ quá đáng, cổ áo bao giờ cũng mở rất rộng, chỉ vừa đủ che núm vú, còn cả nửa trên cặp vú nhô hẳn ra ngoài, miệng thì bôi son đỏ chót và lúc nào cũng như sắp hôn người đàn ông đang tiếp chuyện bà ta. Cặp mắt Lozencoise nhìn René như muốn nói với chảng: “Em yêu anh. Em không thể quên anh. Bất cứ lúc nào anh muốn, em cũng sung sướng được chiều anh. Thân xác em đang khao khát thân xác anh. Cặp môi em đang khao khát cặp môi anh!” Một lần sau cuộc vũ hội René gặp “mụ ta”, Stephanie đã to tiếng với chồng. René chỉ cười... nhưng chuyện đó đã lâu rồi, nàng chỉ còn coi là một kỷ niệm êm ái. Vì nàng ghen với “mụ ta” thì đúng là điên rồ. Nàng là vợ của René và nàng biết René chỉ yêu một mình nàng. Tuy nhiên Stephanie vẫn lấn cấn thế nào đó mỗi khi chồng gặp Lozencoise. Chính vì vậy hàng tháng, “mụ ta” đều gửi thiếp mời hai vợ chồng nàng đến dự vũ hội ở nhà mụ. Mọi lần Stephanie đều khoái thác, nhưng hôm nay vì muốn làm lành với chồng nên nàng chiều chàng, bằng lòng đi dự. Nàng thầm nghĩ: “Em bằng lòng đi với anh đến nhà mụ ta dự vũ hội chỉ vì anh thích đến đó. Nhưng để đáp lại, anh cũng phải chiều em trong một số việc”. Khốn nỗi từ khi René chịu rời khỏi nhà để vợ tiếp khách kinh doanh cũng như nàng chịu cùng chồng đến dự vũ hội ở nhà người đàn bà đáng ghét, thì sự rạn nứt giữa họ cũng bắt đầu. Sự nhượng bộ nhau tạo cho quan hệ giữa họ mất đi niềm tươi mát, sự thoải mái không thể thiếu được trong tình yêu. Theo đà ấy cuộc sống chung giữa René và Stephanie biến thành một thứ mỹ lệ giả tạo, một lớp sơn phết bên ngoài để che giấu những bất đồng bên trong. Cuối cùng đến lúc quá mệt mỏi, Stephanie đã nghĩ đến chuyện xa lánh chồng. Không khí trong biệt thự Guinchamp ngày càng làm nàng khó chịu. Nàng đâm ghét mọi thứ xa hoa phù phiếm ở đây, từ những bức họa khoe mẽ đến những hàng mỹ nghệ đắt tiền nhưng vô tích sự. Stephanie cảm thấy sống trong tòa nhà cực kỳ sang trọng này không thoải mái bằng sống trong phòng giam chật chội tại pháo đài Sebastopol! Ban ngày nàng cố không ở nhà. Buổi tối buộc phải về thì lòng nàng nặng trĩu. Nhiều buổi tôi nàng ngồi với các con trong biệt thự Dytteville và chỉ ao ước được ngủ lại đấy, không phải về biệt thự Guinchamp. Đang trong tâm trạng rối bời, đang nghĩ cách nào thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt căng thẳng này thì một lá thư bay đến tay nàng. Lá thư của Yves Kendelec. Ông ta là người nàng chưa gặp bao giờ, chỉ một lần nàng viết thư cho ông ta hỏi tình hình ở đảo Nouvelle Caledonie[1], tại sao việc khai thác kền ở đó lại không tăng lên được... Lá thư “hỏi tình hình” đó phải một năm sau nàng mới nhận được phúc đáp. Thư viết: - “... Nouvelle Caledonie là một nơi đất mới. Công việc hiện đại hóa nó đòi hỏi rất nhiều tiền bạc và thời gian. Các phương tiện khai thác ở đây hiện rất thô sơ. Thiếu nhân công châu Âu. Dân bản địa, người Canaques, quen sống nhàn tản, mặc dù họ rất hiền lành chất phác. Bẳn thân tôi lại đang rất mỏi mệt và đau ốm. Vài năm nữa, tôi lại giao công việc lại cho con trai tôi và hó sẽ trình bày tình hình với ngài Georges Dytteville... “ Bức thư làm Stephanie sôi máu. Nàng thấy rõ nếu cứ để tình trạng như thế này thì việc kinh doanh ở đảo không sao tiến triển được. Nàng thấy cần phải sang xem xét tình hình tại chỗ, thuyết phục mọi người ở đó và thực hiện cải tiến công nghệ bằng mọi giá, trang bị kỹ thuật hiện đại... “Không, không phải việc của mình - Stephanie suy nghĩ - Mình không thể sang đó. Đấy là việc của Hippolyte. Nhứng cậu ta lại quen hưởng cuôc sống yên ổn, nhàn hạ, sung túc rồi. Cậu ta ngại khó khăn, “sợ gian khổ”. Mối mâu thuẫn đó ám ảnh Stephanie và nhiều lúc nàng thấy phải đích thân nàng sang mới được. Ngoài nàng không ai khác. Nhưng nếu đi nàng sẽ phải xa gia đình, bỏ lại con cái. Nàng không muốn xa hẳn René... Nàng đã bốn mươi tuổi rồi, đâu còn trẻ trung để đi đây đi đó nữa... Nhưng một ý nghĩ khác bác lại. Tình trạng ở Nouvélle Caledonie cần phải giải quyết ngay. Chờ mười năm nữa thì sẽ quá muộn! Đảo Nouvelle Caledonie đang là vùng đất mới. Người ta đã phát hiện những mỏ kền ở đó từ nhiều năm rồi. Nếu nàng sang đó, bắt tay vào xây dựng, việc khai thác thứ kim loại đáng quí này mới có cơ phát đạt mạnh mẽ... Đành để các con xa mẹ chúng trong mười tháng, mười lăm tháng... Nàng phải sang nhìn tận mắt mới nghĩ ra cách phát triển. Sau thời gian đó nàng trở về Pháp tuyển mộ một đội ngũ thợ kỹ thuật trẻ, đồng thời mua sắm máy móc... “Thôi được mình sẽ suy nghĩ thêm. Nếu thật sự cần thiết. Nếu không có ai khác ngoài mình... Và sau một thời gian xa cách, rất có thể mình và René nối lại được...” nàng kết luận. --------------------------- [1] Còn gọi là Tân Caleđôni hoặc Tân Đảo, nằm ở Nam Thái Bình Dương (N.D) Mời các bạn đón đọc Cái Giá Của Tự Do của tác giả Marcel Gobineau.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ánh Nắng Nhiệm Màu - Chân Phương
Đến đại lộ Cộng Hòa lúc nào cũng không hay, Hiệp theo thói quen cho xe chạy chậm lại. Đây là một trong những con đường còn xứng danh là một đại lộ của Đô thành, có đường rộng cho xe lớn lướt vội vàng, có lối thênh thang cho xe hai bánh chạy ung dung, có lề lót gạch phẳng phiu và nhất là có bóng mát, thật nhiều bóng mát cho người đi bộ. Ở đây, mỗi người cất bước là một vì vương tiến giữa hai hàng cây sừng sững như những tên lính khổng lồ đứng thẳng tắp giương lên thật cao những chiếc lọng thiên nhiên lợp bằng lá cây xanh ngắt. Dù bận đến đâu, Hiệp cũng không nỡ cho xe chạy nhanh trong cái khung cảnh êm đềm ấy. Nó gợi lại trong đầu chàng bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào của thời thơ ấu. Bao nhiêu buổi sáng mát rượi, bao nhiêu buổi chiều dìu dịu, chàng đã được cùng các bạn nô đùa thỏa thích nơi đây trong khi ở đàng kia, không xa, trời nắng như đổ lửa. Hiệp mỉm cười ôn lại những trận đấu sức cùng các bạn ngày nào trong bóng cây râm mát. Bỗng chàng giật mình thấy một toán sáu bẩy cậu học sinh trạc 14, 15 tuổi đang sắp sửa dánh nhau. Đánh nhau thật sự chứ không phải giả ngộ như ngày xưa chàng nô giỡn cùng chúng bạn. Một bên hai cậu, một bên đông gấp đôi, bốn cậu, đã quăng cặp xuống đường, sắp xông vào đấm đá. Hiệp ngừng xe, chưa kịp chạy lại can thiệp đã thấy từ đâu phóng tới một cậu học sinh thứ bẩy cũng trạc tuổi sáu cậu kia. Cậu này giang hai tay tách sáu người ra làm hai toán. - Thôi – cậu ôn tồn nói – cho tôi xin đi, anh em cả mà, đánh nhau chi cho mệt, kỳ lắm! Hiệp ngạc nhiên, bụng bảo dạ tiếng ai nghe quen quen như tiếng thằng Thuận. Vẫn ngồi yên trên xe lúc này đã đậu sát lề, chàng gỡ cặp kính râm ra coi, thấy quả là cháu mình, lại đeo kính lên, lặng yên thử xem nó hòa giải các bạn của nó ra sao. Thuận, một tay cầm cặp, vẫn tươi cười giang rộng hai tay như một đôi cánh xòe ra giữa hai toán đứng ngó nhau gườm gườm. Quay sang bên phải, nó bảo hai cậu vốn là bạn cũ ở gần nhà: - Thiết, Thực, hai bác đang trông ở nhà kìa! Nghỉ hai giờ cuối, sao còn lạng quạng ở đây? Về nhà lẹ đi kẻo hai bác la cho đó! Rồi quay sang bên trái, nó ngạc nhiên nhận được một người quen: - Ủa! Lợi hả? – nó hỏi – Giờ này chưa đi học sao? Hà hà, anh phải mách anh Lộc trị tội cậu này mới được! - Giáo sư bệnh – Lợi vội bào chữa – chúng em cũng được nghỉ hai giờ chót mà. - Ờ, thôi được – Thuận nói – Lợi về đi. Cả ba anh nữa. Học trò với nhau cả mà, ai lại nói chuyện phải trái với nhau bằng đấm đá bao giờ! Thằng Lực, to con và vẻ mặt ba trợn nhất trong đám bạn thằng Lợi, định sừng sộ. Thằng Lợi vội gạt đi, cướp lời: - Vâng, vâng, chúng em về… Dĩ hòa vi quý mà anh! Trong khi hai anh em thằng Thiết dắt nhau đi vô hướng đường Lý Thái Tổ thì Thuận rảo bước đi còn ngoái lại bảo Lợi: - Lợi vô nói với anh Lộc tối nay ghé chơi anh Thuận nghe! - Dạ, anh Thuận nhớ đừng mách anh em đấy nhé. - Ờ! Hiệp mỉm cười, sắp nổ máy cho xe chạy, bỗng ngưng lại lắng tai nghe. - Lợi, thằng nào đó? – Lực hậm hực hỏi bạn – Thằng Thuận nào mà mày có vẻ ngán dữ vậy? - Anh Thuận bạn thân của anh Lộc tao đó. Khỏe lắm mày ơi! Mày đánh không lại đâu! - Nhưng tao không thích nó can cái kiểu đàn anh ấy – Lực vẫn ấm ức nói – Đánh không lại, tao cũng không ngán. Thằng Lợi cười cười: - Biết rồi. tao thấy bộ dạng mày muốn ăn đòn nên phải cướp lời không để cho mày gây sự. Bộ mày chưa nghe tiếng Thuận đầu bò sao? - Chưa, nó ghê gớm như thế nào, nói tao nghe đi. - Oai hùng không thể tả! – Lợi ba hoa kể – Chẳng những một mình thằng Lực chả đi đến đâu, cho luôn cả ba thằng chúng mày xúm vào, ảnh cũng đá bay trong nháy mắt. Đến anh Lộc tao sừng nhất trường, muốn hạ tụi du đãng choai choai xóm Sáu Lèo để cho các em lớp Sáu khỏi phải nạp tiền mãi lộ, còn phải nhờ anh Thuận giúp một tay mới xong. Chúng mày biết không, năm sáu thằng đen chùi chũi và đô thật là đô, có cả dao con chó nữa, thế mà hai anh ấy tay không đánh cho một trận bò lê bò càng, cạch không dám bắt nạt và làm tiền các em nhỏ nữa… Thằng Chi nãy giờ đứng im, lên tiếng hỏi: - Thằng chả cùng học với anh mày ở Chu văn An hả, Lợi? - Đâu có! - Nhưng chắc cũng trên chúng mình vài lớp? – Chi hỏi gặng. ... Mời các bạn đón đọc Ánh Nắng Nhiệm Màu của tác giả Chân Phương.
Xứ Sở Của Những Người Ngáp - Azit Nexin
Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 — 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Thường được gọi với cái tên "Aziz Nesin", đây nguyên là tên cha ông, được Nesin sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün. Tập truyện cười Xứ Sở Của Những Người Ngáp này gồm có: Xứ sở của những người ngáp Quê ta vạn tuế Có nên làm bác sĩ không, con? Không thể thành người Phải ho lao mới được Xót tiền dân Thanh tra sắp đến Cả một ổ Nếu tôi là đàn bà Những điều trớ trêu của kỹ thuật Chuyện vợ chồng Giá không có ruồi! Anh lính Mêmét làng Êmét Lỗi tại anh Chỉ mỗi đồng lương Ông vua và con rệp béo nhất thế giới Chiếc đèn đường và phố chúng tôi Chúng ta cũng bay lên mặt trăng Lũ người chúng ta! Giấc mơ Mỹ Chuyện đó không liên quan đến tôi Nhà hiền triết và hai người bạn Người thay cả dàn nhạc Ngài - Còi Thôi thì ở lại Lên giá đến nơi rồi! Biết ơn vạn bội Chỉ tại trời mưa *** Khi anh bị mất việc, cuộc sống của anh bắt đầu gặp khó khăn. Nhưng giải thích cho những ông bạn ưa tò mò biết nguyên nhân tại sao anh mất việc, mới thật khó khăn hơn nhiều. Không! Lần này nhất định tôi sẽ chẳng hở cho ai biết chuyện gì đã xảy ra với tôi cả. Mọi lần, có chuyện gì không may là tôi cứ hay đi kể lể với những người quen, vì hy vọng biết đâu có thể có người giúp đỡ tôi! Nhưng cũng có khi chỉ vì muốn cho khuây khỏa nỗi buồn. Nhưng khốn nỗi, cứ mỗi lần như thế tôi lại bị họ lục vấn đủ điều, cố tìm cho bằng được nguyên nhân nỗi bất hạnh của tôi, để rồi cuối cùng, chẳng biết thế nào, chính tôi lại bị xem là kẻ có tội trong mọi chuyện không may ấy! - Đấy, - Họ bảo tôi - giá mà anh không làm như thế, như thế, như thế... thì đời nào ông chủ lại đuổi. Mà một khi anh đã cả gan làm những chuyện như vậy, thì lỗi là tại anh rồi còn quái gì! Chính anh có lỗi thôi! Cuối cùng, bao giờ họ cũng kết án tôi như vậy, và vẻ hài lòng hiện rõ ra mặt. Hôm ấy tôi vừa đi ngoài phố vừa miên man suy nghĩ về chuyện làm ăn, thì bất thình lình có người đập mạnh vào vai. Tôi ngoảnh lại hóa ra ông bạn Ôxman Kêman. Anh ta vui vẻ đi bên cạnh tôi. Chợt nhìn thấy bộ mặt buồn rầu thiểu não của tôi anh cụp ngay mắt xuống, thay đổi hẳn vẻ mặt và bảo: - Tôi hiểu!... - Anh ta nói một cách ấp úng. Nghĩa là anh biết chuyện tôi bị đuổi khỏi chỗ làm. Nếu vậy thì không thoát được rồi! Thế nào anh ta lại sắp tra khảo tôi, tìm cách chứng minh cho tôi biết rằng chính tôi là kẻ có lỗi đấy cho mà xem! Cái vẻ mặt buồn rầu giả tạo thật chẳng ăn khớp một tí nào với cái ánh mắt long lanh vui sướng mà anh ta không che giấu nổi. Tôi cố làm ra vẻ không hiểu câu “Tôi hiểu” của anh ta và hỏi: - Anh làm sao thế? Hay có chuyện gì không vui? - Không, tôi chẳng làm sao cả! Nhưng tôi nghe nói là anh lại vừa bị mất việc thì phải. - Anh ta đáp. - Cũng không sao! - Tôi cố làm ra vẻ thản nhiên, vì không muốn tiếp tục cái vấn đề này. - Sao lại không sao? - Anh ta đứng ngay giữa phố, mồm cứ bô bồ kêu “trời ơi”, rồi đề nghị tôi: - Thôi, chúng mình vào tiệm làm một tách cà phê đi, rồi cậu kể cho tôi xem đâu đuôi thế nào nào? - Có gì đâu mà kể! - Tôi đáp. - Sao lại không có gì đâu! Chà, xem cậu bắt đầu giống ai rồi nào? Thôi, ta đi đi! Cậu cứ kể hết cho mình nghe, rồi tự khắc cậu sẽ thấy khuây khỏa ngay thôi mà. - Anh cứ làm như có thể thay đổi được cái gì không bằng. - Cậu làm mình giận đấy... Chả lẽ mình không phải là bạn cậu hay sao? Thế là tôi đành vào quán với anh ta. - Nào bây giờ thì cậu kể cho mình xem có chuyện gì xảy ra đi! - Anh ta nói, khi chúng tôi bắt đầu nhấm nháp ngụm cà phê. - Lão chủ vừa đuổi tôi... - Vì sao? - Thì tôi biết được vì sao! Anh đi mà hỏi lão ấy! - Cậu có hay đi làm muộn không? - Cuộc hỏi cung bắt đầu. - Không, bao giờ tôi cũng đến rất đúng giờ. - Có bao giờ cậu không hoàn thành công việc không? - Không. Ai lại dám cãi lại ông ấy. Sốt ruột, Kêman bắt đầu nhấm nháp móng tay. - Thôi đúng rồi, chắc cậu đòi tăng lương phải không? - Đâu có... - Hay là... cậu có câu nói gì đó về ông ta, chẳng hạn có ý chê trách ông ta...? - Ồ, không đời nào? Tôi bị hỏi vặn một hồi nữa bằng những câu đại loại như thế. - Chà! Chà!... Thế thì vì quái gì cậu bị đuổi được nhỉ? Hay là... có khi nào cậu nhìn ông ta chằm chằm như cậu đang nhìn mình bây giờ không? - Tôi không biết. Nhưng... có thể là có... - Thôi thế thì đích thị rồi! Tớ đã bảo mà! Nhất định là phải có lý do mà lại, chứ không đời nào tự dưng người ta lại đuổi cậu cả! Chính lỗi tại cậu chứ không phải tại ai hết! Cậu cứ nhìn người ta chằm chằm như muốn ăn sống nuốt tươi thế thì ai mà chịu được! Nói thật chứ... Lỗi là tại cậu thôi! Nói xong câu ấy, anh ta thấy trong người nhẹ nhõm hẳn. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Sở Của Những Người Ngáp của tác giả Azit Nexin.
Những Người Thích Đùa - Azit Nexin
Khóc mà cười, cười mà lại trào nước mắt - những câu chuyện chỉ có thể là của Aziz Nesin luôn đọc người đọc vào cái trạng thái lạ lùng như vậy. Tin rằng nhà văn trào phúng như người khổng lồ có sứ mệnh nâng đỡ cả thế giới trên vai, Aziz Nesin không viết những truyện cười vô thưởng vô phạt. Ông viết để xóa đi những bất công, phi lý trong xã hội con người. Tập truyện cười Những Người Thích Đùa này gồm có: Cái Kính Điệp Viên Ox - 13 Quê Ta Vạn Tuế Có Nên Làm Bác Sĩ Không Con? Không Thể Thành Ngưới Phải Ho Lao Mới Được Xót Tiền Dân Thanh Tra Sắp Đến Cả Một Ổ Nếu Tôi Là Đàn Bà Xin Mời Bác Cứ Đến Chơi... Những Điều Trớ Trêu Của Kỹ Thuật Những Người Thích Đùa Secmenđi Sinh Ngày Nào? Chuyện Vợ Chồng Hội Cứu Vớt Gia Đình Giá Không Có Ruồi! Nhỏ Và Đẹp Những Người Thích Đùa Cơn Ác Mộng Những Người Thích Đùa Anh Lính Mêmét Làng Êmét Lỗi Là Tại Anh! Nghĩa Vụ Đối Với Tổ Quốc Diễn Văn Trong Lễ Khánh Thành *** Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 — 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Thường được gọi với cái tên "Aziz Nesin", đây nguyên là tên cha ông, được Nesin sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün.   Mời các bạn đón đọc Những Người Thích Đùa của tác giả Azit Nexin.
Người Đàn Bà Trong Cồn Cát - Kobo Abe
“Người đàn bà trong cồn cát” được xuất bản vào năm 1961 và đem về cho tác giả Kobo Abe (1924-1993) giải văn chương danh giá Yomiuri của Nhật, đã đưa tên tuổi của Abe lên hàng quốc tế sau khi bản dịch Anh ngữ được phát hành. Ông là tác giả Nhật được dịch ra tiếng ngoại quốc nhiều nhất. Một cuốn phim cùng tên, do chính tác giả viết truyện phim và Hiroshi Teshigahara (1927-2001) đạo diễn, được trình chiếu vào năm 1964, cũng đã đoạt giải Special Jury Prize tại Cannes Film Festival, 1964. Năm sau, cuốn phim đã được đề cử, nhưng không trúng, giải Oscar cho Best Foreign Language Film Oscar, và giải Oscar cho Best Director. Đó là câu chuyện về một anh giáo viên vô danh tiểu tốt ở Tokyo, tên Niki Jumpei, và là một tay sưu tập côn trùng tài tử. Tuy nhiên, anh ta cũng có một tham vọng, đó là có thể tìm được một con côn trùng nào mà chưa ai kiếm ra, để tên anh sẽ được gắn liền với con côn trùng đó và được đi vào bách khoa tự điển. Ước vọng này đã đưa anh đến một làng ven biển vào một dịp nghỉ. Mải mê tìm côn trùng, anh không để ý là đã lỡ chuyến xe buýt cuối cùng về thành phố. Khi ngỏ ý với ba người đàn ông anh gặp trên đụn cát là liệu anh có thể nghỉ qua đêm tại nhà một dân làng nào đó để sáng mai tiếp tục đi kiếm côn trùng, họ liền tỏ ra sẵn sàng giúp và đưa anh ta tới một căn nhà xiêu vẹo ở duới sâu trong lòng một cái hố cát, phải leo xuống bằng thang giây. Tại căn nhà đó, một người đàn bà còn trẻ đã đón tiếp và cơm nước cho anh. Niki không ngờ đấy là một cái bẫy mà định mệnh đã dành cho anh. Nguyên ngôi làng này bị nạn bão cát đe dọa chôn vùi. Ngôi nhà của người đàn bà ở bìa làng sát biển, như một thứ tiền đồn, cần phải giữ cho đừng bị cát chôn vùi, vì nếu một khi cát chôn căn nhà đó thì sẽ tiến tới căn nhà kế và rồi dần dà cả làng sẽ bị xóa sổ. Xúc cát là công việc hàng đêm - phải làm ban đêm vì lúc đó cát ẩm, dễ xúc vào xô, để người ta tới kéo những xô cát này lên và đem đi bán. Ngoài sứ mệnh bảo vệ làng, qua tinh thần "Yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình”, châm ngôn của làng, người đàn bà được trả công bằng thực phẩm, nước và những thứ cần thiết khác. Từ ngày chồng và con của chị ta bị bão cát chôn sống một năm về trước, chị làm việc xúc cát một mình không xuể. Và người ta đã lừa bắt cóc Niki để điền vào chỗ nhân sự thiếu hụt đó. Khi biết ra, Niki đã tìm mọi cách để thoát. Thoạt đầu anh ta trói người đàn bà lại làm áp lực dân làng. Đáp lại, dân làng ngưng cung cấp nước và thực phẩm cho hai người. Niki đành làm cái việc xúc cát trong khi âm mưu tìm cách trốn. Một lần anh ta đã leo lên được trên miệng hố và tìm cách thoát khỏi ngôi làng, nhưng bị bắt lại và buộc phải tiếp tục cái việc xúc cát ban đêm để rồi ban ngày cát khô bị gió thổi tiếp tục đe dọa ngôi nhà của người đàn bà, như nhân vật Sisyphe trong huyền thoại Hy Lạp bị buộc làm cái việc vô tận: đẩy một hòn đá lên đồi, chờ nó lăn xuống chân đồi, rồi lại đẩy lên, cứ thế, không được ngừng. Dù vậy, Niki cũng vẫn chưa bỏ cuộc. Biết rằng nước là vũ khí dân làng dùng để khuất phục anh, nếu anh không chịu ngoan ngoãn làm theo ý họ, họ sẽ cúp nước, Niki tìm cách triết nước từ cát ẩm. Cũng trong thời gian âm thầm nghiên cứu việc này, Niki và người đàn bà, như lửa gần rơm lâu ngày phải bén, trở nên gần gũi hơn, sống với nhau như vợ chồng. Khi người đàn bà mang bầu và khám phá ra là đã mang thai ngoài dạ con, dân làng phải thòng cái thang giây xuống để kéo chị ta lên đưa đi nhà thương cấp cứu. Niki ở lại cái hố. Anh ta đã không tin ở mắt mình khi thấy dân làng sau khi đưa ngưòi đàn bà đi nhà thương đã không rút cái thang lên. Anh mon men lại bên cái thang, rồi leo lên mà không gặp một trở ngại nào. Lần đầu từ khi bị bắt cóc bỏ xuống hố cát, anh ta nhìn thấy biển. Niki đi lang thang trên miệng hố, rồi lại leo trở xuống hố cát. Anh xem xét công trình triết nước và thấy nước uống được giữ lại trong thùng chứa, như vậy dự án triết và trữ nước của anh đã thành công. Anh ta không cảm thấy có nhu cầu phải thoát thân ngay. Anh nghĩ anh sẽ ở lại để cho dân làng biết về việc này. Cuốn truyện kết thúc bằng một án lệnh của tòa tuyên bố người đàn ông đã chết sau bảy năm có tên trên danh sách người bị mất tích, để lại cho người đọc một câu hỏi “tại sao Niki chọn ở lại” to lớn, và những nhà nghiên cứu về tác giả và tác phẩm mặc sức lý giải tại sao! *** Trong khi Haruki Murakami và Banana Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe (1935 - 2007), tác giả đạt Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998, có viết: “Lớp nhà văn này đã tích lũy trong mình cảm nghĩ về thực hạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro, v.v., ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hóa đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941, Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đây Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhẩt các kỹ thuật của chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943, Kobo Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami, tác giả Rừng Na Uy, viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách. Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ của ông bao gồm Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng của Kafka càng rõ rệt trong hai tác phẩm Kabe (Bức tường) và S. Karuma Shino Hanzai (Tội lỗi của S. Karuma) sáng tác vào năm 1951. Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hóa thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh ta bị tòa án lôi ra phán xử. Năm 1947, Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chi thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết, Owarishi Michi No Shirube Ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi Đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của Đảng Cộng sản Nhật Bản. Những tác phẩm mang tính trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, Aai Mayu (Cái kén đỏ, 1950), Kabe (1951) và S. Karuma Shino Hanzai (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn F. Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiếu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant-garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không thực tế, và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau đây của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Dai - Yon Kampyoki (1959), Moetsukita Chizu (Tấm bản đồ rách, 1967), Mikkai (1977) và Hako Otoko (Người đàn ông trong chiếc hộp, 1974). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Women in the Dunes (Người đàn bà trong cồn cát, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1964). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hóa, vong ngã trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã bị ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muốn loài, nhưng tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài, không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hóa thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thế chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thế thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Ở Người đàn bà trong cồn cát, người đọc khó mà phân định được thực hư, người nào là kẻ chạy trốn, người nào là kẻ lùng bắt, ai biết đâu là ranh giới giữa hư ảo và hiện thực. Kobo Abe đã giải thích những vấn đề tâm sinh lý, ý thức và tiềm thức... để cố gắng truyền đạt đến người đọc một cách cụ thế những hiện tượng có thực ở vùng sâu kín trong hay dưới tầng ý thức. Ông chú trọng đến ảnh hưởng của tiềm thức và vô thức đối với hành vi của con người. Kobo Abe đã sử dụng mọi dạng cảm xúc của con người, từ niềm tự hào và nỗi sợ hãi tới những khát khao tình dục và cả nỗi thất bại ê chề - tất cả, tất cả đều dồn vào nhân vật chính trong câu chuyện (Niki Jumpei), rồi thì qua đó mặc cho bạn đọc tiến hành một sự tự nhận thức (self-awareness) về sự phi lý của thân phận con người. [1] Tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát ngay lập tức đã cuốn hút đạo diễn điện ảnh Teshigahara Huoshi, cuốn phim của ông dựa trên tác phẩm kể trên đã giành được thành công to lớn vào năm 1963. Tác phẩm điện ảnh này đã giành Giải thưởng Đặc biệt tại Liên hoan Phim Cannes. Diễn viên Kyoko Kishida, người khởi nghiệp điện ảnh qua vai thiếu phụ trẻ trong tác phẩm này, sau đó đã trở nên nổi tiếng trong phim Moomin và một số phim khác. Đạo diễn Teshigahara Huoshi còn cộng tác với Kobo Abe để dựng phim cho hai tác phẩm The Pitfall (Cạm bẫy khó lường, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1966). Abe còn sáng tác một số vở kịch và điều hành một công ty biểu diễn do ông thành lập ở Tokyo. Các chủ đề về trạng thái cô độc và bị xa lánh, ghét bỏ trong các vở kịch như Friends (1967) và The Suitcase (1973) của ông được diễn trên sân khâu có một cái gì đó rất gần gũi với các tác phẩm của Samuel Beckett và Harold Pinter. Sau khi nhà văn danh tiếng Yukio Mishima qua đời, Abe được xem như nhà soạn kịch chủ chốt ở Nhật vào những năm 1970. Nhà hát của ông, còn có tên Abe Kobo Studio, được mời lưu diễn tại New York City vào năm 1979. Abe mất vì bệnh tim ngày 22 tháng Giêng năm 1993, giữa lúc đang viết tiểu thuyết cuối cùng The Flying Man (Người bay), tác phẩm vừa mới xuất bản đã ngay lập tức được truy tặng giải thưởng trong năm 1993. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Hà Nội, Mùa hạ 2009 Chú thích: [1] J. Thomas Rimes trong A reader’s guide to Japanese literature, 1999. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Trong Cồn Cát của tác giả Kobo Abe.