Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vô Thường

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Vô Thường của tác giả Nguyễn Bảo Trung.   Công việc làm báo Y tế giúp tôi có cơ duyên được tiếp xúc với các cây bút bác sĩ. Trong những hạnh ngộ ấy, tôi may mắn gặp được Bảo Trung, với tên khác là Vô Thường. Tôi nhớ dịp đó vào tầm năm 2013, khi làn sóng hiểu lầm về nghề bác sĩ tràn lan trên mạng xã hội, thì mỗi sáng dậy, không riêng tôi, mà rất nhiều bạn đọc, thấy lòng chùng lại khi gặp được những dòng chữ như thủ thỉ, như sẻ chia về những nỗi đau của người thầy thuốc bất lực trước sự nghiệt ngã của cái chết. Mỗi câu chuyện được thể hiện một cách giản dị, nhưng đều ẩn những tầng ý nghĩa vô cùng sâu sắc mà người đọc như thấy chính mình trong đó, cũng mải miết với cơm áo gạo tiền nên chót vô tâm với cha với mẹ, với người thân của mình. Có bạn đọc nhắn rằng, đọc chuyện của Vô Thường xong, e phải thu xếp ngay về thăm ba mẹ, bởi không biết còn gặp song thân được bao lần… Phải là một người ngấm triết lý Phật giáo lắm, phải có một trái tim đa cảm lắm, yêu thương con người, yêu thương cuộc đời lắm mới viết được những dòng trắc ẩn, lay động người đọc đến vậy. Có lẽ, công việc của một bác sĩ cấp cứu, ngày qua ngày trực tiếp đối diện với tận cùng nỗi thống khổ của kiếp người, tật bệnh, đói nghèo, chết chóc… nên trong anh luôn nặng nỗi niềm ẩm ỉ, đau đớn về thân phận con người. Mỗi câu chuyện Vô Thường đưa lên đều khiến nhiều, rất nhiều bạn đọc rơm rớm nước mắt, nhưng sau những lay động ấy, là sự thức tỉnh, khiến mọi người tu thân tu tâm một cách vô thức và tự nguyện. Đó là thành công lớn của tác giả Bs. Bảo Trung - Vô Thường mà không phải cây bút nào cũng làm được. Những dòng như lời tâm sự, như là kể chuyện của Bs. Bảo Trung luôn đánh thức cái thiện, cái tình vốn ẩn trong sâu thẳm mỗi người mà vì bon chen cuộc sống, đôi khi nó bị lu mờ bị chìm đi. Những dòng viết của Bs. Bảo Trung khiến người ta thấy buồn, nhưng trong nỗi buồn vẫn lóe lên sự ấm áp tin cậy vào trái tim nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn của người bác sĩ, lóe lên niềm tin vào những điều tử tế vẫn hiện diện trên cõi đời này, ở cả những nơi tận cùng đau khổ chốn nhân gian. Có cảm giác mỗi khi đọc chuyện của Vô Thường xong, bạn đọc sẽ ngộ ra rằng “Đời ngắn lắm thương nhau còn chưa đủ. Nói làm chi lời chia cách vực sâu...” như lời thơ của nhà sư Thích Tánh Tuệ trong bài “Cho bõ lúc trăm năm”. Nhận được tin Vô Thường ra sách, tôi mừng lắm, bởi giữa những hỗn mang trong dòng đời, tập sách này thực sự là một món quà, giúp người người đang ngày ngày phải mang vác những nặng nề, mệt mỏi của số phận trên lưng, tự tìm được con đường giải thoát. Giải thoát khỏi những đau khổ do chính mình chưa ngộ ra mà vướng phải, từ đó biết đem đến thương yêu đúng cách cho cuộc đời và cho bản thân mình. Những câu chuyện có thật ghi ở phòng cấp cứu trong cuốn sách này giúp người biết thương người hơn, giúp cuộc sống bớt đi những khổ đau, những nuối tiếc, những ân hận vốn vẫn ẩn sau hai chữ “giá như” khi mọi chuyện không còn cứu vãn được nữa. Từng câu từng chữ của Vô Thường như một liệu pháp thiền định trị liệu, hàn gắn những vết thương mà mỗi người đều không thoát khỏi trong hành trình mưu sinh của mình. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn chữ duyên cho tôi được đọc những câu chuyện của Vô Thường mỗi khi lòng hoang mang buồn bã, cảm ơn chữ duyên cho tôi có được hạnh ngộ gặp gỡ một tấm lòng nhân hậu, trí tuệ, đẫm triết lý đạo Phật của Bs. Bảo Trung. Những câu chuyện của anh, từng ngày từng ngày giúp tôi cũng như nhiều bạn đọc biết buông bỏ những phù du thường nhật để cảm nhận được cái đẹp vốn vẫn hiện hữu trong đời. Trần Yến Châu Trưởng ban Báo Điện tử Báo Sức khỏe và Đời sống Bộ Y tế *** Sống sâu Sáng nay một bệnh nhân nam 50 tuổi, làm ruộng, quê ở Tiền Giang đến khám bệnh xin thử mỗi đường huyết. Mình mới hỏi: - Sao chú muốn thử đường huyết? - Vì tôi sụt cân nhanh, người ta nói do bệnh tiểu đường. - Đã bỏ công từ quê lên đây, sao chú không khám tổng quát luôn? Giả sử thử máu có kết quả bị đái tháo đường thì cũng phải xem chức năng gan, thận và đánh giá biến chứng mới điều trị được chứ. Mình vừa giải thích vừa nhìn bệnh nhân, và mình hiểu vẻ ngập ngừng đắn đo ấy, có lẽ bệnh nhân nghèo. - Dạ, thử hết mấy thứ đó bao nhiêu bác sĩ? - Bệnh viện công giá rẻ lắm. Chú đi thử đi. Khi cầm kết quả phim phổi trên tay, tự nhiên mình nghẹn lời, dù rằng mỗi ngày mình tiếp xúc với rất nhiều bệnh nhân với đủ loại bệnh tật khác nhau. - Chú hút thuốc nhiều không? - Cỡ một gói một ngày. Bữa nào buồn hút nhiều hơn. - Chú uống rượu nhiều không? - Mỗi ngày, nhưng chủ yếu vui chơi với anh em, người vài xị. - Chú có vợ con gì không? - Dạ, một vợ, ba con. Nhưng nhà có vài công ruộng, nên tụi nó bỏ lên Bình Dương làm công nhân hết rồi. - Cháu nghĩ chú nên qua bệnh viện Phạm Ngọc Thạch khám. - Tôi bị lao hả bác sĩ. - Cháu cũng hy vọng là lao. Nhưng... - Bác sĩ cứ nói đại đi. Tôi ở quê lên khám bệnh cực lắm. - Cháu nghĩ đây là khối u. Nhưng chú biết đó, có u lành u ác. Mà u ác bây giờ có thể trị được. - Ý bác sĩ là ung thư phổi hả? - Chưa chắc đâu. Phải làm thêm xét nghiệm, sinh thiết ... mới có thể kết luận. Một khoảng im lặng kéo dài. Mình nhìn khuôn mặt bệnh nhân từ trắng bệch chuyển sang tím tái và khoảng mười lăm phút sau mới trở lại bình thường. - Ung thư phổi thì sống được bao lâu bác sĩ? - Chưa chắc đây là ung thư. Nhưng nếu ung thư thì có thể vài tháng, vài năm... Tùy vào cơ địa mỗi người, tuỳ vào phương pháp điều trị. - Tại sao lại là tôi chứ? - Tại sao không là chú? - Tại... Lại một khoảng im lặng kéo dài. Mình không nỡ mời bệnh nhân kế tiếp dù sáng thứ Hai rất đông. - Tôi về bỏ thuốc lá và rượu có thể cứu vãn được không? - Cháu nghĩ, bỏ được thì tốt. Nhưng bây giờ việc này không còn ý nghĩa nữa rồi. Mình vẫn hay tự hỏi: Rượu bia và thuốc lá có điều gì hấp dẫn đến vậy, nhưng không có câu trả lời. Lúc trước mình còn ngạc nhiên khi thấy Việt Nam là nước tiêu thụ rượu bia và thuốc lá lớn nhất thế giới, bây giờ thì mình không còn ngạc nhiên nữa. Vì đã hiểu một phần. “Vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, không vui không buồn cũng nhậu”, hình như rất đúng khi mô tả con người Việt Nam. Mỗi chiều tối đi làm về thấy quán nhậu nào cũng đông nghẹt khách. Hết chén chú đến chén anh. Rồi một ngày nào đó bệnh tật kéo đến. Có những bệnh có thể chữa lành, có những bệnh tiền mất rất nhiều nhưng không thể cứu vãn. Dù vẫn biết ung thư là “trời kêu ai nấy dạ”, nhưng mình không tin là mỗi ngày mình sống không tác động gì đến nó. Bạn thử nhìn xem, một người béo phì, ăn nhiều lười tập thể dục... làm sao mà không đủ thứ bệnh về chuyển hoá, một người suốt ngày hút thuốc uống rượu làm sao tránh khỏi ung thư phổi, xơ gan? May mắn lắm cơ địa người đó đặc biệt. - Bây giờ tôi phải làm sao? - Bây giờ cháu kê thuốc tiểu đường cho chú, còn bệnh phổi chú phải qua bên Phạm Ngọc Thạch, bên đó chuyên hơn. - Bác sĩ nói cho tôi biết, tôi có thể sống bao lâu nữa để tôi thu xếp nhà cửa. - Cháu nói thật, không dám chắc chắn về điều gì. Có những thứ hôm nay đúng, ngày mai lại sai. Có những thứ ngỡ là phước nhưng lại là họa. Điều quan trọng bây giờ không phải là chú sống bao lâu, mà sống có thật sự sâu hay chưa? - Sống thật sâu? - Đúng rồi. Chú còn rất nhiều thời gian để suy nghĩ về điều đó. Ví dụ như có bao giờ chú đến quỳ bên gối mẹ chú và thì thầm lời cám ơn? Ví dụ như có bao giờ chú chở ba chú qua con đường làng nơi ngày xưa ba chú dẫn chú đi học? Ví dụ như có bao giờ chú cám ơn người vợ rất mực dịu hiền và chung thủy đã đi với chú ngần ấy năm mà không một tiếng than vãn dù chú nát rượu và nghiện khói thuốc? - Bác sĩ... tôi... tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. - Chú có bao giờ quan tâm đến những đứa con mình? Chú có nghĩ rằng một lời hỏi han của chú thôi đủ làm họ hạnh phúc? - Ơ... - Vậy đó, sống sâu là sống với những điều nhỏ bé đơn giản như thế. Cuộc sống vô thường và con người ai mà không có bệnh có tử. Sau giai đoạn choáng rồi, chú sẽ chấp nhận được thôi. Từ chấp nhận đến quay lại nhìn về chính mình gần trong gang tấc. - Cám ơn bác sĩ. *** - Chú ấy là gì của anh? - Cha ruột. - Anh có hay đưa chú đi khám bệnh không? - Bận lắm bác sĩ ơi, với lại ở xa nhau. - Anh có biết ba anh bị ung thư phổi? - Dạ... - Ông ấy hút thuốc nhiều lắm không? - Chẳng những hút thuốc còn uống rượu. Mỗi khi say xỉn về là đập phá nhà cửa chửi bới vợ con... Tôi nói thiệt từ nhỏ đến giờ ổng chưa dạy tôi bất cứ điều gì. Anh em tôi chẳng được đi học... - Anh có hận chú không? - Không. - Không? - Dạ, tốt xấu ổng cũng là cha mình mà bác sĩ. Đúng hay sai đâu có lỗi do ổng, tại ông bà hay môi trường sống nó thế. Mình bất ngờ trước cách trả lời của người con, khi mình mời bệnh nhân ra ngoài để gặp riêng. Anh ta làm công nhân, chắc chắn là ít học. Nhưng học chữ cho nhiều vào làm gì, bằng cấp tiến sĩ giáo sư làm chi mà không biết quan tâm yêu thương cha mẹ già, không biết sống sao cho có tình có nghĩa. - Bệnh này điều trị tốn kém lắm, về mua bảo hiểm gấp đi. Được đồng nào hay đồng đó. - Dạ. Nhìn hai cha con bước ra khỏi phòng khám mà lòng mình chùng xuống. Mình mong có phép lạ xảy ra, bởi cuộc sống không bao giờ lại làm ngơ với một người con chí hiếu. - Tốt xấu ổng cũng là cha mình. Câu nói ấy theo đuổi mình tới tận bây giờ! Mời các bạn mượn đọc sách Vô Thường của tác giả Nguyễn Bảo Trung.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lạc Giữa Nhân Gian
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Lạc Giữa Nhân Gian của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy: Nếu Trên đường rong ruổi là những chia sẻ giản dị và chân thành của Phạm Công Luận thì Lạc giữa nhân gian lại là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của Đặng Nguyễn Đông Vy. Những đoạn văn nhỏ có tính tự sự riêng tư đã tình cờ tạo nên một cuộc đối thoại lạ lẫm và không kém kỳ thú về cuộc đời. Sự kết hợp của đôi vợ chồng nhà báo này dường như đã chứng minh một quan niệm thú vị của Rainer Maria Rilke: "Mục tiêu của hôn nhân không phải tạo ra sự tương đồng bằng cách cắt đứt mọi ranh giới; ngược lại đó là nơi mà cả vợ lẫn chồng đều chọn đối phương là người bảo vệ cho sự cô độc của chính mình, và theo cách đó, họ bày tỏ cho nhau sự tin tưởng mãnh liệt nhất."  *** Nếu Lạc giữa nhân gian là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của Đặng Nguyễn Đông Vy thì Trên đường rong ruổi lại là những chia sẻ giản dị và chân thành của Phạm Công Luận. Những đoạn văn nhỏ có tính tự sự riêng tư đã tình cờ tạo nên một cuộc đối thoại lạ lẫm và không kém kỳ thú về cuộc đời. Sự kết hợp của đôi vợ chồng nhà báo này dường như đã chứng minh một quan niệm thú vị của Rainer Maria Rilke: "Mục tiêu của hôn nhân không phải tạo ra sự tương đồng bằng cách cắt đứt mọi ranh giới; ngược lại đó là nơi mà cả vợ lẫn chồng đều chọn đối phương là người bảo vệ cho sự cô độc của chính mình, và theo cách đó, họ bày tỏ cho nhau sự tin tưởng mãnh liệt nhất." *** Tóm tắt: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách tản văn của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy, được phát hành năm 2023.   Lạc giữa nhân gian là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của tác giả về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc. Tác giả viết về những điều bình dị trong cuộc sống, những khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đáng nhớ, những suy ngẫm về bản thân và thế giới xung quanh. Review: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách nhẹ nhàng và sâu lắng. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy có lối viết giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc. Cô viết về những điều bình dị trong cuộc sống nhưng lại chạm đến trái tim người đọc. Những suy ngẫm của cô về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc rất đáng suy ngẫm. Phần Lạc giữa nhân gian là phần mà mình yêu thích nhất. Tác giả viết về những điều bình dị trong cuộc sống, những khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đáng nhớ, những suy ngẫm về bản thân và thế giới xung quanh. Những suy ngẫm của tác giả rất sâu sắc và đáng suy ngẫm. Tác giả viết về những vùng đất, những con người, những trải nghiệm mà cô đã gặp trên hành trình. Những chia sẻ của tác giả rất chân thành và gần gũi. Đánh giá: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Một số ý kiến đánh giá khác: Ý kiến 1: "Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách nhẹ nhàng và sâu lắng. Cuốn sách mang đến cho mình những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Mình rất thích cách viết của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy. Cô viết rất giản dị nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc." Ý kiến 2: "Mình rất thích những suy ngẫm của tác giả về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc. Những suy ngẫm đó rất đáng suy ngẫm và giúp mình có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống." Ý kiến 3: Nhìn chung, Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. *** Đặng Nguyễn Đông Vy, sinh năm 1979, tại Khánh Hòa. Cô là cựu học sinh của trường THPT chuyên Lê Quý Đôn – Khánh Hòa. Đặng Nguyễn Đông Vy là một cái tên không mấy xa lạ với độc giả, đặc biệt là độc giả của các tờ báo hướng đến đối tượng tuổi mới lớn: Hoa Học Trò, Báo Sinh viên Việt Nam… Đặng Nguyễn Đông Vy còn là thành viên của gia đình “Vì ngày mai phát triển” báo Tuổi Trẻ. Với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và thuần hậu đặc biệt của mình, Đăng Nguyễn Đông Vy - người phụ nữ vừa làm báo vừa viết văn đã mang đến cho độc giả những sáng tác vô cùng sâu lắng, thú vị và độc đáo. Tác phẩm chính - Hãy tìm tôi giữa cánh đồng - NXB Trẻ - Làm ơn hãy để con yên (biên dịch) - NXB Trẻ - Những lối về ấu thơ (viết chung với Phạm Công Luận - bút danh Phạm Lữ Ân) - NXB Hội Nhà văn - Nếu biết trăm năm là hữu hạn (viết chung với Phạm Công Luận - bút danh Phạm Lữ Ân) - NXB Hội Nhà văn Mời các bạn mượn đọc sách Lạc Giữa Nhân Gian của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy.
Lý Lịch Sự Vụ
“Lý lịch sự vụ” được viết từ năm 1822, từ chủ trương của Vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều, viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử. Sách gồm 2 bản, khổ 34 x 28cm, có 148 tờ tức 296 trang. Mỗi trang 12 dòng, mỗi dòng đủ có từ 32 đến 39 chữ, phạm vi ghi chép từ năm 1780 đến 1822. Một bản đã nộp vào Sử quán ngày 22 tháng 6 năm Nhâm Ngọ (1822), một bản lưu chiếu tại nhà riêng. Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm. Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt, trong đó nổi bật là việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Tài liệu này cũng bảo lưu những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Đông phương Tổng trấn nước Anh, thư của vua Louis nước Pháp với nhà chức trách Việt Nam cũng như phúc tư của Việt Nam. Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngãi… Nguyễn Đức Xuyên sinh năm 1759 là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ (xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Năm 1780, ông theo tòng quân với Nguyễn Ánh, được làm đội viên đội cấm binh bảo vệ Chúa. 2 năm sau do có chiến công cùng toàn đội cấm binh truy kích quân Tây Sơn ở đồng Long Mạt nên được thăng làm nội đội Đội trưởng tòng quân tước Xuyên Đức hầu. *** Nguyễn Đức Xuyên (1759-1824) là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế; tổ tiên vốn thừa hưởng được linh khí của núi sông, truyền thống của gia tộc và thời vận của đất nước, đã có nhiều võ công lừng lẫy dưới thời Lê Trung hưng.  Năm 1822, do chủ trương của vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử, Nguyễn Đức Xuyên đã viết bản hồi ký này, gọi tên là Lý lịch sự vụ… Cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm.  Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt:  Thứ nhất: Trong số các bản Lý lịch sự vụ của các trọng thần thực hiện theo lệnh của vua Minh Mạng, đến nay, chúng ta chỉ mới phát hiện được bản của Nguyễn Đức Xuyên.  Thứ hai: Việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Đó là những tờ truyền, tờ phó của bộ tham mưu Nguyễn Ánh, những chiếu, hịch, văn thệ sư, điều lệnh quân đội của Nguyễn Ánh, đều được viết hầu hết với lối văn Nôm có pha thành ngữ chữ Hán, vào cuối thế kỷ XVIII… Trong sách có chép lại những mật tấu của các cận thần như Nguyễn Đức Xuyên, Lê Văn Duyệt, những mật chỉ, mật chiếu của Nguyễn Ánh. Điều đó có ích cho việc tiếp cận với sự thực lịch sử khi nghiên cứu về Gia Long và vương triều Nguyễn.  Thứ ba: Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngã  Tài liệu này tự nó có giá trị về các phương diện văn học, địa lý, đặc biệt là lịch sử cận đại, về các lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Mặt khác, sách còn chép lại những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Tổng trấn phương Đông nước Anh, vua Louis nước Pháp với nhà Nguyễn. Các văn bản này hầu hết do các viên quan người Pháp trong triều Gia Long dịch ra văn Nôm. Điều đó sẽ góp phần tìm hiểu về phương diện ngoại giao cũng như việc buôn bán với nước ngoài, trang bị quân sự và tình hình quan thuế buổi đầu triều Nguyễn.  Cuốn sách này sẽ dành cho độc giả quan tâm đến lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Việt Nam giai đoạn nội chiến giữa Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu. Đặc biệt yêu mến tìm hiểu về lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Ảnh bìa là một trang trong bản gốc Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên.  +TRÍCH ĐOẠN HAY:  10. Trong quân không được đánh bạc, uống rượu. Như ở tại đồn mà đánh bạc thời bất luận quý tiện đều đánh 100 roi, lại thu bao nhiêu tiền mà thưởng cho người đứng ra tố cáo. Uống rượu ở đồn sở thì bị đánh 100 roi, lại truất xuống làm lính bếp. Khi lâm trận đối lũy mà đánh bạc, uống rượu thời bất phân quý tiện đều xử theo quân pháp thị chúng. Bằng như lễ ban thưởng trong quân thời cho tướng sĩ yến ẩm.  11. Gián điệp ở đất địch về, tướng hiệu cũng không được hỏi, gián điệp cũng không được nói, trừ thưa chào mà thôi. Việc không được phép nói mà kẻ ngoại nhân hay đặng, thời gián điệp thám thính đều xử theo quân pháp thị chúng, để nghiêm quân cơ. ”  Mời các bạn mượn đọc sách Lý Lịch Sự Vụ của tác giả Nguyễn Đức Xuyên & Trần Đại Vinh (dịch).
Lính Bay Tập 2
Cả hai tập hồi ký “Lính Bay”, tác giả đã tái hiện lại những trận đánh của Không quân Việt Nam, trung thực, hoàn toàn không tô hồng, không “lên gân”. Trong các trang viết là ngồn ngộn những sự kiện chân thật mà bi tráng của lực lượng không quân Việt Nam non trẻ. Trong những chiến công ấy, hoàn toàn không có cảnh “đã xuất kích là chiến thắng”; đã đánh nhau là “ta thắng, địch thua” Những trang bi tráng rất chân thật ấy khiến bạn đọc càng tin yêu hơn những người lính không quân. Người đọc cảm nhận và quý trọng những chi tiết được coi như “góc khuất” ít được đề cập đến. Lính bay, trong mắt bao người là những “người hùng”, có những “đặc quyền” riêng. Song, trong hồi ký của của Tướng Thái, phi công lái Mic cũng là những người lính như bao người lính trong các quân, binh chủng khác. Họ không phải là “lính cậu” được cưng chiều, vi phạm khuyết điểm là bị “cắt bay”. Trong thời gian bị “cắt bay”, ngoài việc phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, họ vẫn phải lao động, với những công việc nói chẳng ai tin như: đi hốt phân bò, lấy phân bắc để tăng gia sản xuất… Bản thân ông cũng đã từng trải qua những công việc như thế. Tướng Thái đã khắc họa chân thật điều kiện sống, chiến đấu của những người lính không quân nói riêng, của quân đội Việt Nam nói chung, trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. *** Chuyện thật như cuộc đời 16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”. *** Phạm Phú Thái sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh là cụ Phạm Thuần, tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1927, Đảng viên năm 1930. Cụ từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Phú Thọ. Cụ đã từng bị Thực dân Pháp bắt giam và bị tù đày ở nhiều nhà lao lớn như Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo từ những năm đầu của cuộc cách mạng. Về nước năm 1968, anh được làm phi công tiêm kích số 2 cho Đại đội trưởng Phạm Thanh Ngân, bay số1, (là AHLLVT, sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị  QĐNDVN); còn vị trí số 3 trong phi đội chính là Đặng Ngọc Ngự (sau này cũng là AHLLVT). Cuộc đời sự nghiệp của ông, nhiều người cứ ngỡ rằng chàng phi công đẹp trai, tài cao như Phạm Phú Thái sẽ tiến như diều do có "bệ phóng" của một gia đình truyền thống cách mạng từ những năm 1930. Nào ngờ về nước gần một năm, dù được bay ở vị trí phi công tiêm kích nhưng anh vẫn chỉ đeo lon binh nhất, rất khác mọi người bởi chí ít, lúc đó anh cũng đã có 3 tuổi quân kể từ ngày vào quân đội. Và có lẽ vì anh ra trường quá sớm so với bạn đồng khoá nên thủ tục thăng hàm lại cũng chưa làm luôn cho anh? Sau vài trận không kích, anh đã bị tên lửa  địch bắn trúng và buộc anh phải nhảy dù.  Vị Huyện đội trưởng Thanh Chương ở Nghệ An khi làm biên bản đã hỏi tên, tuổi, cấp bậc, đơn vị... của anh sau khi anh nhảy dù xuống địa phận này, họ đã sững người vì thấy anh mở mắt ngồi dậy rồi báo cáo: "Tôi, Phạm Phú Thái, binh nhất, phi công tiêm kích!". Họ lại cứ tưởng anh giấu, không muốn  lộ bí mật nên cứ "năn nỉ" thuyết phục anh trình báo thật về cấp bậc của mình để còn báo cáo về Hà Nội khiến anh bực mình và cũng không biết nói sao. Thế rồi anh Huyện đội trưởng nọ vẫn không tin, phải ghé tại hỏi thầm "Vậy là anh nói thật đấy à ?". Và, sau khi một lần nữa khẳng định phi công Phạm Phú Thái đã nói đúng sự thực thì anh ta thốt lên: "Lạ thật, cầm cả cái tàu bay đắt tiền là thế, sao lại chỉ binh nhất được cơ chứ? Không thể tin được!". Cuối cùng thì viên Huyện đội trưởng cũng gật gù đỡ anh nằm xuống giường rồi nói: "Nếu đúng là như vậy thì Không quân Nhân dân Việt Nam anh hùng quá !"... Sau trận đánh khiến anh bị thương và buộc phải nhảy dù. Khi nằm Viện Quân y 108, anh đã khẩn thiết "van vỉ "đề nghị bác sĩ đừng làm thủ tục thương binh cho anh để anh còn có cơ hội được trở về đơn vị tham gia chiến đấu ... Thật là thú vị với những trang viết chân thật nhưng lại đầy chất văn học từ một vị tướng đánh trận, rất đáng đọc! Mời các bạn mượn đọc sách Lính Bay Tập 2 của tác giả Phạm Phú Thái.
Lính Bay Tập 1
Cả hai tập hồi ký “Lính Bay”, tác giả đã tái hiện lại những trận đánh của Không quân Việt Nam, trung thực, hoàn toàn không tô hồng, không “lên gân”. Trong các trang viết là ngồn ngộn những sự kiện chân thật mà bi tráng của lực lượng không quân Việt Nam non trẻ. Trong những chiến công ấy, hoàn toàn không có cảnh “đã xuất kích là chiến thắng”; đã đánh nhau là “ta thắng, địch thua” Những trang bi tráng rất chân thật ấy khiến bạn đọc càng tin yêu hơn những người lính không quân. Người đọc cảm nhận và quý trọng những chi tiết được coi như “góc khuất” ít được đề cập đến. Lính bay, trong mắt bao người là những “người hùng”, có những “đặc quyền” riêng. Song, trong hồi ký của của Tướng Thái, phi công lái Mic cũng là những người lính như bao người lính trong các quân, binh chủng khác. Họ không phải là “lính cậu” được cưng chiều, vi phạm khuyết điểm là bị “cắt bay”. Trong thời gian bị “cắt bay”, ngoài việc phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, họ vẫn phải lao động, với những công việc nói chẳng ai tin như: đi hốt phân bò, lấy phân bắc để tăng gia sản xuất… Bản thân ông cũng đã từng trải qua những công việc như thế. Tướng Thái đã khắc họa chân thật điều kiện sống, chiến đấu của những người lính không quân nói riêng, của quân đội Việt Nam nói chung, trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. *** Chuyện thật như cuộc đời 16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”. *** Phạm Phú Thái sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh là cụ Phạm Thuần, tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1927, Đảng viên năm 1930. Cụ từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Phú Thọ. Cụ đã từng bị Thực dân Pháp bắt giam và bị tù đày ở nhiều nhà lao lớn như Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo từ những năm đầu của cuộc cách mạng. Về nước năm 1968, anh được làm phi công tiêm kích số 2 cho Đại đội trưởng Phạm Thanh Ngân, bay số1, (là AHLLVT, sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị  QĐNDVN); còn vị trí số 3 trong phi đội chính là Đặng Ngọc Ngự (sau này cũng là AHLLVT). Cuộc đời sự nghiệp của ông, nhiều người cứ ngỡ rằng chàng phi công đẹp trai, tài cao như Phạm Phú Thái sẽ tiến như diều do có "bệ phóng" của một gia đình truyền thống cách mạng từ những năm 1930. Nào ngờ về nước gần một năm, dù được bay ở vị trí phi công tiêm kích nhưng anh vẫn chỉ đeo lon binh nhất, rất khác mọi người bởi chí ít, lúc đó anh cũng đã có 3 tuổi quân kể từ ngày vào quân đội. Và có lẽ vì anh ra trường quá sớm so với bạn đồng khoá nên thủ tục thăng hàm lại cũng chưa làm luôn cho anh? Sau vài trận không kích, anh đã bị tên lửa  địch bắn trúng và buộc anh phải nhảy dù.  Vị Huyện đội trưởng Thanh Chương ở Nghệ An khi làm biên bản đã hỏi tên, tuổi, cấp bậc, đơn vị... của anh sau khi anh nhảy dù xuống địa phận này, họ đã sững người vì thấy anh mở mắt ngồi dậy rồi báo cáo: "Tôi, Phạm Phú Thái, binh nhất, phi công tiêm kích!". Họ lại cứ tưởng anh giấu, không muốn  lộ bí mật nên cứ "năn nỉ" thuyết phục anh trình báo thật về cấp bậc của mình để còn báo cáo về Hà Nội khiến anh bực mình và cũng không biết nói sao. Thế rồi anh Huyện đội trưởng nọ vẫn không tin, phải ghé tại hỏi thầm "Vậy là anh nói thật đấy à ?". Và, sau khi một lần nữa khẳng định phi công Phạm Phú Thái đã nói đúng sự thực thì anh ta thốt lên: "Lạ thật, cầm cả cái tàu bay đắt tiền là thế, sao lại chỉ binh nhất được cơ chứ? Không thể tin được!". Cuối cùng thì viên Huyện đội trưởng cũng gật gù đỡ anh nằm xuống giường rồi nói: "Nếu đúng là như vậy thì Không quân Nhân dân Việt Nam anh hùng quá !"... Sau trận đánh khiến anh bị thương và buộc phải nhảy dù. Khi nằm Viện Quân y 108, anh đã khẩn thiết "van vỉ "đề nghị bác sĩ đừng làm thủ tục thương binh cho anh để anh còn có cơ hội được trở về đơn vị tham gia chiến đấu ... Thật là thú vị với những trang viết chân thật nhưng lại đầy chất văn học từ một vị tướng đánh trận, rất đáng đọc! Mời các bạn mượn đọc sách Lính Bay Tập 1 của tác giả Phạm Phú Thái.