Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đừng Chết Vì Yêu

Tình yêu cũng giống như một viên thuốc đắng tẩm đường, lớp đầu bao giờ cũng ngọt, hết lớp ngọt, chắc chắn sẽ đến một lớp đắng chát. Trong tình yêu, kẻ làm cho ta hạnh phúc nhiều nhất, thì cũng có thể, chính kẻ đó sẽ là người khiến ta đau khổ nhất. Bạn thường nghĩ gì khi bắt đầu yêu một người? Bạn sẽ phản ứng như thế nào, khi bỗng nhiên người yêu của bạn đề nghị chia tay? Bạn sẽ dùng tâm trạng gì để đối diện với một tình yêu tan vỡ ? Bạn sẽ làm gì khi phát hiện ra người yêu của mình ngủ với một người đàn bà khác? Bạn có thái độ như thế nào khi một ngày bạn phát hiện ra người bạn coi như gia đình ruột thịt lại đem lòng yêu mình? Bạn có sẵn sàng chết cho tình yêu của mình hay không? *** [Review sách] Đừng Chết Vì Yêu - Mèo Xù 'Đừng chết vì yêu' là quyển sách đầu tay của Mèo Xù, đưa tên tuổi cô đến gần hơn với độc giả yêu thích văn học trẻ Việt Nam Chọn con tim hay nghe theo lí trí.. "Từ những nhân vật, những số phận trong cuốn sách" Đừng chết vì yêu ", hi vọng rằng mỗi người sẽ tự tìm thấy câu trả lời đúng đắn. Thay vì phải lựa chọn giữa tình yêu và lý trí, hãy để cả hai nhân tố ấy hòa quyện cùng nhau, làm ánh sáng chỉ đường để mỗi chúng ta sẽ không còn lạc lối, sẽ không một ai phải chịu tổn thương day dứt như nhân vật của Mèo Xù."   "Đừng chết vì yêu" là quyển sách đầu tay của Mèo Xù, đưa tên tuổi cô đến gần hơn với độc giả yêu thích văn học trẻ Việt Nam. Nhưng nội dung cuốn sách này cũng chính là nguyên nhân khiến cô bị mang ra chỉ trích vô cùng dữ dội. Chúng ta đang sống ở thời đại mà mọi nguyên tắc cứng nhắc lỗi thời bị đào thải, thay vào đó là dòng chảy mới phóng khoáng, tự do. Thậm chí trong giới trẻ đã xuất hiện không ít những trào lưu xem tình yêu là tất cả hay vì yêu mà bất chấp. Nhưng ở Đừng chết vì yêu, Mèo Xù lại đưa ra một góc nhìn hoàn toàn khác, cô đã thức tỉnh người đọc bằng thông điệp đầy lý trí "Đừng chết vì yêu".  Đây là cuốn truyện dài xoay quanh cuộc sống của nhân vật Thụy – một cô gái có vẻ ngoài phóng khoáng hiện đại nhưng lại mang những suy nghĩ vô cùng truyền thống. Thậm chí cô bị chỉ trích là lạc hậu lỗi thời trong tình yêu, đặc biệt là vấn đề tình dục trước hôn nhân. Thụy là mẫu hình phụ nữ cá tính và bản lĩnh, cô sống rất lý trí đến mức người ta sẽ đánh giá cô là con người thực dụng. Đối với cô, tình yêu có thể quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Chúng ta có thể yêu chân thật nhưng không nhất thiết phải trao trọn niềm tin vào nó, càng không nên xuẩn ngốc tin tưởng quá nhiều vào những lời hứa của đàn ông. Hay nói một cách ngắn gọn như lời tác giả, là đừng chết vì yêu. Như những câu trích dẫn ngay phần đầu cuốn sách "Đàn ông trở nên tốt đẹp hơn khi họ bắt đầu yêu một người phụ nữ, còn phụ nữ bắt đầu bất hạnh kể từ giây phút họ chấp nhận lời cầu hôn của một gã đàn ông".  Người ta vẫn truyền tai nhau câu nói "theo tình tình phụ, buông tình tình theo". Nhân vật Thụy trong câu chuyện của Mèo Xù chính là chứng minh cho điều đó. Trong mỗi cuộc tình, ta vẫn thấy những cô gái yếu đuối, dễ tổn thương thường rơi vào bi lụy. Ngược lại, những cô nàng tự tôn cá tính, thậm chí bất cần một chút lại có sức hấp dẫn đàn ông. Đơn giản, vì đàn ông là phái mạnh, bản năng của họ là ghét bị thuần phục nhưng lại hào hứng với những cuộc chinh phục. Và nhân vật Thụy, có thể là hữu ý có khi là vô tình, sức hấp dẫn tự nhiên từ của một cô gái cá tính, không xem tình yêu là tất cả lại khiến rất nhiều gã trai mê mệt. Đó là Quân – một chàng họa sĩ tâm huyết và tài năng, tuy anh không dư giả vật chất nhưng bù lại anh hiền lành tốt bụng, điều đáng quý nhất ở anh có lẽ là trái tim lãng mạn, si mê của một người nghệ sĩ. Là Việt người đàn ông thành đạt, giàu có và tất nhiên để trở thành một doanh nhân có vị thế trong xã hội, anh ta mang trong mình sự tỉnh táo và lý trí, đôi khi trở thành cứng nhắc. Và người thứ ba, cũng là nhân vật khiến độc giả tâm đắc nhất, đồng cảm nhất và trăn trở nhiều nhất chính là Linh – một chàng trai có vẻ bề ngoài như một cậu trai mới lớn nhưng tâm hồn lại sâu sắc, dám sống, dám yêu và sẵn sàng hy sinh vì tình yêu ấy.  Nội dung cuốn sách đã khắc họa rất thành công bức chân dung những người trẻ tuổi, họ đại diện cho cả một thế hệ đang quay cuồng chao đảo trước ngưỡng cửa cuộc đời. Họ loay hoay trong chính cuộc sống của mình với những nghĩ suy, những quan điểm sống và yêu còn quá nhiều mâu thuẫn. Đúng sai lẫn lộn, thật giả không thể phân minh. Như một ngã tư đường quá nhiều lối rẽ và chọn lựa là ở mỗi người. Có những kẻ chọn con đường bằng phẳng dễ đi, họ sống khôn ngoan và thực tế như Thụy, như Quân, như Việt. Họ chọn cách yêu chừng mực, đặt bản thân mình lên trên hết. Họ không bao giờ thất vọng vì vốn dĩ chưa từng kì vọng. Họ ít khi cam chịu đau đớn bởi những trái tim khôn ngoan ấy luôn biết tạo ra khoảng cách an toàn. Nhưng lại có những người quá ngây thơ khờ dại, dù đã nhìn thấy bão giông đang ập đến ngay trước mắt, nhưng họ vẫn dấn thân bước vào con đường đầy sóng gió phủ vây. Như nhân vật Linh trong câu chuyện của Mèo Xù, ngay từ buổi đầu tiên quen biết Thụy trong vai trò ứng cử viên và người phỏng vấn. Anh đã có những linh cảm thật lạ kì. Nhưng cô gái ấy luôn tỏa ra sức hút không thể nào cưỡng lại. Và như một trò đùa của số phận, anh vẫn rơi vào lưới tình với người con gái ấy để cuối cùng nhận lấy kết cục không thể xót xa hơn.  Trọng tâm cuốn sách xoáy sâu vào những tam giác tình yêu, những mối quan hệ chồng chéo, những ngã rẽ trái ngang mà ở đó không có ai là người chiến thắng. Kết thúc câu chuyện là cái chết bi thảm của Linh và nỗi ân hận muộn màng của những người ở lại. Có lẽ nhiều độc giả sẽ có chung cảm nhận như tôi, câu nói cuối cùng của Linh chắc hẳn đã để lại trong chúng ta niềm ám ảnh: "Đã yêu thì không được mặc cả bất cứ điều gì, kể cả cái chết". Chúng ta sẽ tự hỏi liệu trong câu chuyện này, ai là kẻ đáng thương ai là người đáng trách? Vậy rút cuộc quan niệm nào là đúng đắn để giới trẻ noi theo? Và tác giả Mèo Xù đã cho chúng ta câu trả lời xác đáng. Khi yêu đừng quá tàn nhẫn lạnh lùng như Thụy, nhưng tuyệt nhiên cũng không nên dại dột, bi lụy như Linh. Hãy để cả lý trí và trái tim cùng lên tiếng, hãy can đảm vượt qua nỗi sợ hãi và thành kiến để mở lòng mình. Sống thực tế nhưng không có nghĩa là thực dụng, nếu tồn tại giữa một xã hội mà không thể đặt niềm tin vào bất kì ai, chúng ta đối xử với nhau bằng chiếc mặt nạ lạnh lùng vô cảm, cuộc sống này không phải sẽ rất mệt mỏi sao? Và phải chăng chính sự lạnh lùng cố chấp của người đời mới là nguồn cội đẩy Linh vào cái chết xót xa, cùng quẫn?  Mặc dù không phải nhà văn chuyên nghiệp, nhưng kinh nghiệm viết lách của một nhân viên sản xuất chương trình truyền hình đã giúp Mèo Xù rất vững tay khi chuyển sang nghề sáng tác. Cô luôn biết cách xây dựng hình tượng nhân vật đa chiều. Đằng sau một cô gái nguyên tắc và lạnh lùng như Thụy là nỗi lo sợ ám ảnh đầy yếu đuối khi đối diện tình yêu. Chúng ta có thể chỉ trích Linh vì hành vi tiêu cực coi thường mạng sống, nhưng nguyên do của hành vi dại dột ấy lại xuất phát từ một trái tim cao thượng, một tình yêu quá đỗi chân thành. Những nhân vật của Mèo Xù cứ thế hiện lên rất trần tục, rất đời thường, họ vừa đáng thương lại vừa đáng trách, vừa đáng giận lại vừa xứng đáng được bao dung. Mèo Xù khiến độc giả trải qua mọi cung bậc cảm xúc, có khi yêu, khi ghét, có khi phủ định, có lúc đồng tình. Ta có thể gật đầu tâm đắc với Thụy khi cô luôn sống nguyên tắc và biết cách giữ mình, đó là đức tính thực sự rất cần với những cô gái trẻ. Nhưng sự lạnh lùng đến mức khiên cưỡng lại gây ra những hậu quả quá đau lòng, và cụ thể là cái chết của Linh khiến cô phải sống trong ân hận. Ta có thể đồng cảm với sự hi sinh cao thượng của Linh, nhưng tìm đến cái chết vì bất cứ lý do gì cũng chưa bao giờ là đúng đắn.  Trong thời gian "Đừng chết vì yêu" vừa ra mắt, có một số ý kiến cho rằng, nội dung cuốn sách chỉ là những lời sáo rỗng tự an ủi chính mình của một cô gái nhan sắc tầm thường, thậm chí là xấu xí. Tôi cũng từng hoài nghi về điều đó cho đến khi gấp lại cuốn sách này. "Đừng chết vì yêu", nếu chỉ nhìn vào nhan đề ấy, ta dễ cảm thấy sự lên gân trong quan điểm, một chút khiên cưỡng ở ngôn từ khiến người đọc dễ nhận thấy như tác giả đang cố tình dồn ép tư tưởng vào đầu độc giả. Nhưng thực ra, Mèo Xù không dạy đời ai cả, cô chỉ đưa ra quan điểm cá nhân, không cổ xúy, không kì thị. Tác giả đóng vai trò như một người trung chuyển, qua câu chuyện mà cô chắp bút, từ những nhân vật, những số phận trong cuốn sách "Đừng chết vì yêu", hi vọng rằng mỗi người đọc chúng ta sẽ tự tìm thấy câu trả lời đúng đắn. Thay vì phải lựa chọn giữa tình yêu và lý trí, hãy để cả hai nhân tố ấy hòa quyện cùng nhau, làm ánh sáng chỉ đường để mỗi chúng ta sẽ không còn lạc lối, sẽ không một ai phải chịu tổn thương day dứt như nhân vật trong cuốn sách của Mèo Xù. *** “Đàn ông trở nên tốt đẹp hơn khi họ bắt đầu yêu một người phụ nữ, còn phụ nữ bắt đầu bất hạnh kể từ giây phút họ chấp nhận lời cầu hôn của một gã đàn ông”. Đó là chân lý, là tôn chỉ của những cô nàng độc thân thông thái. Các cô nàng bảo nhau: “Đừng tự đào mồ chôn đi nhan sắc và tuổi trẻ của mình bằng một chiếc nhẫn đeo ngón áp út”. Vậy thì đừng kết hôn, chỉ yêu thôi? Nhưng mấy cô nàng thông thái lại bảo: “Tình yêu cũng giống như một viên thuốc đắng tẩm đường, lớp đầu bao giờ cũng ngọt, hết lớp ngọt, chắc chắn sẽ đến một lớp đắng chát. Trong tình yêu, kẻ làm cho ta hạnh phúc nhiều nhất, thì cũng có thể chính kẻ đó sẽ là người khiến ta đau khổ nhất”. Liệu những điều này có là đúng? *** Giới thiệu “Nếu mình chia tay em có buồn không? Đương nhiên là có. Buồn đến mức độ nào? Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết. Vậy mình chia tay đi!” “Hóa ra tình yêu chưa hẳn kỳ diệu và tốt đẹp như chúng ta vẫn tưởng tượng. Người thông minh nói: “Không phải cứ tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”. Kẻ ngu ngốc nào đó lại nói: “Không phải mọi tình yêu đều vĩnh cửu, nhưng không phải không có tình yêu vĩnh cửu, không ai muốn vì tình yêu mà chết, nhưng nếu chết là cách duy nhất để bảo vệ người mình yêu thì sẽ sẵn sàng làm như vậy”.... Không ai có quyền lựa chọn việc mình được sinh ra trông như thế nào, nhưng mỗi người đều có quyền lựa chọn cách mình SỐNG hay mình chỉ đang TỒN TẠI. Trong tình yêu ai cũng có quyền lựa chọn làm kẻ thông minh hay kẻ ngốc. Người thông minh nói “Đừng chết vì yêu” nhé ! Kẻ ngốc lại nói “Đã yêu thì không được mặc cả bất cứ điều gì, kể cả cái chết”. … “Đừng chết vì yêu” là câu chuyện tình yêu của những người trẻ tuổi sống trong xã hội hiện đại,. Họ loay hoay trong hạnh phúc, trong những yêu thương, trong những quan niệm, những giá trị sống. Có cả những ám ảnh sợ hãi, chạy trốn. Thụy - Một cô gái tài giỏi, có cách sống hiện đại, nhưng trong đầu chứa đầy những quan niệm “cổ hủ” lạc hậu, hoàn toàn không bao giờ cho phép trái tim mình tin vào tình yêu. Cô ấy luôn dùng lí trí để sống… Quân - Một người đàn ông tốt, nhưng luôn tự ti vì cảm thấy không thể mang lại cho người mình yêu cuộc sống tốt nhất, vì thế luôn nuông chiều người yêu để bù đắp sự thiếu hụt về vật chất. Việt - Một người đàn ông giàu có, thành đạt. Là một người yêu nhưng không bao giờ thỏa hiệp, chiều chuộng người yêu bằng mọi cách. Và chỉ vì một sai lầm nhất thời Việt đã đánh mất đi người yêu, tình yêu... Ba người họ đều coi mình là người thông minh trong tình yêu, chỉ có Linh tình nguyện làm kẻ ngốc trong tình yêu. Liệu người thông minh hay kẻ ngốc sẽ hạnh phúc trong tình yêu? Còn bạn, bạn cho rằng mình là kẻ thông minh hay ngu ngốc trong tình yêu? “Đừng chết vì yêu?” là câu hỏi tôi muốn dành cho bạn. Bạn có đồng ý sẵn sàng chết cho tình yêu của mình hay không? Mèo Xù Mời các bạn đón đọc Đừng Chết Vì Yêu của tác giả Mèo Xù.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tôi Là Con Mèo
Ở Việt Nam, sách văn học tầm cao, có ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm người Nhật qua nhiều thế hệ chưa xuất hiện nhiều. Đúng như nhận định của ông Mitsuyoshi Numano, giáo sư văn học của Đại học Tokyo trong Hội thảo văn học Nhật Bản tháng 9-2009 tại Hà Nội: "Hình như phần lớn các tiểu thuyết (của Nhật) được dịch đều thuộc về các nhà văn ăn khách hiện đại trong khi các nhà văn quan trọng trước đó với những tác phẩm có ý nghĩa vượt thời gian thì hầu như chưa được dịch sang tiếng Việt Nam." Trong số lượng rất lớn các tác giả văn học Nhật trong hơn 100 năm từ thời Minh Trị đến nay vị giáo sư này đã lựa chọn ra 10 tác giả văn học mà ông cho là quan trọng nhất ở Nhật gồm có: Mori Ogai (1862-1922), Akutagawa Soeki (1867-1916), Tanizaki Junnichiro (1886-1965), Akutagawa Ryunosuke (1892-1927), Dazai Osamu (1909-1948), Kawabata Yasunari (1899-1972 - giải Nobel văn học), Mishima Yukio (1925-1970), Abe Kobo (1924-1993), Oe Kenzaburo (1935 - giải Nobel văn học), Murakami Haruki (1949). Để người Việt Nam hiểu và thấy được cái hay của văn học Nhật, cần thiết phải dịch văn học Nhật sang tiếng Việt nhiều hơn nữa để người Việt Nam có cơ hội tìm hiểu và tiếp xúc nhiều hơn với các tác phẩm và tác giả quan trọng của văn học Nhật. Chính các dịch giả sẽ là cầu nối để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc. Tôi vui mừng ghi nhận sự xuất hiện của những dịch giả mới người Việt, có nghiên cứu cẩn thận và hiểu sâu về con người, văn hóa Nhật Bản, với niềm say mê văn học Nhật, đã đem đến cho bạn đọc Việt Nam những kiệt tác được dịch trực tiếp từ nguyên bản. Đây là một điểm rất cần khuyến khích và nhiệt tình cổ vũ. Tiểu thuyết Tôi là con mèo của văn hào Natsume Soeki, do bà Bùi Thị Loan dịch từ bản tiếng Nhật, là một trong chưa nhiều trường hợp tôi vừa nói ở trên. Vị trí và vai trò của các tác phẩm của Natsume Soeki trong nền văn học Nhật bản là rất quan trọng, nó ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ người Nhật Bản, bất cứ người Nhật Bản cũng biết đến các tác phẩm Botchan,Wagahai wa neko dearu, Kokoro… của ông. Ông được coi là nhà văn dân tộc lớn nhất trong nền văn học cận đại ở Nhật Bản kể từ thời Minh Trị. Các nhà phê bình văn học đánh giá ông là một trong ba trụ cột của văn học hiện đại Nhật Bản cùng Mori Ogai và Akutagawa Ryunosuke. Năm 2006 bạn đọc Việt Nam đã được đọc cuốn Cậu ấm ngây thơ (Botchan) và bây giờ lại được cầm trên tay bản dịch kiệt tác Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) của đại văn hào Natsume Soeki, cả hai đều do dịch giả Bùi Thị Loan chuyển ngữ sang tiếng Việt và do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Việc Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) tài trợ cho bản dịch tiểu thuyết Tôi là con mèo lần này của bà Loan là một trong những hoạt động rất tích cực trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Nhật Bản và Việt Nam. Tác phẩm dịch này ra đời là món quà ý nghĩa để tiến tới kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Nhật Bản (2013). Tôi là con mèo (Wagahai wa neko dearu) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Natsume Soeki. Mượn lời kể của một con mèo sống trnog nhà một thầy giáo dạy trung học, tác giả đã vẽ nên bức tranh trào phúng về diện mạo điển hình của tầng lớp trí thức Nhật thời Minh Trị. Con mèo lắng nghe và quan sát các nhà khoa học tranh cãi trong căn phòng của "ông giáo" Kushami, thực chất đó là những cuộc thảo luận về triết học và nghệ thuật cũng như thói đời trong thế giới mà mãnh lực đồng tiền đang xâm chiếm tình cảm con người trong buổi giao thời và xung đột giữa văn hóa Đông - Tây ở Nhật Bản. Độc giả sẽ dễ dàng nhận ra sự tẻ nhạt và kệch cỡm trong lối sống, sự nửa vời và lười nhác trong học thuật của những nhân vật chính như ông giáo Kushami, nhà mỹ học Meitei, cử nhân khoa hoạc tự nhiên Kangetsu, rồi một vài nhà thơ, nhà phê bình… từ các cuộc tranh luận như bất tận của họ, xoay quanh nhiều vấn đề nghệ thuật kinh điển và hiện đại, của Nhật cũng như của thế giới. Ở khía cạnh khác, bạn đọc có thể tìm thấy trong cuốn sách này những chi tiết văn hóa đặc trưng của Nhật, được miêu tả tinh tế, tròn trặn và trầm tĩnh. Điểm nổi bật trong kiệt tác này, chính là bạn đọc được làm quen và thưởng thức giọng văn châm biếm hóm hỉnh mang nhiều nét tự trào của một bút pháp bậc thầy. Nhưng lưu ý rằng cái hóm hỉnh lại "rất Nhật" nên người đọc Việt Nam đôi khi cần có chút hiểu biết về văn hóa Nhật mới thấy hết cái hay cái hóm của nó. Dịch giả Bùi Thị Loan là một người Việt Nam am hiểu văn hóa văn học Nhật, hiện tại bà vẫn đang sinh sống và làm việc tại xứ sở hoa anh đào. Bà là một người dịch mới, trong thế hệ các dịch giả văn học thời hiện đại, được tiếp xúc và chuyển ngữ trực tiếp từ nguyên bản. Bản dịch của bà Bùi Thị Loan, mà theo tâm nguyện bà muốn cố gắn chuyển tải một cách trung thực văn phong của một đại văn hào Nhật Bản, có thể, đôi chỗ còn làm cho bạn đọc Việt Nam, nhất là lớp trẻ, cảm thấy hơi có gì đó khác lạ, hơi khó dung nạp. Nhưng dụng ý của người dịch quyết tâm giúp bạn đọc Việt Nam dần khám phá đỉnh núi Natsume Soeki một cách thuần chất và nguyên vẹn, dù không dễ. Như đã nói, vốn dĩ tác phẩm Tôi là con mèo - một tác phẩm được viết ra ở Nhật Bản cách đây hơn một thế kỷ, dù rằng là kiệt tác của nhân loại, sống mãi với thời gian, đã đi vào tâm hồn bao thế hệ người Nhật, nhưng chính người Nhật hiện đại cũng cảm thấy nhiều chỗ khó đọc, vì vậy chuyển ngữ sang tiếng Việt là một công việc đầy gai góc. Đối với độc giả nước ngoài, trong đó có Việt Nam, để thấy hết cái hay, cái đẹp của tác phẩm này thiết nghĩ cũng cần có thời gian. Mọi phán xét xin dành lại cho độc giả. Thúy Toàn *** "Tôi là con mèo" là tác phẩm đầu tay của nhà văn Natsume Soseki (1867-1916). Trong tác phẩm Cậu ấm ngây thơ (NXB. Hội Nhà văn phát hành năm 2006), tôi đã có dịp giới thiệu qua về ông. Có thể nói, đây là tác phẩm rất quan trọng không chỉ đối với cuộc đời và sự nghiệp của Natsume Soseki mà còn đối với cả đời sống văn học Nhật Bản và quốc tế. Bởi vì nó là tác phẩm đã giúp phát hiện ra một đại văn hào, sau đó ảnh hưởng của nó và nhà văn lớn này đã góp phần gieo mầm, tạo ra nhiều nhà văn, nhà văn hóa, học giả có giá trị cho Nhật Bản. Trong số đó có người rất nổi tiếng, như văn hào Akutagawa Ryunosuke, một đệ tử của Natsume Soseki. Trên thế giới, đặc biệt là Hàn Quốc và Trung Quốc, cũng có nhiều nhà Soseki học khá nổi tiếng. Bối cảnh và nội dung của Tôi là con mèo là đời sống hiện thực xảy ra xung quanh nhà văn Soseki. Những nhân vật chính trong truyện cũng lấy nguyên mẫu từ bạn bè, học trò, những người xung quanh ông. Một số được đưa nguyên tên thật vào trong tác phẩm như nhà thơ Masaoka Shiki, nhà thơ Takahama Kyoshi. Nhưng tất cả đều được miêu tả qua lăng kính trào lộng, đùa vui, mang đậm tính chất Rakugo (một loại tấu hề), đại diện tiêu biểu của nền văn hóa Edo. Con mèo và thầy giáo Kushami cũng là nhân vật dựa vào nguyên mẫu là tác giả và con mèo nhà ông. Chính con mèo này đã gợi hứng cho ông viết tác phẩm. Lúc đầu chỉ là ý định viết thử cho vui, ông bắt đầu bằng câu "Tôi là con mèo,…" rồi đưa bản thảo cho tạp chí, nhờ góp ý và đặt tên. Ông Takahama Kyoshi, người phụ trách của tạp chí, đã góp ý lấy câu mở đầu này làm tên của tác phẩm. Kiệt tác "Wagahaiwa neko dearu" (Tôi là con mèo) đã được ra đời như vậy và trở thành một cái tên rất thân quen với bất kỳ người Nhật nào cũng như bất kỳ ai hiểu biết về Nhật Bản. Natsume Soseki lúc nhỏ đã học chữ Hán, sau đó học tiếng Anh và văn học Anh. Ông là người thuộc thế hệ Hán học cuối cùng và thế hệ Tây học đầu tiên của Nhật Bản. Vì vậy trong ông có một khối lượng đồ sộ kiến thức đông tây kim cổ mà ông đã tích lũy được qua nhiều năm bằng trí tuệ của một thiên tài. Trong tác phẩm đầu tay này, những kiến thức ấy được dịp xuất hiện trong mọi cơ hội, khi thì nghiêm túc, khi thì hài hước, đùa bỡn nhưng tất cả đều giúp độc giả khám phá ra những tư tưởng, kiến thức, những trăn trở uyên thâm, cao đẹp, đầy nhân văn của một thiên tài rất nặng lòng với thời thế. Tác phẩm bắt đầu được viết năm 1905, khi cuộc chiến tranh Nhật-Nga (1904-1905) đang ở đỉnh điểm. Truyện in dần trên tạp chí Hototogisu cho đến cuối năm 1905 thì ông định kết thúc truyện ở chương 5. Nhưng do độc giả tha thiết yêu cầu nên ông lại viết tiếp và hoàn thành vào năm 1907 với 11 chương hầu như độc lập với nhau… Đây là tác phẩm văn học quá lớn đối với khả năng của một dịch giả văn học không chuyên như tôi nên bản dịch chưa thể gọi là hoàn hảo trong việc chuyển tải đầy đủ tất cả cái hay, cái đẹp, cái quý của tác phẩm, hòng làm xiêu lòng độc giả Việt Nam như nó đã chinh phục độc giả Nhật Bản. Vả lại, cũng cần phải có thêm điều kiện hiểu biết lịch sử, văn hóa, tính cách tâm lý của người Nhật thì mới tiếp nhận được hết những giá trị của tác phẩm. Bởi vì đối với người Nhật, cái hay của văn học Natsume Soseki cũng giống như cái hay của Truyện Kiều đối với người Việt Nam, người ta thích thú không chỉ vì nội dung mà còn do ngôn ngữ và nhạc điệu của tác phẩm. Người Nhật Bản mỗi tầng lớp mỗi thế hệ, từ các em học sinh tiểu học năm thứ 5 trở đi cho đến các vị cao niên, từ những người lao động bình thường đến bậc học rộng, uyên bác, ai cũng có thể tìm thấy trong tác phẩm này những điều lý thú, cần thiết, bổ ích hay tâm đắc với mình. Mặc dù việc tiếp thu qua bản dịch gặp phải những hạn chế chủ quan từ dịch giả và khách quan từ độc giả, nhưng tôi mong rằng Tôi là con mèo cũng phần nào làm được như vậy với bạn đọc Việt Nam. Hơn nữa, ngoài chức năng là một tác phẩm văn học để giải trí, tôi hy vọng cuốn sách này còn là một nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho những người có nguyện vọng tìm hiểu về Nhật Bản. Để có được thành quả nhỏ này là nhờ công lao rất lớn của nhiều người đã giúp đỡ tôi. Trước hết là chị Lê Thị Bình, bạn tôi, người đã phát hiện bản dịch thảo của tôi và quyết tâm giới thiệu nó với bạn đọc. Chị Bình đã dành nhiều thời gian, công sức và khắc phục nhiều trở ngại để tổ chức thực hiện việc này. Chị là người rất quan tâm đến văn hóa và văn học Nhật Bản, luôn hoạt động tích cực trong Ban văn hóa Hội Hữu nghị Việt - Nhật và trong Câu lạc bộ thơ Haiku Việt Nam. Nhờ công lao và nhiệt tình của chị Bình, với sự giúp đỡ của NXB. Hội Nhà văn, bản dịch Tôi là con mèo đã nhận được tài trợ của Quỹ giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) để cho ra mắt kiệt tác này. Nhân đây tôi cũng xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quý Quỹ và Nhà xuất bản. Trong quá trình dịch, tôi may mắn được một người bạn đồng nghiệp người Nhật đã tận tình giúp đỡ tôi. Không những chỉ đọc duyệt, anh còn dạy cho tôi biết thêm nhiều về tiếng Nhật và kiến thức về nhiều lĩnh vực của Nhật Bản, khiến bản dịch nhuần nhuyễn hơn. Cũng nhân dịp này, chúng tôi còn nhận được sự giúp đỡ của nhà thơ Nguyễn Bao và nhà văn, dịch giả nổi tiếng Thúy Toàn. Những lời nhận xét và chỉ dẫn rất quý báu của hai ông về kiến thức dịch văn học, giúp cho người ngoại đạo như tôi khắc phục được nhiều yếu kém trong công việc. Và biên tập viên Nhà xuất bản đã luôn nhiệt tình và trách nhiệm khi làm việc, trao đổi với tôi từ xa. Xin trân trọng giới thiệu Tôi là con mèo với độc giả. Xin kính dâng bản dịch này lên hương hồn Đại văn hào Natsume Soseki, nhà văn Nhật Bản tôi rất kính phục, nhân ngày giỗ lần thứ 95 của ông (9-12-1916/ 19-12-2011). 7-12-2011 Bùi Thị Loan *** Natsume Soseki (1867 - 1916) là nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận văn học và chuyên gia văn học Anh. Ông sinh ngày 9-2-1867 trong một gia đình Danh chú (“Nanushi"- một loại cường hào địa phương thời phong kiến) tại Tokyo. Tên chính thức của ông là Natsume Kinnosuke (Na-chư-mê Kin-nô-su-ke). Bút danh Soseki chữ Hán là “sấu thạch” có nghĩa là súc miệng bằng đá, lấy từ điền tích “sấu thạch trầm lim” của Trung Quốc, mang ý nghĩa là kiên cường, cứng rắn. Bút danh này có từ sau năm 1889, khi ông gặp Masaoka Shiki, người bạn thân thiết nhất, có ảnh hưởng quyết định đến con người và văn học của Soseki. (Masaoka Shiki (1867 - 1902) là nhà thơ nổi tiếng của Nhật Bản). Ngay sau khi ra đời, Soseki đã bị cho đi làm con nuôi một gia đình thương gia nghèo nên không được nuôi nấng, chăm sóc đầy đủ. Thấy thế, gia đình cha mẹ đẻ đưa ông về, rồi lại cho làm con nuôi một gia đình khác. Cho đến năm 21 tuổi, Soseki mới trở lại nhập tịch gia đình Natsume. Thời kỳ học tiểu học, ông phải chuyển hết trường nọ đến trường kia. Năm 12 tuổi Soseki vào học trường trung học công lập tỉnh Tokyo. Ông bỏ dở năm thứ 2 trung kọc để theo học Hán học trường tư thục. Ở đây, ông đã học được nhiều văn thơ Đường, Tống, Hán thư, sử thư và văn hóa cổ điển Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến văn học của ông sau này về văn phong, về tư tưởng, giá trị thẩm mỹ v.v... Năm 1883, Soseki lại bỏ Hán học, theo học trường tiếng Anh tư thục để chuẩn bị vào trường dự bị đại học. Năm 1884, Soseki vào trường dự bị đại học. Trong thời gian học dự bị, ông đã từng bị bệnh, không thể đi dự thi, đã từng đi dạy cho các trường tư thục để trang trải học phí. Năm 1890, Soseki vào học trường Đại học đế quốc Tokyo (tiền thân của Đại học Tokyo ngày nay), là trường quốc lập mới mở trước đó không lâu. Ổng bắt đầu sáng tác thơ từ thời sinh viên. Năm 1893, Soseki tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tokyo. Ông được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng sư phạm Tokyo. Ngay sau đó ông bị bệnh lao phổi và bệnh suy nhược thần kinh nặng. Để chạy trốn khỏi Tokyo nhằm dưỡng bệnh, năm 1895, ông thôi dạy ở trường cao đẳng, chuyển đến trường trung học Matsuyama, tỉnh Ehime, quê hương của Shiki. Chính trường trung học này là bối cảnh và đề tài để mười năm sau ông viết tác phẩm “Cậu ấm ngây thơ” (Bốt chang) vào năm 1906. Từ 1896, Soseki được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng số 5 ở tỉnh Kumamoto. Năm 1900, Soseki được Bộ Giáo dục Nhật Bản cứ đi nghiên cứu văn học Anh 2 năm ở Luân Đôn. Năm 1903, về nước ông được bổ nhiệm dạy tại trường cao đẳng số I, đồng thời dạy văn học Anh tại trường đại học Tokyo. Việc dạy lý luận văn học Anh ở Đại học Tokyo gặp trục trặc làm cho bệnh suy nhược thần kinh và tình trạng tinh thần của Soseki trở nên trầm trọng. Theo lời khuyên của Takahama Kyosi, chú bút tạp chí "Chim Tứ Quý”, Soseki sáng tác tiểu thuyết để thư giãn tinh thần. Truyện “Tôi là cơn mèo” ra đời, lập tức được hoan nghênh nồng nhiệt và bệnh tình của ông cũng thuyên giảm. Từ đó, Soseki có ý định đi theo nghề viết văn. Ổng viết tiếp “Tháp Luân Đôn” rồi “Cậu ấm ngây thơ”, tất cả đều là những kiệt tác, xác lập chỗ đứng chắc chắn của ông trên văn đàn. Tháng 2-1907, được báo Asihi mời, ông bỏ hẳn nghề giáo viên, vào làm ờ báo Asihi, chuyên viết tiểu thuyết và sáng tác văn học cho đến khi qua đời vào ngày 9-12-1916. Cuộc đời 49 năm với 10 năm viết văn chuyên nghiệp, Natsume Soseki đã để lại nhiều kiệt tác, trong đó có các tác phẩm tiêu biểu là: Cuộc nổi loạn ngoạn mục Ngày 210 Nỗi Lòng “Tôi là con mèo", 1907 “Tháp Luân Đôn”, 1904 “Cậu ấm ngây thơ”, 1906 ‘Hoa thuốc phiện’’, 1907 “Gối Đầu Lên Cỏ”, 1907 “Chàng trai Sanshiro", 1908 ‘Tù đó", 1909 “Cái cổng", 1910 “Người đi đường", 1912 -1913 “Cỏ ven đường", 1915 “Sáng tối", 1916 ... Mời các bạn đón đọc Cậu Ấm Ngây Thơ của tác giả Natsume Soseki.
Xibiri
XIBIRI Tác giả: Ghêorghi Markốp (Georgy Mokeyevich Markov) Quyển sách này không nói về chiến tranh mà nói về cuộc trốn chạy của một tù nhân chính trị bị đày đi Xibiri. Ivan, là một sinh viên, là cháu của một nhà bác học người Nga chuyên nghiên cứu về khoáng sản, địa chất, đặc biệt là vùng Xibiri. Anh bị bắt vì tham gia đấu tranh chống lại Nga Hoàng.Đồng đội đã tổ chức cho anh vượt ngục thông qua sự giúp đỡ của người dân địa phương. Sau khi trốn thoát, anh có nhiệm vụ sang Thụy Điển để giúp ông bác của anh lưu giữ những tài liệu về vùng đất Xibiri mà bọn Tư bản nước ngoài rất thèm muốn và rắp tâm đoạt lấy. Cái thu hút của tác phẩm không năm ở những cảnh rượt đuổi, chạy trốn mà trong tác phẩm này, Ghêorghi Markốp đã miêu tả thiên nhiên và con người ở Xibiri, cách họ chống chọi với khắc nghiệt của thời tiết, cách họ săn thú, đánh bắt cá, cách ngủ đêm, sưởi ấm trên tuyết. Ngoài ra, tính chính trị trong tác phẩm là rất rõ ràng nhưng dễ chịu, dễ tiếp nhận, ngay cả tình yêu giữa Ivan và Ca-chi-a cũng rất nhẹ nhàng nhưng đầy bất ngờ. Một tác phẩm đáng đọc dành do những ai thích phiêu lưu và thích thiên thiên. *** TIỂU THUYẾT HAI TẬP Nhà xuất bản Cầu vồng Mátxcơva 1984 In theo bản dịch của Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội Người dịch: Chu Nga và Thúy Toàn Người hiệu đính: Trần Phú Thuyết Георгий Марков СИБИРЬ На вьетнамском языке © “Известия”, 1976 © Bản dịch tiếng Việt, Nhà xuất bản Cầu vồng, 1984 In tại Liên Xô​ Ghêorghi Markốp (sinh năm: 1911) - nhà văn Liên Xô trứ danh, nhà hoạt động xã hội, Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa: (1974), người đoạt giải thưởng Lênin (1976), tác giả các tiểu thuyết nổi tiếng về Xibiri: “Gia đình Strôgốp”, “Muối của đất”, “Cha và con”. Xibiri là quê hương của nhà văn thời thơ ấu và tuổi thanh xuân. Cùng với cha đẻ, một người chuyên đi săn gấu, ông đã đi dọc ngang khắp rừng taiga và các sông lớn nhất ở Xibiri. “Môi rường thợ săn, lao động kiếm kế sinh nhai, trại của những người đi săn và đống lửa trong rừng taiga là trường học mở đầu của đời tôi”,- Markốp kể như vậy. Tất cả mọi tác phẩm của nhà văn bắt nguồn từ đấy. Tiểu thuyết “Xibiri” (1969 - 1973) của ông cũng đâm rễ ăn sâu vào đây. Mở ra trước mắt người đọc tiểu thuyết này là những bức tranh cuộc sống hào phóng của Xibiri đầu thế kỷ XX: những cánh rừng taiga và thảo nguyên mênh mông, những con sông hùng vĩ; những đầm lầy chứa khí đốt mà ngay cả những lúc băng giá dữ tợn cũng không đóng băng; những ao hồ đầy cá, nhiều thành phố và làng mạc. Cũng như ở khắp nước Nga, tư tưởng cách mạng đã bùng lên tại đây, ngày càng tăng thêm ý chí và khả năng sẵn sàng lật đổ chế độ chuyên quyền, đem mọi tài nguyên của vùng này phục vụ nhân dân. Chủ đề lịch sử cách mạng trong tác phẩm là dựa trên các sự kiện và số phận của những con người cụ thể. “Tất cả những gì đã xảy ra, - Ghêorghi Markốp viết, - đều đan quyện chặt chẽ với hư cấu cả trên cơ sở sự kiện của cốt chuyện, cả về tính cách của các nhân vật”. *** Êpiphan Crivôrucốp, chủ nhân ông đầu tiên ở làng Gôlêsikhinô, đang tổ chức đám cưới cho đứa con trai của y là Nhikipho. Dạo ấy là vào khoảng giữa tháng mười. Gió lạnh từ sông Ôbi từng cơn từng cơn thổi về, cuốn theo những bông tuyết làm mù mịt cả không trung. Trên bãi cát đã óng ánh một lớp băng, trên cánh đồng, trong tầm mắt của ta, những đám cỏ và những thửa ruộng vừa gặt cũng ánh lên qua màng băng mỏng. Mùa đông đang phóng tới, chỉ có những cánh rừng bá hương vây quanh làng Gôlêsikhinô cây mọc sát vào nhau là kìm bớt được phần nào cuộc tấn công ào ạt ấy. Bầu trời trắng đục và những đám mây đen lững lờ trôi trên làng xóm bất cứ lúc nào cũng có thể rắc tuyết xuống phủ kín khắp mọi nơi. Họ hàng đông con nhiều cháu nhà Crivôrucốp làm náo động cả một vùng. Suốt ngày đêm trong ngôi nhà của Êpiphan không ngớt tiếng hát và tiếng phong cầm đệm, tiếng chân dậm của đám người nhảy múa, tiếng hò hét, đùa rỡn của bọn bạn thằng Nhikipho. Những người làm thuê cho nhà Crivôrucốp, người phi ngựa kẻ chạy bộ, tỏa đi khắp nơi lo kiếm nào cá tươi từ sông Ôbi, nào chim đa đa và gà lôi từ rừng taiga, nào những hộp mật và hộp nhựa bạch dương từ cánh rừng trên khu đất vỡ hoang của nhà Crivôrucốp đưa về làm món ăn cho bữa tiệc cưới. Những con chó làng Gôlêsikhinô hoảng sợ trước sự náo động bao trùm khắp làng xóm ấy, đã sủa lên ầm ĩ, liên hồi, sủa đến đứt cả hơi. Vào ngày thứ ba, khi đám cưới đang ở độ náo nhiệt nhất, thì một chiếc thuyền chở viên cảnh sát trưởng của vùng Parabên và năm người vệ binh ghé vào bờ sông, phía làng Gôlêsikhinô. Viên cảnh sát trưởng đẩy cửa xông vào nhà Crivôrucốp và hét lớn, át cả tiếng ầm ĩ làm rung động nhà cửa: - Tôi ra lệnh, tất cả phải im ngay!.. Một tên tội phạm quốc gia quan trọng vào bậc nhất giam ở Narưm vừa trốn khỏi nhà tù! Lệnh xuống là phải tìm bắt cho bằng được tên này, bắt sống hay giết chết đem xác về cũng được! Ai bắt được y sẽ được trọng thưởng! Tất cả hãy lập tức mặc ấm vào - cả đàn ông lẫn đàn bà - không phân biệt! Đám người trong nhà Crivôrucốp đứng ngẩn ra một lúc. Từ lúc cha sinh mẹ đẻ họ chưa từng chứng kiến một sự kiện nào tương tự: hãy dẹp đồ nhắm với rượu lại mà ba chân bốn cẳng chạy đuổi theo một tên tù vừa trốn khỏi nhà giam, chẳng ma nào biết hắn là ai, cứ như thể mình không còn phải là con người nữa mà, lạy trời, là một thứ ngựa cái chết tiệt nào vậy. Mấy cậu thanh niên vừa định phản đối, nhưng viên cảnh sát trưởng đã len được vào tận chỗ Êpiphan ngồi dưới chân bức tượng thánh và thầm thì vào tai y, cái tai sứt đeo khuyên, một điều gì đó. Và người ta nghe tiếng ông chủ nhà quát lớn: - Các bạn trẻ, cấm không ai được nói gì! Vị đại diện cho đức vua đã ra lệnh! Có nghĩa là - hãy gác lại cuộc chơi! Tất cả những người có mặt tại đây hãy ra sân, rồi vào rừng, quãng bờ sông ấy! Tên tù thế nào cũng còn đang loanh quanh ở đấy, nó chưa thể trốn đi đâu được! - Thật là khủng khiếp quá chừng! Ngày xưa người ta săn đuổi thú rừng, bây giờ thì người ta lại bắt đầu săn đuổi cả con người nữa, - sau ba ngày, lần đầu tiên cô dâu dám mạnh dạn cất lời. Nhưng những lời cô nói bị chìm đi trong tiếng hét hò ầm ầm căng thẳng. Tưởng như chỉ thêm một giây lát nữa - thì những bức tường bằng gỗ thông, rất chắc chắn của ngôi nhà hai tầng nhà Crivôrucốp sẽ bật tung ra vì không chịu đựng nổi sự ầm ĩ ấy. - Này Nhikipho, Nhikipho đâu! - ông chủ của ngôi nhà gào tên gọi đứa con trai. - Con hãy rót rượu ra mời các ngài đại diện cho đức vua đi. Rượu vào, mắt sẽ tinh hơn, Nhikipho làm theo lệnh bố. Viên cảnh sát trưởng và đội vệ binh vừa đứng vừa uống rượu và dùng thức nhắm, mỗi người vớ lấy những thứ gần mình nhất: người miếng thịt hươu, kẻ chiếc bánh bột rán với khúc cá chiên, có người lại vớ được chú gà đồng rán tẩm kem chua. Nửa giờ sau, cái đám người hỗn độn ấy, vừa hò hét vừa la lối, chạy tản ra khắp bờ sông. Có nhiều người trong số đàn ông mang theo rìu, xiên, xẻng, thuổng, còn bọn bạn bè thân cận của thằng Nhikipho cũng như bản thân nó thì lại mang theo súng. Ở nhà Crivôrucốp thì các loại vũ khí ấy thiếu gì: nào súng hai cò, nào súng một nòng, súng đạn ria, súng tự chế nòng rèn để giết những loại thú lớn. Các bà líu ríu chạy theo đám đàn ông; những tay say nhất và những đứa hỗn hào nhất thì vừa khua những chiếc thuổng, những que quấy cám vừa gào tướng lên những lời tục tĩu. Một tốp chừng hai chục người đàn ông lực lưỡng theo viên cảnh sát trưởng xuống thuyền, bơi sang bờ bên kia của con sông nhánh. Trong số đó có cả thằng Nhikipho và bọn bạn du đãng của nó. Mọi người đều cảm thấy rằng: nếu như tên tù còn chưa kịp đi khỏi nơi này thì hắn không thể có chỗ nào lẩn trốn tốt hơn là cánh rừng gần bờ sông phía bên kia. Trong cánh rừng rậm rạp và gai góc ấy chẳng chỉ con người mà ngay cả đến ngựa cũng có thể tìm được nơi ẩn náu. Còn ở bờ sông phía bên này, giáp làng, thì đất đai trơ trụi, trâu bò và các loại gia súc vẫn thường được thả rong trên cánh đồng cỏ, ở đây người qua kẻ lại luôn luôn: kẻ ra đồng cỏ, người đi lễ ở nhà thờ Parabên, có người lại mang nào hạt dẻ, nào lông thú và cả những con thú mà họ săn được đến nhà kho của tên lái buôn Grêbênsicốp ở bến sông. Lát sau, những người đàn ông vừa bơi thuyền sang bờ bên kia đã sắp thành một hàng dài và mất hút vào cánh rừng. Bờ bên này cũng được tổ chức chu đáo: đi dọc theo sát mép bờ sông là hai tên vệ binh, ngay bên cạnh chúng là các gã đàn ông và xa một chút nữa là cánh đàn bà. Họ đi một cách trật tự như vậy được khoảng chừng một vecxta[1] không hơn. Sau đó thì hàng ngũ dần dần xộc xệch, nhiều người bắt đầu chậm bước. Bởi sau mấy ngày tiệc rượu lu bù thì không dễ gì mà sai khiến nổi đôi chân của chính bản thân mình. Một số ông già bà lão hơi sức cũng chẳng được là bao. Cuộc săn đuổi tên tù vượt ngục đối với họ rõ ràng là một việc làm quá sức. Bọn con gái mới lấy chồng cũng không hứng thú gì với cái việc phải lội vào đám bùn lầy khi chân họ đang đi những đôi giầy đẹp đẽ, những đôi giày mà họ chỉ xỏ chân vào cả thẩy một vài lần: trong ngày lễ cưới, khi đến nhà thờ vào ngày lễ Thánh và đôi khi đi chơi bời thăm thú bạn bè. Nhưng những tên vệ binh, nhất là chính bản thân Êpiphan Crivôrucốp, thì lại luôn luôn thúc dục mọi người, chốc chốc lại ý ới gọi với sang hàng người dàn ngang ở bờ bên kia, trong cánh rừng. - Này! Này! - bờ phía bên kia gọi vọng sang. - Có đây! Chúng tôi vẫn đang lùng sục, đang lùng sục đây! - Êpiphan lớn tiếng trả lời thay tất cả. Làng xóm, với những chiếc ống khói lò sưởi, với mùi vị của sự no nê, với tiếng bò rống, tiếng chó sủa, đã không còn trông thấy nữa. «Này! Này» - tiếng gọi từ bờ phía bên kia vọng lại mỗi lúc một thưa dần và một khó nghe hơn. Mà ngay cả Êpiphan, mặc dầu lão vẫn tiếp tục đi, cũng đáp lại những lời trao đổi ấy mỗi lúc một ít hứng thú hơn: chắc là lão đã khản cổ rồi. Một tên vệ binh bị sát toạc chân, ngồi bệt xuống mép bờ sông và từ từ cởi vải bọc chân. Thái độ ấy chứng tỏ anh ta không phải là kẻ hăng hái cho lắm với phận sự của mình. Cánh đàn bà lập tức nhận ra ngay thái độ uể oải ấy, và họ cũng không ngu ngốc gì, nên cũng đứng lại theo, giả bộ như mình cũng có việc cần thiết phải dừng chân: để thắt lại giải khăn vuông, để sắn váy, để buộc lại dây giày. Hàng người đi men theo bờ sông đã thưa thớt hẳn, chỉ còn độ mươi người. Đi sát mép bờ sông nhất là Êpiphan cùng với tên vệ binh thứ hai, đi xa mép bờ sông nhất là Pôlia - người vợ vừa cưới của Nhikipho, cô con dâu mới của nhà Êpiphan. Pôlia bước đi, vẻ rất thích thú. Ba ngày liền ngồi sau chiếc bàn chất đầy những đồ ăn thức uống, tiếng ồn ào và sự tấp nập đã làm cho cô vô cùng mệt mỏi. Những đêm đầu tiên của cuộc sống vợ chồng lại càng mệt hơn. Ở đây, giữa mênh mông trời đất, cô cảm thấy mình dễ chịu làm sao! Gió lạnh thổi như quất vào mặt làm nguội đi cái hơi nóng đang rừng rực bốc lên đầy mặt cô, xua tan cơn mệt mỏi, làm cho cô thấy sảng khoái trong người. Pôlia cứ muốn đi xa mãi, xa mãi chỉ để không bao giờ còn phải quay trở lại cái ngôi nhà của nhà Crivôrucốp ngột ngạt, nặng mùi mồ hôi, mùi thuốc lá, mùi của đám người say khướt, mùi rượu mạnh làm cho trí não u mê. Nhưng kìa, dưới chân cô bắt đầu hiện ra những mô đất mọc đầy lau sậy, và trước mặt cô, sau những bụi cây, ánh lên khúc sông cụt chạy vòng theo hình móng ngựa. Có lẽ cuộc săn đuổi sẽ kết thúc ở chỗ này thôi. Chắc ít ai lại còn muốn đi vòng hoặc lội qua cái khúc sông lầy bẩn ấy. Êpiphan đầu cúi xuống lặng lẽ theo sau tên vệ binh, còn mấy mụ đàn bà thì túm tụm lại bàn bạc điều gì rất sôi nổi. Ánh nước như tăng thêm sức lực cho Pôlia. Cô lướt nhanh từ bụi cây này sang bụi cây khác, mong sao chóng tới nơi long lanh kia để vớt nước lên mà rửa mặt. Gần đến bờ sông, cô lao vào chỗ này, rồi lại lao sang chỗ khác, nhưng chỗ nào cũng gặp phải bùn lầy, không sao qua được. Quãng bờ sông cách cô khoảng chừng trăm bước bỗng cao vượt hẳn lên, dốc đứng như vực. Mép bờ sát mặt nước của đoạn sông này luôn luôn được ngọn sóng chồm lên gội rửa nên rắn lại và bên trên được phủ một lớp cát đỏ khá dày. Pôlia bước vội, cô cho rằng con đường nhỏ cỏ mọc xanh um kia nhất định sẽ dẫn tới lối xuống sông. Và quả là như vậy. Con đường nhỏ chạy ngoằn ngoèo uốn theo những gốc dương đen to sụ khoảng chừng ba trăm bước thì bắt đầu lao xuống dốc. Khi chỉ còn chừng ba bước nữa thì tới mặt nước Pôlia bỗng nhìn thấy một người ngồi trong chiếc thuyền nhỏ đậu nép sát vào thành vực, dưới vòm lá um tùm của cây thùy liễu. Cô gái giật nẩy mình vì hoảng sợ, cô không biết nên xử sự thế nào: hô hoán lên cho mọi người bổ tới hay bỏ chạy cho nhanh. Mời các bạn đón đọc Xibiri của tác giả Georgy Mokeyevich Markov (Ghêorghi Markốp).
Cao Điểm Thứ Tư
Tặng X. I. Ma-rơ-sác, người anh, người bạn, người thầy.   CÙNG CÁC BẠN ĐỌC CỦA TÔI   Câu chuyện về cuộc đời ngắn ngủi này không phải do tưởng tượng ra. Tôi biết người con gái mà quyển sách này kể lại, từ khi cô còn bé, tôi cũng đã biết khi cô còn là nữ sinh-đội viên thiếu niên tiền phong, đoàn viên thanh niên cộng sản. Tôi được gặp Gu-li-a Cô-rô-li-ô-va trong những năm Chiến tranh Ái quốc. Còn những điều trong đời của cô mà tôi không tự thấy được, thì những chuyện của bố mẹ, các thầy giáo, bạn gái và cán bộ phụ trách thiếu nhi của cô bổ sung, về đời sống của cô ngoài mặt trận, các bạn chiến đấu của cô đã kể lại cho tôi. Tôi cũng được may mắn đọc các thư của cô, bắt đầu từ những bức sớm nhất — trên những tờ giấy kẻ sẵn của vở học sinh — cho đến những bức cuối cùng, vứt vội vàng trên những trang sổ tay trong lúc tạm ngừng giữa các trận chiến đấu. Tất cả những điều đó giúp tôi biết rõ, như chính tự mắt mình thấy, toàn bộ cuộc đời rực rỡ và sôi nổi của Gu-li-a, hình dung được không chỉ những điều cô nói và làm, mà cả những điều cô cảm và nghĩ nữa. Tôi sẽ rất vui mừng, nếu như đối với những ai sẽ biết Gu-li-a Cô-rô-li-ô-va qua những trang sách này, cô ta cũng sẽ trở thành thân thiết – dù chỉ một phần nào thôi – như đối với những người đã biết và đã yêu cô trong đời sống. Ê-LÊ-NA I-LI-I-NA ***   NGỌN LỬA NHỎ     — Mẹ đừng ra, — Gu-li-a nói. — Con tối lắm Mẹ cúi xuống trên thành giường: — Gu-lênh-ca,[1] tối hoàn toàn không đáng sợ. — Nhưng mà không thấy gì cả! — Chỉ lúc đầu không thấy gì cả thôi. Nhưng rồi con sẽ thấy những giấc mơ rất hay! Mẹ đắp cho con gái ấm hơn. Nhưng Gu-li-a lại ngóc đầu dậy. Cô bé nhìn ra cửa sổ, hơi sang sáng vì những ánh đèn ở đường phổ chiếu qua bức rèm cửa màu xanh. — Ngọn lửa nhỏ đó có cháy không? — Đang cháy. Thôi, ngủ đi con! — Mẹ chỉ nó cho con đi! Mẹ bế Gu-li-a đến cửa sổ. Phía đối diện, trên những bức tường điện Cơ-rem-lanh, một lá cờ bay phấp phới. Lá cờ được chiếu sáng từ dưới lên và rung động như một ngọn lửa. Chính lá cờ đó bé Gu-li-a gọi là “ngọn lửa nhỏ”. — Con thấy không, ngọn lửa nhỏ đang cháy, - mẹ nói. Vì nó sẽ cháy mãi mãi, Gu-lênh-ca ạ! Không bao giờ tắt cả. Gu-li-a ngả đầu trên vai mẹ và im lặng nhìn ngọn lửa rung rinh trên nền trời tối đen. Mẹ lại bế Gu-li-a đến giường: — Thôi, bây giờ con ngủ đi. Và bà đi ra khỏi phòng, để lại đứa con gái nhỏ một mình trong bóng tối. Mời các bạn đón đọc Cao Điểm Thứ Tư của tác giả Êlêna Iliina.
Cửa Hiệu Tự Sát
Trong Cửa Hiệu Tự Sát - Jean Teulé đã đưa quyền được chết trở thành một thứ quyền được công nhận, nơi các công cụ trợ tử trở nên phổ biến, cái chết trở thành sự cứu rỗi cho hy vọng. Thế giới trở nên phi lý, sự sống cũng trở nên phi lý, loài người phải làm thế nào để có thể giữ được những giá trị nhân bản ngay trong cuộc sống vô nghĩa này, làm thế nào để có thể lấp đầy trái tim bằng tình yêu, tìm được hạnh phúc trong thân phận phi lý của con người? *** Tác giả Jean Teulé sinh năm 1953, là nhà văn, tác giả truyện tranh, biên kịch phim điện ảnh và truyền hình người Pháp.  Một số tác phẩm của ông từng xuất bản như: Rainbow pour Rimbaud (1991), Darling (1998), Ô Verlaine! (2004), Je, François Villon (2006), Le Magasin des suicides (2007), Le Montespan (2008), Mangez-le si vous voulez (2009). *** Review của Jenny Lu về sách Cửa Hiệu Tự Sát: " Bạn đã sống dở ư? Với chúng tôi, bạn sẽ chết tốt " Thử tưởng tượng một nơi mà tự tử là một việc hợp pháp, hơn nữa , được khuyến khích. Nghe có vẻ điên rồ nhưng đây chính là bối cảnh của tác phẩm - Cửa hàng dành cho những kẻ ngán sống. Câu chuyện xoay quanh gia đình Tuvache, có truyền thống " trợ tử " hơn mười đời. Cửa hàng của họ thật tăm tối , không có một tia sáng mặt trời nào và chỉ có ánh sáng tù mù từ đèn ne-ông như nhà xác. Họ cũng không bao giờ cười, luôn luôn tiễn khách hàng bằng câu " Xin vĩnh biệt". TRong cửa hàng luôn là những dụng cụ ghê rợn như dây treo cổ , thuốc độc , súng , ... và khách hàng luôn nhận được lời tư vấn nhiệt tình ( nhưng cũng rợn hết sức) . Ông bà Tuvache nhồi nhét vào đầu con cái họ những điều bi quan , những thảm họa , những tư tưởng muốn chết. Tuy nhiên , họ bó tay với đứa con út - Alan Tuvache- một đứa trẻ luôn lạc quan và giúp họ " khuynh gia bại sản" Nửa đầu cuốn sách là một màu xám u ám , càng về sau khi Alan dần dần thay đổi suy nghĩ của ba mẹ mình thì những màu sáng mới được vẽ lên. Nó không phải là một cuốn sách buồn về cái chết , mà lại là một cuốn sách vừa bi vừa hài , cảnh hài hước đã xuất hiện ngay từ đầu cuốn sách ( lần đầu tiên đọc một cuốn sách về đề tài này mà cười nhiều đến vậy) Mỗi một khách hàng tìm đến cửa tiệm với những lý do khác nhau và có cả tất cả các độ tuổi. Người tìm đến vì bệnh tật hoặc vì chán nản, ... Có những lý do rất quen thuộc với mình. Một trong những đoạn ấn tượng nhất là : " - Sao con lại vẽ chị ấy đang bận rộn và xinh thế hả? Con biết rõ là chị ấy luôn nói mình là đồ vô dụng và xấu lắm kia mà? -Nhưng con , con thấy chị ấy xinh - Marilyn đưa hai lòng bàn tay lên bịt tay, bật khỏi chiếc ghế đẩu và chạy biến về phía cuối cửa hàng" Mình từng trải qua những cảm xúc thật tồi tệ , như nhân vật Marilyn. Cũng đã từng thử các phương pháp ... nhưng đương nhiên là không thành công. Qua những kháh hàng chán sống đó , dường như tác giả muốn gửi gắm rằng bất kỳ một lý do , mọi lứa tuổi , chỉ cần cảm xúc tiêu cực xuất hiện , là đủ đưa họ đến với cái chết. Vì vậy đừng thờ ơ với nhưng người xung quanh mình. Nói chung cuốn sách khá đáng đọc , có những đoạn khá cảm động , chỉ tiếc cho cái kết khá bi thương và gây khó hiểu. " Sứ mệnh của Alan vậy đã được hoàn thành , nó liền buông tay ra " Thật sự không hiểu sao Alan lại phải tự tử nữa trong khi là nguời lạc quan nhất? Hay đó là một cách để tác giả làm cho độc giả phải lưu luyến? p/s : Mình đọc bản cũ , dưới tựa " Cửa hàng dành cho những kẻ ngán sống" *** Cửa hiệu tự sát được viết bởi nhà văn người Pháp Jean Teulé. Tác phẩm này từng được chuyển thể thành phim hoạt hình của Pháp mang tên “The Suicide shop” được phát hành vào năm 2013. Cửa hiệu tự sát kể về một thế giới không có thực, ở đó cuộc sống trở nên phi lý, con người có quyền được lựa chọn cái chết. Tại nơi đó có một cửa hiệu mang tên “Cửa hiệu tự sát”- nơi bán tất cả những vật dụng giúp con người có thể tự kết thúc cuộc sống của mình. Xã hội loài người phải làm thế nào để có thể mang lại ý nghĩ tồn tại? Là tình yêu? Cái gì là Ánh sáng của nguồn sống cho thế giới của họ? Một thế giới giả tưởng đầy tăm tối và chết chóc Là một cuốn sách thuộc thể loại “Phản địa đàng” (Dystopia) – thể loại sách viết về một thế giới được xây dựng từ nền tảng là thế giới mà con người hiện nay đang sống. Tuy nhiên Cửa hiệu tự sát lại là một thế giới đen tối hơn rất nhiều, đó có thể là một thế giới được gây dựng nên sau khi thế giới bị hủy diệt, hậu tận thế, hoặc một chính phủ bị lật đổ. Tuy nhiên, đây cũng là một thể loại sách rất nhân văn. Viết về cái chết để ca ngợi hạnh phúc được sống, là một cách thức để châm biếm và đả kích vào những mặt trái đang tồn tại trong xã hội loài người mà vô tình bị lãng quên hoặc buộc phải chấp nhận. Phản địa đàng là một thể loại sách khá khó đọc vì nó thường rất đen tối, khiến người đọc dễ rơi vào cảm giác nặng nề và đọng lại nhiều suy ngẫm. Nếu muốn thử trải nghiệm một thể loại sách mới, nếu muốn mở rộng cảm quan đọc của bạn thì Cửa hiệu tự sát là một khởi đầu hợp lý vì sự nhẹ nhàng tương đối của nó. Cửa hiệu tự sát hoàn toàn không phải là một tác phẩm kinh dị như cái tên mà nó gợi ra và nó cũng là một cuốn sách đỡ đen tối hơn rất nhiều so với các tác phẩm cùng thể loại. Giữa một xã hội mà cái chết được coi là khởi đầu cho mọi hy vọng, việc tự sát hoàn toàn được công nhận, người ta luôn nghĩ đến cái chết đầu tiên khi gặp bất cứ một nỗi buồn hay sự cố nhỏ nào trong cuộc sống. Cửa hiệu tự sát đề cập đến cái chết một cách tự nhiên như con người chúng ta thường nói về sự sống, thế giới được miêu tả bản chất là đen tối nhưng lại được kể một cách hài hước- một kiểu hài hước lấy ra từ những vấn đề chẳng hài hước chút nào- Đó là cách kể chuyện thường thấy của những bộ phim thuộc thể loại “Hài kịch đen” (Black comedy). Thực trạng của xã hội – “Trào lưu” tự sát Cuốn sách miêu tả rất ít ỏi về thế giới bên ngoài, tất cả những sự việc xảy ra chỉ gói gọn trong không gian của Cửa hiệu- Nơi sinh sống và buôn bán những vật dụng để giúp con người ta tự sát – của gia đình Tuvache gồm một cặp vợ chồng và ba người con lần lượt tên là Vincent, Marilyn và cậu con trai út khác biệt Alan. Những vị khách của Cửa hiệu tự sát, họ để những áp lực, sự buồn chán và nỗi cô đơn đeo bám vào cuộc đời mình khiến bản thân họ tàn tạ, thảm hại tới mức chính họ cũng phải cảm thấy nực cười và ghê tởm. Không cần những viên kẹo độc, không cần những lưỡi dao cạo sắc bén hay sợi dây thừng thắt cổ. Chỉ cần đưa cho những vị khách một chiếc mặt nạ bằng nhựa màu trắng phi nhân cách, trên mũi chiếc mặt nạ gắn một cái gương vậy là đủ để họ cười sặc sụa, thấy ghê tởm mà dẫn đến một cơn đột quỵ. Câu chuyện mà Cửa hiệu tự sát mang đến không phải là thực trạng của một thế giới tưởng tượng. Tự sát là một tình trạng đáng báo động có thực của xã hội con người. Xã hội càng phát triển, con người càng dễ bị cô lập, trầm cảm và tìm đến cái chết. Điều gì khiến một con người được tạo hóa ban cho sự sống, nhưng lại sợ cảm giác được sống? Con người thường bận tâm về những điều người khác nói về mình, thay vì tự yêu thương và chăm sóc, trân trọng những điều bản thân đang sở hữu. Marilyn – con gái của cặp vợ chồng chủ Cửa hàng tự sát là “ người thiếu nữ đẹp nhất khu phố! Không một cô gái trẻ nào trong khu phố Những Tôn Giáo Bị Lãng Quên có thể bằng cái mắt cá chân của cô (Vì cô vô cùng xinh đẹp)”. Tuy nhiên suốt nhiều năm, Marilyn luôn tự ti về bản thân, đó là bởi bố mẹ của cô luôn nói rằng cô thật xấu xí và vô dụng. Nếu con người được nghe quá nhiều về cùng một điều, họ sẽ tin điều đó là đúng. Marilyn cũng vậy. Còn anh trai của Marilyn – Vincent, đó là một cậu bé thông minh và có vô vàn những ý tưởng. Nhưng tài năng ấy lại luôn bị định hướng xuôi theo những góc nhìn tiêu cực và thậm tệ nhất. Bởi vậy, con người không trở nên bất hạnh vì xấu xí và ngu dốt. Cuộc sống là thiên đàng hay địa ngục tùy vào góc nhìn của mỗi con người. Thế giới của Cửa hiệu tự sát là một thế giới đen tối và dường như hoàn toàn không còn hy vọng. Sự ra đời của cậu bé Alan – Con trai út của cặp vợ chồng chủ Cửa hiệu tự sát giống như sự cứu rỗi mà Thượng đế đã ban tặng đến một nơi tăm tối như vậy. Cậu bé khác tất cả những người trong gia đình, khác tất cả những người khách mỗi ngày đến cửa hiệu. Cậu luôn vui tươi, lạc quan và hạnh phúc. Cậu bé làm mòn những lưỡi dao cạo, làm đứt những sợi dây thừng để thắt cổ, loại bỏ những viên kẹo độc trong lọ… và nói những điều lạc quan nhất đến với những khách hàng của gia đình – Alan làm trái tất cả những thông điệp kinh doanh của gia đình.  Alan là hiện thân cho tâm hồn thánh thiện và luôn tràn đầy lạc quan của một đứa trẻ hạnh phúc. Thế giới của Cửa hiệu tự sát là một thế giới dễ liên hệ đến thế giới của những người lớn, một thế giới mà con người giành phần nhiều thời gian của mình để làm việc và áp lực từ chính thứ công việc đó. Họ không biết cách để kết nối với người khác và luôn cảm thấy bản thân thật cô đơn, ngu dốt và nhạt nhòa. Bởi vì họ quá bận tâm tới việc làm hài lòng tất cả mọi người thay vì quan tâm tới cảm nhận của bản thân mình. Alan đã nói với một cô gái trẻ muốn được tìm đến cái chết vì “những người đồng nghiệp cho rằng cô là một người ngu ngốc” rằng: “Đó là vì cô thiếu tự tin. Vì thế cô trở nên long ngóng, nói những điều sai thời điểm. Nhưng nếu cô biết chấp nhận hình ảnh của chính mình trong chiếc mặt nạ này và yêu thương hình ảnh đó…”, “Trước tiên cô hãy kết bạn với cô gái ấy và những người khác sẽ làm theo như vậy”. Không có một cuộc sống hoàn hảo, cũng không bao giờ có được những con người hoàn hảo. Hãy luôn giữ một thái độ tích cực trước những điều bản thân còn thiếu sót và học cách tha thứ cho chính mình, đó cũng là bước đầu để nhìn cuộc sống và những người khác một cách tích cực nhất. “Cuộc đời là như thế. Nó đáng giá của nó. Nó làm những gì có thể, nó cũng có những sai lầm. Không nên đòi hỏi quá nhiều ở cuộc đời. Đến mức phải tự sát.” Một cuốn truyện rất ngắn với một cái kết dài và khó lý giải Cửa hiệu tự sát chỉ dài vỏn vẹn 188 trang giấy. Tuy nhiên lại đề cập được một thực trạng rất lớn và được toàn xã hội quan tâm – Vấn nạn của việc tự sát ngày càng gia tăng, con người coi thường cơ hội được sinh ra và tồn tại. Viết về một xã hội tối tăm nhưng không sử dụng những câu từ nặng nề, đáng sợ hay lớn lao. Thông điệp thật sự được ẩn chứa đằng sau những tiếng cười hài hước. Và một tác phẩm ngắn hoàn toàn không chứng tỏ rằng nó hời hợt, phần lớn tên các nhân vật, từ chính tới phụ rồi tới các địa danh trong truyện đều là những tìm hiểu tỉ mỉ của tác giả Jean Teulé, đằng sau mỗi cái tên ấy là một câu chuyện về những người nổi tiếng đã lựa chọn tự sát để kết thúc cuộc đời mình.  Cửa hiệu tự sát cũng có một kết thúc khá khó hiểu và mang đến nhiều suy ngẫm. Nhất định sẽ có những độc giả cảm thấy, cảm xúc của mình trước đấy giống như bị phản bội. Điều gì ẩn sau cái kết ám ảnh và khó hiểu đó? Cuối cùng sau tất cả, Là tươi sáng hay tăm tối? Là nụ cười hay nước mắt?  Hà Thúy Ngà Mời các bạn đón đọc Cửa Hiệu Tự Sát của tác giả Jean Teulé.