Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khởi Nghiệp Tinh Gọn

Cuốn sách "Khởi nghiệp Tinh gọn" (The Lean Startup) trình bày một mô hình khởi nghiệp vang danh toàn cầu, giúp thay đổi toàn bộ cách thức xây dựng công ty và tung ra sản phẩm mới trên thị trường. “Khởi nghiệp” - hai tiếng đơn giản đó có sức hút mạnh mẽ với bất kỳ ai, không chỉ đối với những người đang ấp ủ một dự án kinh doanh, mà ngay cả những ông chủ đang muốn tìm kiếm một sản phẩm hay một ý tưởng mới để “tái khởi nghiệp”, nói cách khác là tái tạo lại mô hình kinh doanh của mình. Tuy nhiên, từ ý tưởng đến thành công là điều không dễ! Nhiều dự án khởi nghiệp thất bại không phải vì ý tưởng không tốt, chiến lược kém hay tầm nhìn sai, mà cốt lõi của mọi vấn đề nằm ở chỗ chúng ta không có được một mô hình và phương pháp để khởi nghiệp thành công. Vì khởi nghiệp không giống với thành lập và điều hành một công ty theo dạng truyền thống, nên nó cần một mô hình và phương pháp quản trị riêng. Trong quản trị kinh doanh, việc khởi tạo một doanh nghiệp mới hay tái tạo một mô hình kinh doanh cũ luôn có những bài học mà nếu không trả giá thì không thể học được, thậm chí là phải trả giá nhiều lần, trả giá đắt, rất đắt thì mới có thể học được. Tuy nhiên, cũng có những bài học mà không cần phải trả giá vẫn có thể học được. Vậy tại sao không học để bớt phải trả giá? Những bài học đắt giá đó nằm trong cuốn sách đặc biệt này. “Khởi nghiệp Tinh gọn” không chỉ cung cấp những kiến thức nền tảng về phương pháp đã được áp dụng bởi rất nhiều tên tuổi lẫy lừng trong lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo này; mà còn trang bị những phương pháp giúp tăng khả năng thành công, đồng thời cũng giảm thiểu tối đa rủi ro trên hành trình khởi nghiệp hoặc phát triển sản phẩm mới, tái tạo doanh nghiệp của các doanh nhân. Đặc biệt, cách tư duy và những phương pháp trong cuốn sách này không chỉ áp dụng cho những siêu tập đoàn toàn cầu, mà còn áp dụng rất phù hợp cho những doanh nghiệp nhỏ, hay siêu nhỏ. Dù ở quy mô nào hay đang ở đâu trên hành trình kinh doanh, đã đến lúc chúng ta cần phải tư duy một cách TINH GỌN! *** TÓM TẮT Khởi nghiệp tinh gọn (2011) giúp những nhà khởi nghiệp và các công ty công nghệ phát triển những mô hình kinh doanh bền vững. Cuốn sách khích lệ việc nhanh chóng đưa ra các mẫu sản phẩm mới, và chú tâm vào các dữ liệu phản hồi từ khách hàng. Phương pháp được dựa trên các khái niệm về sản xuất tinh gọn và phát triển linh hoạt, và hiệu quả của nó được minh chứng qua phân tích các tình huống trong vài thập kỷ gần đây. NHỮNG AI NÊN ĐỌC NHỮNG “CÁI CHỚP MẮT” NÀY? Bất kỳ ai quan tâm đến khởi nghiệp và/hoặc đang khởi sự một công ty riêng Bất kỳ ai hứng thú với việc phát triển sản phẩm một cách nhanh chóng, và kiểm thử Những người sáng lập, quản lý và nhân viên các công ty công nghệ VỀ TÁC GIẢ CUỐN SÁCH Eric Ries là một nhà khởi nghiệp thành đạt – đồng sáng lập IMVU, một mạng xã hội sử dụng những hình đại diện 3D. Hiện nay, ông là một diễn giả và một nhà tư vấn được mọi người săn đón. CÁCH QUẢN TRỊ CÁC START-UP CẦN PHẢI RẤT KHÁC SO VỚI CÁC CÔNG TY LÂU ĐỜI. Trong 3 đoạn “chớp mắt” đầu tiên, bạn sẽ khám phát ra điều gì mới là mục đích chính các start-up nên theo đuổi. Phương pháp quản trị truyền thống bao gồm hai thành phần: phát triển các kế hoạch và giám sát những người thực thi chúng. Một nhà quản trị tạo ra một kế hoạch, thiết lập các cột mốc, giao phó công việc cho các nhân viên, hướng dẫn họ để đảm bảo hoàn thành các cột mốc kịp thời. Chiến lược quản trị này sẽ hiệu quả trong những công ty lâu năm đến mức họ hiểu rõ phương pháp nào đã có tác dụng trong quá khứ và suy ra cái nào sẽ có tác dụng ở tương lai. Khởi nghiệp thì khác: Họ không thể dự đoán được tương lai bởi họ không có quá khứ, không biết khách hàng muốn gì, và không biết cách tiếp cận nào là tốt nhất để tìm kiếm khách hàng hay xây dựng việc kinh doanh bền vững. Để tìm ra điều gì có thể có tác dụng, họ phải duy trì tính linh hoạt. Việc theo đuổi những kế hoạch với các cột mốc định sẵn hoặc phụ thuộc vào các dự đoán thị trường trong dài hạn là hành động tự lừa gạt mình. Dẫu sao, nhiều nhà sáng lập vẫn sử dụng những công cụ quãn trị hãng/công ty như là “các kế hoạch cột mốc” hay “dự đoán thị trường dài hạn”. Họ hành xử như thể đang chuẩn bị phóng tên lửa, mày mò với nó trong nhiều năm ròng và chỉ “phóng” tại thời điểm mà họ nghĩ là hoàn hảo.Thực tế, quản trị một start-up giống với việc lái một chiếc xe jeep băng qua địa hình mấp mô không bằng phẳng hơn, nơi các nhà sáng lập phải liên tục đổi hướng và khẩn trương phản ứng với các rào cản và ngõ cụt ngoài mong đợi. Tuy nhiên, các nhà khởi nghiệp cũng không nên từ bỏ hoàn toàn việc lập kế hoạch để mang một tâm thế “cứ làm đi” hỗn độn. Việc đấy sẽ chẳng đưa bạn đến đâu cả; ai đó phải điều khiển bánh lái để đưa ra các quyết định khôn ngoan về con đường nào phải đi. Một đội quản trị khởi nghiệp nên cố gắng duy trì một cái nhìn toàn cảnh về tình huống của họ và giữ cho công ty tiếp tục nhấn ga về mục đích chung. Nên, họ cần tìm các thông số đúng đắn để đo đếm xem hành trình của họ có đang dẫn họ đi đúng hướng. Cách quản trị các start-up cần phải rất khác so với các công ty lâu đời. MỤC ĐÍCH CỦA MỘT START-UP LÀ TÌM RA MỘT MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG. Mục tiêu chính của bất kỳ start-up nào là tìm ra một mô hình kinh doanh mang lại lợi nhuận và bền vững. Kế hoạch cột mốc tinh tế và chi tiết nhất, công tác thực thi các kế hoạch đó sao cho hiệu quả nhất, hay thậm chí, sự quan tâm tuyệt đối của báo chí chẳng có chút ích lợi gì nếu họ không có mô hình kinh doanh bền vững đó. Nếu bạn muốn công ty bạn không chỉ là một dự án cưng tạm thời, mà trước sau gì cũng dặt dẹo và chết đi, bạn phải tìm cách để chiếm được khách hàng và kiếm tiền bằng cách phục vụ họ. Giả dụ bạn muốn kinh doanh quanh bằng nghề hướng dẫn đan váy Scotland qua mạng: Hãy tự hỏi, có ai muốn những hướng dẫn này không? Có cách nào kiếm tiền từ họ không? Nếu câu trả lời trong cả hai trường hợp là không, hãy đi tìm việc khác, việc mà người ta muốn và sẵn lòng trả tiền. Do đó, mục đích đầu tiên và duy nhất cho khởi nghiệp của bạn là tìm mô hình kinh doanh bền vững,thứ sẽ có ích hôm nay và cũng hiệu quả kể cả trong tương lai. Trong thực tế, điều này nghĩa là bạn phải tìm ra sản phẩm nào khách hàng tiềm năng muốn và bằng cách nào chuyển đổi nhu cầu đó thành doanh thu liên tục. Trách nhiệm chính của ban quản trị start-up nên tập trung vào toàn thể công ty, bao gồm mọi thứ đang được thực thi mỗi ngày, để vươn tới mục đích duy nhất này. Start-up càng nhanh tìm ra mô hình kinh doanh bền vững, họ càng tiến gần hơn tới thành công. Mục đích của một start-up là tìm ra một mô hình kinh doanh bền vững. TÌM MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG CỦA BẠN BẰNG CÁCH HỌC TẬP QUA KIỂM CHỨNG. Để tìm được một mô hình kinh doanh bền vững, các nhà khởi nghiệp cần phải khám phá khách hàng của họ muốn gì và làm sao kiếm được tiền từ đó. Họ phải tìm đúng sản phẩm cho đúng người và tìm hiểu cách bán hàng phù hợp. Điều này không có nghĩa cần đưa ra một kế hoạch tuyệt vời ngay từ khởi đầu. Đúng hơn, nó đòi hỏi một quá trình học tập không ngừng: phương pháp học tập qua kiểm chứng lý tưởng, nghĩa là học tập thông qua cách tiếp cận khoa học. Để bắt đầu quá trình học tập qua kiểm chứng, bạn phải đưa ra các giả thuyết về việc có thể nào và bằng cách nào một sản phẩm nhất định sẽ thành công trong thị trường đã cho. Ví dụ, “Khách hàng Mỹ sẽ sẵn lòng mua giày qua mạng.” Những giả thuyết ban đầu này cần được kiểm thử,  và chỉ khi nó được chứng nghiệm qua việc đối thoại với khách hàng thì start-up mới biết rằng nó có đi đúng hướng trong việc tìm ra mô hình kinh doanh bền vững hay không. Tuy nhiên, cũng đừng sử dụng các bảng hỏi hay khách hàng hư cấu; thay vào đó, hãy nói chuyện với khách hàng thực sự trong một môi trường thực tế. Cách đáng tin cậy nhất để biết người ta có mua sản phẩm của bạn không là đề nghị họ sử dụng nó và quan sát phản hồi của họ. Hãy xem câu chuyện thành công của Zappos: Khởi đầu với một giả thuyết rằng người ta sẽ muốn mua giày qua mạng. Để kiểm thử ý tưởng này, công ty chụp những bức ảnh giày trong của hàng và trưng bày chúng trên một của hàng web giả mạo. Khi người ta thực sự đã cố mua giày qua mạng, Zappos coi giả thuyết của họ đã được chứng nghiệm. Qua cách tiếp cận này, nền tảng đã được phơi bày cho một trong những mô hình kinh doanh thành công nhất thập kỷ qua. Tìm mô hình kinh doanh bền vững của bạn bằng cách học tập qua kiểm chứng. NHỮNG GIẢ ĐỊNH “CÚ NHẢY NIỀM TIN”: HÃY KIỂM THỬ CÁC GIẢ THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ VÀ TĂNG TRƯỞNG. Một phần của việc phát triển sản phẩm là “cú nhảy niềm tin”: Một nhà sáng lập tin vào sự thành công trong tương lai của sản phẩm mà cô muốn tạo ra, dù chưa có bằng chứng nào cả. Để nhanh chóng xoá bỏ khoảng cách giữa “tin” và “biết”, mỗi nhà sáng lập nên công thức hóa và kiểm thử hai giả định cơ bản: Giả thuyết về giá trị giả định rằng một sản phẩm sẽ mang đến giá trị cho khách hàng của nó – có nghĩa là – những người sớm chấp nhận sẽ đi lùng mua và sử dụng sản phẩm Giả thuyết về tăng trưởng chỉ ra rằng sản phẩm sẽ không chỉ hấp dẫn một nhóm đối tượng nhỏ sớm chấp nhận, mà nó sẽ sớm tìm ra một thị trường lớn hơn. Cả hai giả định trên đều cần được kiểm thử càng sớm càng tốt. Chỉ khi chúng được chứng nghiệm thì sản phẩm mới đáng giá để đầu tư thời gian và nỗ lực. Hãy nhìn vào Facebook: Họ đã thành công trong việc chứng nghiệm cả hai giả thuyết giá trị và tăng trưởng từ những bước đầu tiên khi mạng xã hội chỉ được một vài người sử dụng. Ban đầu, những người dùng đã đăng ký tỏ ra rất năng động trên mạng. Hơn một nửa đã đăng nhập ít nhất một lần mỗi ngày – bằng chứng ấn tượng cho giả thuyết giá trị. Thứ hai, Facebook có một tỉ lệ người dùng kích hoạt đáng kinh ngạc, nghĩa là nó xâm nhâp thị trường rất nhanh chóng. Tại những trường đại học nơi Facebook được giới thiệu, ba phần tư số sinh viên đăng ký chỉ trong vòng một tháng – mà công ty chẳng cần tiêu một đồng nào cho marketing. Bởi thế, giả thuyết tăng trưởng cũng đồng thời được chứng minh. Những con số ấn tượng đó đã thuyết phục các nhà đầu tư tin vào thành công trong tương lai của mạng xã hội mới mẻ này, khiến họ không ngần ngại đầu tư hàng triệu đô ngay từ giai đoạn đầu. Những giả định “cú nhảy niềm tin”: hãy kiểm thử các giả thuyết về giá trị và tăng trưởng HÃY PHÁT TRIỂN MỘT SẢN PHẨM KHẢ DỤNG TỐI THIỂU ĐỂ KIỂM THỬ Nhiều nhà sáng lập tập trung quá nhiều thời gian vào bản thân sản phẩm, trong khi không hề biết liệu có khách hàng nào thật sự sử dụng sản phẩm đó. Nếu bạn muốn tạo dựng công việc kinh doanh bền vững, bạn phải tìm hiểu xem khách hàng có nhu cầu về sản phẩm của bạn không, càng sớm càng tốt. Cách nhanh chóng và dễ dàng nhất để nhận được phản hồi chân thực về ý tưởng của bạn là tạo ra một phiên bản tối giản của sản phẩm. Sản phẩm khả dụng tối thiểu (minimal viable product – MVP)này nên đơn giản hết mức có thể, và chỉ chứa những gì cần thiết để cung cấp cho khách hàng trải nghiệm thực tế về cách mà sản phẩm hoạt động – vừa đủ để thu được phản hồi từ họ. MVP có thể là một mẫu thử nghiệm hết sức cơ bản của sản phẩm, hoặc thậm chí là kiểm thử nhu cầu: vờ như rao bán một sản phẩm giả mạo. Đăng ảnh giày lên một trang web bán hàng, dù bạn chưa có đôi nào để bán, là một ví dụ điển hình. Hãy xem những người sáng lập Dropbox. Họ biết rằng việc phát triển từ ý tưởng thành sản phẩm sẽ tiêu tốn rất nhiều thời gian, vì thế, để kiểm chứng giả thuyết rằng mọi người đang có nhu cầu về một dịch vụ đồng bộ hoá dữ liệu mới mẻ và thân thiện với người dùng, họ chọn một cách đơn giản và sáng tạo: dựng một đoạn video trình bày ý tưởng. Các nhà sáng lập giả định rằng thị trường đang có nhu cầu, và họ đã đúng: trong vòng một đêm, 75,000 người đã đăng ký vào danh sách chờ, và nhóm Dropbox kết luận rằng họ đã đi đúng hướng. Như vậy, họ có thể tự tin bắt đầu phát triển sản phẩm chính thức. Tương tự, trước hết mỗi start-up nên tìm hiểu xem thị trường có thực sự có nhu cầu về sản phẩm của mình hay không, trước khi bắt đầu xây dựng nó. Phát triển sản phẩm khả dụng tối thiểu để kiểm thử ý tưởng của bạn trên thị trường. HÃY XÂY DỰNG, ĐÁNH GIÁ, HỌC HỎI – CÀNG NHANH CHÓNG VÀ THƯỜNG XUYÊN CÀNG TỐT. Trong việc tìm kiếm một mô hình kinh doanh bền vững, ưu tiên cao nhất là học hỏi: mỗi start-up phải học được nên xây dựng sản phẩm nào và làm sao để kiếm tiền từ chúng. Việc này không thể thực hiện nếu bạn tách rời thực tế. Bạn cần phải lộ diện, trưng bày sản phẩm cho khách hàng, nhận phản hồi của họ và học tập từ đó. Để tạo điều kiện cho quá trình trên, hãy thiết lập cái gọi là vòng BML. BML là chu trình xây dựng-đánh giá-học hỏi (build-measure-learn): Trước tiên, bạn xây dựng một phiên bản đơn giản của sản phẩm, như mẫu thử nghiệm hoặc thử nghiệm nhu cầu. Thứ hai, bạn đưa sản phẩm này ra thị trường thực tế và thu về phản hồi khách hàng. Bằng cách thu thập dữ liệu định lượng từ thí nghiệm này, bạn đánh giá mức độ ưa thích với sản phẩm; chẳng hạn, có bao nhiêu người bấm vào nút mua hàng và cố gắng mua giày từ trang web giả của bạn. Khi đánh giá, hãy chắc chắn bạn không chỉ nhìn vào dữ liệu mà còn nói chuyện với khách hàng. Nếu muốn hiểu được dữ liệu, bạn cũng nên tìm hiểu về ấn tượng cá nhân và ý kiến của khách hàng. Những gì bạn học được sau một chu trình sau đó nên được sử dụng để lên ý tưởng và xây dựng một sản phẩm mới, được tối ưu hoá, là thứ đưa bạn tới chu trình BML tiếp theo. Sau đó quá trình này được lặp đi lặp lại tới khi bạn tìm được mô hình kinh doanh bền vững. Điều quan trọng ở đây là tốc độ. Mỗi vòng BML giúp bạn cải thiện sản phẩm và cung cấp cho bạn những hiểu biết quý giá về những gì khách hàng mong muốn. Càng trải qua nhiều vòng, càng nhiều khả năng bạn sẽ tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững của mình. Xây dựng, đánh giá, học hỏi – càng nhanh và thường xuyên càng tốt. SỬ DỤNG KIỂM THỬ PHÂN CHIA ĐỂ TỐI ƯU HOÁ SẢN PHẨM. Khi phát triển và cải thiện một sản phẩm, các start-up cần phân biệt giữa giá trị và phế phẩm: họ phải tìm ra những tính năng nào có giá trị và những tính năng nào không, đối với người dùng. Các tính năng giá trị là những đặc điểm giúp doanh nghiệp thu hút thêm khách hàng hoặc giúp tăng doanh thu. Tính năng nào không thực hiện được cả hai điều trên đều là thừa thãi – cho dù nhà sáng lập hay kỹ sư tin rằng chúng là những thứ tuyệt vời hơn bao giờ hết. Một cách thông minh để phân biệt giữa giá trị và phế phẩm là kiểm thử phân chia. Mỗi khi bạn cân nhắc thêm vào một tính năng mới hoặc thay đổi cái cũ, hãy tạo ra hai phiên bản: một chứa tính năng mới, còn cái kia thì không. Bằng cách kiểm thử cả hai phiên bản, bạn sẽ sớm thấy bản nào được khách hàng ưa thích hơn. Các công ty đầu tiên sử dụng kỹ thuật này là các doanh nghiệp bán hàng qua thư. Ví dụ, để tìm hiểu xem bố cục catalogue mới có giúp tăng lượng đơn đặt hàng hay không, họ in ra hai phiên bản: 50% khách hàng nhận bản cũ và 50% nhận bản mới. Ngoài bố cục, tất cả các đặc điểm khác của hai catalogue đều như nhau, và khách hàng được chia nhóm ngẫu nhiên, vì vậy công ty chỉ cần so sánh lượng đặt hàng giữa hai nhóm. Những dữ liệu này trả lời cho câu hỏi rằng liệu thiết kế mới có hữu ích không. Trên tinh thần đó, mọi start-up có thể kiểm thử tất cả các thay đổi tiềm năng trước khi thực sự thực hiện nó. Muốn biết trang web của bạn hoạt động tốt hơn trong màu đỏ hay màu xanh? Tại sao không tạo ra cả hai phiên bản thử nghiệm và theo dõi mức độ truy cập của khách hàng trong vài ngày? Bất kỳ thay đổi nào bạn muốn thực hiện đều nên được kiểm thử bằng phương pháp ít nhiều có tính khoa học này trước khi áp dụng lên sản phẩm. Sử dụng kiểm thử phân chia để tối ưu hoá sản phẩm. ĐỂ TÌM RA MÔ HÌNH KINH DOANH ĐÚNG ĐẮN CHO DOANH NGHIỆP, BẠN THƯỜNG PHẢI CHUYỂN HƯỚNG. Nhiều start-up tin vào huyền thoại phổ biến rằng chìa khoá dẫn tới một doanh nghiệp thành công là sự kiên trì và ý chí sắt đá: người sáng lập anh hùng nảy ra một ý tưởng tuyệt vời, chiến đấu qua rất nhiều thất bại cho đến khi ý tưởng rốt cục trở thành một cú hit. Nhưng cách nghĩ này đẩy phần lớn start-up vào chỗ gọi là nơi xác chết biết đi. Như những con zombie không não, họ không nhận thức được một điều gì và sẽ tiếp tục làm việc cật lực để bán một sản phẩm mà thị trường không cần. Để tránh điều này, bạn nên liên tục tự hỏi mình cần thay đổi sản phẩm ra sao để nâng cấp nó và tìm được thị trường. Bên cạnh đó, bạn nên xem xét một cách định kỳ rằng có cần một sự chuyển hướng – một thay đổi căn bản. Sự chuyển hướng có thể dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như: định nghĩa lại giá trị cốt lõi của sản phẩm; theo đuổi phân khúc khách hàng khác; hay đổi kênh bán hàng chính. Đặc điểm chính của sự chuyển hướng là những giả định cốt lõi dẫn đến khởi nghiệp đã thay đổi, vì vậy cần phải thử nghiệm các giả thuyết mới. Quyết định chuyển hướng có thể là một việc khó khăn, và bởi thế các start-up thường né tránh hoặc trì hoãn đưa ra quyết định này. Đó là lý do việc tổ chức họp chuyển hướng mỗi tháng một lần có thể có ích. Trong những cuộc họp này, bạn quan sát các dữ liệu đã thu được một cách trung thực, và tự hỏi mình có phải một con zombie đang cần chuyển hướng. Nhiều start-up đã phải chuyển hướng vài lần trước khi đạt được thành công. Hãy nhìn Groupon: khởi đầu là nền tảng cho các hoạt động tuyên truyền và gây quỹ, rồi sau đó mới chuyển thành nền tảng daily deal nổi tiếng ngày nay. Để tìm ra mô hình kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp, bạn thường phải chuyển hướng. MỌI START-UP TRƯỚC HẾT NÊN TẬP TRUNG VÀO MỘT ĐỘNG CƠ TĂNG TRƯỞNG. Một phần cơ bản của bất kỳ mô hình kinh doanh nào là động cơ tăng trưởng đảm bảo cho công ty không bị trì trệ. Có ba loại động cơ tăng trưởng khác nhau: Động cơ gắn kết hoạt động bằng cách giữ chân khách hàng hiện tại, những người đã tạo ra dòng doanh thu liên tục. Trọng tâm không phải là quảng bá để thu hút khách hàng mới, mà là khiến khách hàng hiện tại sử dụng sản phẩm nhiều hơn bằng cách ra mắt tính năng mới hoặc nâng cấp dịch vụ. Động cơ lan truyền hoạt động bằng cách khiến các khách hàng hiện có đảm nhiệm việc tiếp thị cho công ty. Khách hàng mục tiêu biết về sản phẩm thông qua truyền miệng. Điều này có thể giúp bạn tiết kiệm rất nhiều chi phí quảng cáo, vì vậy bạn nên làm sao để khách hàng càng dễ tham gia vào hoạt động viral marketing này càng tốt. Một ví dụ nổi tiếng về động cơ tăng trưởng lan truyền là chữ ký email tự động của Hotmail: “Tái bút: Nhận thư điện tử của bạn miễn phí tại Hotmail.” Cuối cùng, động cơ trả phí hoạt động nhờ đầu tư vào tiếp thị, chẳng hạn qua quảng cáo online có trả phí. Tất nhiên, nó chỉ bền vững khi doanh thu từ khách hàng hiện tại đủ để đảm bảo rằng chi phí cho mỗi khách hàng mới thu hút được nhỏ hơn giá trị khách hàng trọn đời. Nói chung, bạn có thể sử dụng cả ba động cơ tăng trưởng này cùng một lúc, nhưng ban đầu thì tập trung vào một động cơ để khiến nó tăng tốc nhanh hết mức có thể thường là việc làm khôn ngoan. Chú trọng vào một động cơ tăng trưởng cũng giúp đánh giá mức độ thành công của tính năng mới dễ dàng hơn: nếu động cơ tăng tốc nhanh, các tính năng đó là hữu dụng; nếu không, chúng nên được bỏ đi. Mọi start-up trước hết nên tập trung vào một động cơ tăng trưởng. SỐ LIỆU ẢO THƯỜNG TÂNG BỐC NHƯNG GÂY HIỂU LẦM – CHÚNG KHÔNG GIÚP BẠN TÌM THẤY MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG. Không start-up nào có thể tìm ra mô hình kinh doanh hiệu quả mà không cần thỉnh thoảng dừng lại để định hướng, và các định hướng này xuất phát từ việc xem xét các số liệu đúng đắn. Để đánh giá liệu bạn đã tiến thêm được chút nào tới mục tiêu dài hạn hay chưa, bạn cần phải kiểm tra các dữ liệu đã thu thập được trên đường. Thật không may, nhiều start-up đầu hàng trước sự cám dỗ của việc sử dụng số liệu ảo: những số liệu tâng bốc nhưng vô dụng, thậm chí có hại. Chúng khiến một doanh nghiệp trông có vẻ thành công nhưng không đưa nó đến gần hơn với các mục tiêu. Các start-up dựa trên số liệu ảo nhìn vào công việc kinh doanh như một tấm gương lung linh, khiến họ khó đối mặt với những khó khăn thực tế và khắc phục chúng. Ví dụ, được truyền thông chú ý và có nhiều Facebook fan có thể là chuyện tốt, nhưng đừng bao giờ nhầm lẫn đó là thành công. Những việc đó không giúp bạn chi trả các khoản phí, và bạn không nên tốn công tác động vào những số liệu vô nghĩa như vậy. Một số liệu ảo khác có thể là số giờ làm việc bạn đã đầu tư vào sản phẩm, hay những cột mốc đã đạt được. Chúng có thể liên quan (nhưng không nhất thiết) đến thành công của bạn. Vì vậy, đừng bao giờ đặt mục tiêu tối đa hoá chúng. Cho dù ai đó làm việc 100 giờ một tuần, vẫn có khả năng số giờ lao động ấy đã bị lãng phí vào việc gì đó hoàn toàn vô giá trị khi nhìn từ góc độ dài hạn. Để thành công, bạn phải tìm một mô hình kinh doanh bền vững và mở rộng nền tảng khách hàng sử dụng sản phẩm của bạn –  và bạn không thể làm được việc nào nếu cứ chăm chăm vào những số liệu sai lệch. Số liệu ảo thường tâng bốc nhưng gây hiểu lầm – chúng không giúp bạn tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững. MỌI START-UP PHẢI XÁC ĐỊNH ĐƯỢC NHỮNG SỐ LIỆU CỐT LÕI VÀ PHÂN TÍCH CHÚNG ĐÚNG CÁCH. Xác định đúng số liệu để theo dõi và liên tục đánh giá chúng là điều cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ start-up nào. Quan sát được số liệu thay đổi theon hướng tích cực, chỉ qua đó bạn mới có thể chắc rằng mình đang tiến dần tới mục tiêu dài hạn là tìm kiếm mô hình kinh doanh bền vững. Số liệu cốt lõi khác nhau tuỳ theo mỗi start-up, nhưng chúng thường là những số liệu như sự tăng lên trong lượng khách hàng trả phí, chiều dài phiên sử dụng trung bình trên mỗi khách hàng, và số lượt giới thiệu cho người khác trên một nghìn khách hàng đã sử dụng, chẳng hạn. Mọi start-up cần tìm ra số liệu phù hợp cho riêng nó để định hướng và cung cấp nhận định thực tế về quá trình phát triển. Khi phân tích dữ liệu, kỹ thuật được gọi là phân tích nhóm có thể hữu ích. Thay vì chỉ xem xét chung chung doanh thu hay nền tảng người dùng đã phát triển như thế nào, hãy so sánh hành vi của khách hàng mới với khách hàng cũ. Hãy coi một trong những số liệu cốt lõi của bạn là chỉ số khuyên dùng. Để hiểu nó tiến bộ như thế nào, bạn nên kiểm tra các yếu tố sau đây: Trung bình, tần suất một khách hàng đăng ký sáu tháng trước giới thiệu sản phẩm cho bạn bè là bao nhiêu? Còn với khách hàng đăng ký bốn tháng trước? Hai tháng trước? Bằng cách so sánh các nhóm (trong trường hợp này là các nhóm khách hàng đăng ký vào thời điểm khác nhau) và chỉ số khuyên dùng tương ứng, bạn có thể thấy mình tiến gần hơn đến mục tiêu hay không. Chỉ khi các số liệu chuyển biến tốt thì bạn mới đang phát triển; còn không, bạn đang mắc kẹt. Mọi start-up phải xác định được những số liệu cốt lõi và phân tích chúng đúng cách. KẾT Thông điệp chủ chốt của cuốn sách này là: Các start-up nên sử dụng cách tiếp cận ít nhiều mang tính khoa học để kiểm thử các giả định cốt lõi và xây dựng một mô hình kinh doanh hiệu quả dựa trên những giả thuyết đã được kiểm chứng. Họ nên nhanh chóng phát triển mẫu thử nghiệm sản phẩm, không ngừng cải tiến chúng bằng cách thu thập phản hồi từ khách hàng và thông qua các vòng xây dựng-đánh giá-học hỏi. Cuốn sách này trả lời các câu hỏi: Start-up nên theo đuổi mục tiêu chính nào, và tại sao? Cách quản trị các start-up cần phải rất khác so với các công ty lâu đời. Mục đích của một start-up là tìm ra mô hình kinh doanh bền vững. Hãy tìm mô hình kinh doanh bền vững bằng cách học tập qua kiểm chứng. Làm thế nào để các start-up tìm thấy sản phẩm và mô hình kinh doanh đúng đắn? Giả định “cú nhảy niềm tin”: kiểm thử giả thuyết giá trị và tăng trưởng của bạn. Phát triển sản phẩm khả dụng tối thiểu để kiểm thử ý tưởng của bạn trên thị trường. Xây dựng, đánh giá, học hỏi – càng nhanh và thường xuyên càng tốt. Để tìm ra mô hình kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp, bạn thường phải chuyển hướng. Làm thế nào để các start-up tìm thấy động cơ tăng trưởng và phân tích số liệu đúng đắn? Mọi start-up trước hết nên tập trung vào một động cơ tăng trưởng. Số liệu ảo thường tâng bốc nhưng gây hiểu lầm – chúng không giúp bạn tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững. Mọi start-up phải xác định được những số liệu cốt lõi và phân tích chúng đúng cách Nguồn : tsubakidream.wordpress.com Mời các bạn đón đọc Khởi Nghiệp Tinh Gọn của tác giả Eric Ries.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học
Cuốn sách 50 việc cần làm trong khi học đại học: là những lời khuyên đến từ những trải nghiệm thực tiễn của một sinh viên ngành điện ảnh Nhật Bản. Tuy nề nếp sinh hoạt, phong tục tập quán của xã hội Nhật có những đặc thù khác với xã hội Việt Nam chúng ta, nhưng vẫn có cái rất chung: Đã là sinh viên ai cũng muốn thực hiện khát vọng, ước mơ của mình, đạt nhiều thành quả trong học tập để mai này khi bước vào đời gặt hái được nhiều thành công. Vì một ngày mai tốt đẹp hơn, chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ tập sách nhiều suy tư và kinh nghiệm thực tiễn quý báu, thú vị này. *** 50 việc cần làm là bộ sách kỹ năng bán chạy ở rất nhiều nước trên thế giới. Sách tập hợp lời khuyên của tiên sinh Akihiro Ankatani về những chủ đề mà các bạn trẻ quan tâm: rèn luyện bản thân, tạo dựng sự nghiệp, kinh doanh, kết hôn. Mỗi chủ đề tác giả đưa ra đúng 50 lời khuyên, trình bày vô cùng đơn giản, khúc chiết nhưng ý tứ sâu xa. 50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20 - Akihiro Ankatani Cái gọi là môn học bắt buộc ở tuổi 20 có nghĩa là những việc mà chỉ ở tuổi 20 mới có thể làm được. Chỉ những ai ở tuổi ấy cứ bôn ba qua lại một cách uổng công vô ích đến một lúc nào đó mới mới thấm thía rằng: tuổi hai mươi là giai đoạn huy hoàng nhất trong cuộc đời mỗi người. 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học Trên đời này chỉ có 2 loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng - mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Những sinh viên có hoài bão phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy cơ hội khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Vì vậy, quãng đường đại học cũng chính là khoảng thời gian để bạn học cách vượt qua những thử thách đầu đời. 50 Việc Cần Làm Trước Khi Kết Hôn - Akihiro Nakatani Thượng đế sở dĩ chưa để cho bạn kết hôn, là vì trước khi kết hôn, bạn còn rất nhiều việc phải làm. Sau khi kết hôn, người ta mới ân hận: sớm biết thế này, thì những việc cần làm trước khi kết hôn, mình đã thực hiện chu đáo cả rồi. Tiếc rằng trước khi kết hôn, người ta thường không hiểu giá trị của thời gian sống độc thân nên đã đem phung phí khoảng thời gian quý báu đó. 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng Đầu bếp của tiệm ăn Shousi làm gì vào khoảng thời gian giữa cao điểm ban ngày và ban đêm? Nhân viên Akimasi đã tận dụng khoảng thời gian rỗi ấy để học tiếng Anh. Mặc dù cửa hàng không tăng lương và cũng không có bất kỳ khoản phí hỗ trợ nào cho việc này, nhưng anh vẫn kiên trì học tiếng. Bởi vì Akimasi muốn kể tỉ mỉ cho thực khách nước ngoài biết cách thưởng thức món ăn như thế nào, cách nấu món ấy ra sao... Đôi khi chỉ những cố gắng nhỏ từ bản thân bạn nhưng sẽ mang đến những lợi ích không ngờ trong kinh doanh. *** Akihiro Nakatani Akihiro Nakatani sinh năm 1959. Ông là một nhà văn, diễn viên và một nhà sản xuất tài năng và nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một DJ vào năm 1973. Năm 1976, ông được trao giải thưởng của Hiệp hội Các nhà thơ của Asahi Tanka. Năm 1982, ông đã là một nhà văn được nhiều người biết tên. Năm 1984, sau khi tốt nghiệp khóa kịch nghệ tại trường đại học Waseda, ông làm giám đốc kinh doanh tại công ty Hakuhodo - công ty đứng thứ hai Nhật Bản về quảng cáo. Ông đã nhận được giải thưởng ACC bốn năm liên tiếp, kể từ năm 1987. Năm 1990, ông viết quyển "Mensetsu No Tatsujin (Masters for interviews)", về cách để thành công trong phỏng vấn xin việc. Quyển sách gây được tiếng vang lớn và bán được hơn 2,5 triệu bản. Năm 1991, ông thành lập văn phòng của riêng mình. Ông đã xuất bản hơn 370 quyển sách về các chủ đề như kinh doanh, cuộc sống và tình yêu; và đã bán được 2,5 triệu bản một năm ở Nhật Bản, 1 triệu bản tại Hàn Quốc và 4 triệu bản trên toàn thế giới. Hiện nay, sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được phát hành ở nhiều quốc gia. Tác phẩm tiêu biểu 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học 50 Việc Cần Làm Đối Với Khách Hàng  50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20  50 việc cần làm trước khi kết hôn 50 việc cần làm ở tuổi 30… *** hế giới chỉ có hai loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng, mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Các sinh viên thực hiện khát vọng, mơ ước của mình phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy những cơ hội gặp được trong khi học đại học. Tôi cũng là một trong số những sinh viên đó. Nhìn lại cả quãng đường thời đại học, tôi đã phát hiện ra một điểm chung: gặp gỡ với con người cũng là gặp gỡ với sách vở. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 1: Giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 2: Khi cảm thấy “Điều này là không thể!” tiềm năng sẽ xuất hiện một cách mạnh mẽ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 3: Nghe những buổi diễn thuyết làm chấn động lòng người. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 4: Đi nghe giảng không chỉ để lấy được tín chỉ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 5: Một ngày ở đại học dài bằng một năm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 6: Vấn đề tự học. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 7: Mở sách sau khi về đến nhà, cho dù là đã rất khuya. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 8: Lập kế hoạch học tập như đang ôn thi. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 9: Hãy làm quen với những người làm cho bạn căng thẳng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 10: Học tập chăm chỉ hơn cả trong thời gian thi cử. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 11: Đừng học tập một cách miễn cưỡng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 12: Bình tĩnh suy nghĩ xem bản thân mình có thực sự thích học hay không. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 13: Học tập không chỉ ở trong tháp ngà. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 14: Nên có một quyển bài tập không có đáp án.   Vì ngày mai hãy làm việc thứ 15: Soạn một quyển từ điển cho riêng mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 16: Biết không thể làm mà vẫn làm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 17: Có công mài sắt có ngày nên kim. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 18: Cho dù đã thôi học cũng vẫn có việc có thể làm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 19: Đừng quên học bài, làm bài tập. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 20: Cần thực tiễn nhưng cũng cần lý luận. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 21: Bám sát thực tế, tuần tự tiến dần lên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 22: Hãy kết bạn với những lưu học sinh chịu khó học hành. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 23: Hãy học tập những tác phẩm cổ điển. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 24: Phải nhớ kỹ đây là chuyên môn của bạn, chứ không phải chỉ là hứng thú. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 25: Tìm một chốn cho riêng mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 26: Sống ở trong trường. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 27: Phải biết rõ chỗ nào có thể tìm được tư liệu cần thiết. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 28: Giúp thầy làm một số việc. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 29: Hãy sưu tập thật nhiều. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 30: Sáng tạo cái gì đó như một bộ phim hay chẳng hạn. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 31: Phương pháp tăng cường thể lực. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 32: Có từ hai quyển sổ ghi chép trở lên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 33: Chưa tận mắt chứng kiến, không nên tùy tiện khen chê. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 34: Hãy vứt bỏ thành kiến. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 35: Đừng đi làm thêm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 36: Lập kế hoạch tác chiến để có sinh hoạt phí. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 37: Mua một quyển sách trị giá hơn ba vạn yên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 38: Chỉnh lý các album ảnh từ hồi bé. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 39: Hãy cân nhắc kỹ khi thực hiện ước mơ của mình, nếu ước mơ ấy ngược với kỳ vọng của cha mẹ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 40: Đêm khuya đi dạo trở về, vẫn dành thời gian viết nhật ký.   Vì ngày mai hãy làm việc thứ 41: Nhận ra sự vô tri ban đầu, tức là đã tiếp cận ước mơ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 42: Xem một quyển sách làm cho mình được một cú hích. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 43: Mỗi ngày viết một trang, viết cái gì cũng được. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 44: Tập cho mình có thể vừa nghe giảng vừa xem sách. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 45: Luyện cách đọc nhanh. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 46: Giữ những quan điểm không giống với người khác. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 47: Chơi với một người bạn thân. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 48: Có một nơi ẩn mình bí mật. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 49: Mỗi tuần lễ dành ra một ngày chỉ để nói chuyện với chính mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 50: Đi du lịch trong nước một mình. ĐỌC THỬ GIAO TIẾP VỚI NHÂN VẬT ĐƯỢC MỌI NGƯỜI CHO LÀ NGƯỜI ƯU TÚ SẼ LÀM XUẤT HIỆN CÁI TÔI THỨ HAI NƠI BẠN Thời đại học, việc không thể không làm là gì? Đó chính là khởi động, làm xuất hiện, làm hiển lộ cái tôi thứ hai. Có lẽ bạn vẫn chưa ý thức được về cái tôi thứ hai đó. Mục đích của thời đại học chính là phải làm xuất hiện cái tôi thứ hai. Nhưng mà, làm sao để có thể làm xuất hiện cái tôi thứ hai? Thời đại học xem có vẻ như là dài bất tận. Chợt nhìn lại mới thấy thời đại học thực ra chỉ là ngắn ngủi tạm thời. Đối với không ít người, việc lớn – những việc cần và đáng làm, chưa thành một mảy may đã đành phải đi qua thời đại học mà không để lại được một dấu ấn gì. Những người việc lớn chưa thành ấy không phải bởi vì họ không nỗ lực, mà bởi họ không biết việc lớn là việc gì. Chỉ cần biết bản chất cũng như tầm quan trọng của những việc cần và đáng làm thì sẽ không sống hoài khoảng thời gian quý báu ở trường đại học của mình. Nói cho cùng, chỉ có một việc bạn nhất định phải làm trong thời đại học. Đương nhiên, ngoài việc này ra, vẫn còn rất nhiều việc khác có thể làm, nhưng chỉ cần làm tốt việc này thì mọi việc còn lại đều sẽ thuận lợi, nắm chắc phần thắng trong tay. Đó chính là giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. Bất kể đó là một vị tướng hay một nô lệ. Nói chung, người đó có thể là một ông thầy. Cũng có thể là sinh viên xuất sắc. Cũng có thể là người quen gặp ở nơi xin việc. Cũng có thể là người xa lạ không hẹn mà gặp trên đường đi du lịch. Cũng có thể là người lớn tuổi. Cũng có thể là người cùng tuổi với bạn. Cũng có thể là người ít tuổi hơn bạn. Nếu nhân vật được mọi người cho là rất ưu tú trẻ hơn bạn, điều đó cho thấy bạn cũng là một người có tài Tại sao? Bởi vì sự có mặt của thiên tài trẻ tuổi trong thế giới thiên tài là một chuyện vô cùng bình thường. Tóm lại, trong thời đại học nếu có thể giao tiếp với nhân vật được mọi người coi là rất ưu tú, thì mọi vấn đề còn lại sẽ được giải quyết ổn thỏa. Vì ngày mai hãy làm việc thứ nhất Giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. KHI CẢM THẤY “KHÔNG THỂ NHƯ THẾ!” TIỀM NĂNG SẼ XUẤT HIỆN MẠNH MẼ Tôi có may mắn được quen biết với một người được công nhận là rất ưu tú. Đó chính là giáo sư Văn hóa nhân loại học Tây Giang Nhã Chi. Đương nhiên ngoài giáo sư Tây Giang ra, tôi còn nhận được sự giúp đỡ của nhiều vị giáo sư khác. Nhưng những gì tôi học được từ giáo sư Tây Giang có hơi khác với những vị khác. Lúc đó, giáo sư Tây Giang từ nước ngoài trở về Nhật Bản, bắt đầu giảng dạy môn Nhân loại học ở khoa Văn học, còn tôi thì đang học ngành kịch nghệ thuộc khoa Văn học trường đại học Tảo Đạo Điền. Đúng vào lúc đó, tôi đã may mắn được gặp giáo sư. Tuy nhiên, cho dù không có lần gặp gỡ không hẹn mà được ấy, cũng không thể oán trách số mệnh không công bằng. Những cuộc gặp gỡ không hẹn trước, không phải chính là ngẫu nhiên hay sao? Không có gì quý giá cho bằng những cuộc gặp gỡ không hẹn mà được. Cho nên, hôm nay nếu bạn đã bỏ lỡ cơ hội thì có khả năng bạn cũng sẽ là người bỏ lỡ cơ hội suốt đời. Tôi chưa từng gặp giáo sư trước khi nghe ông giảng bài. Một lần nghe giáo sư giảng, lòng tôi trào dâng một niềm xúc động mạnh mẽ. Đối với một kẻ vừa bước chân vào trường đại học như tôi, sự cảm nhận, tiếp thu nơi tôi hầu như không thể thích ứng nổi với lượng kiến thức khổng lồ cũng như khả năng điều động tư duy siêu việt của giáo sư trong khi lên lớp. Đã may mắn chọn đúng cùng một chuyên ngành như giáo sư, tôi ước sớm muộn trở thành một người tài giỏi như ngài.   Lúc đó tôi nghĩ, về sau cho dù những công việc tôi làm không có liên quan đến ngành học đi chăng nữa, nhưng nếu cũng có một tư duy mẫn tiệp như giáo sư thì hay lắm. Ôi, biết đến ngày nào tôi mới được như giáo sư! Khả năng thu thập thông tin mới nhất của giáo sư thật là có một không hai, khó ai có thể vượt qua. Tôi càng lúc càng cảm thấy lực bất tòng tâm, thấy vô vọng và thất bại. Trong đầu tôi bỗng bật ra một câu nói: “Không thể như thế được!” Cảm nhận một nguy cơ như thế này chính là điểm then chốt của vấn đề. Một trong những việc bạn phải làm thời đại học là cảm nhận một điều gì đó là không thể được. Khi giao tiếp với một nhân vật được mọi người cho là rất ưu tú, cảm nhận về những điều “không thể được” sẽ xuất hiện nơi bạn. Và khi đó những năng lực tiềm tàng bên trong con người bạn sẽ được dịp cuồn cuộn trào dâng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 2 Khi cảm thấy “Điều này là không thể!” tiềm năng sẽ xuất hiện một cách mạnh mẽ. NGHE CÁC BÀI GIẢNG CỦA NHỮNG NGƯỜI THỰC SỰ TÀI NĂNG, SẼ CÓ ĐƯỢC NHỮNG CHẤN ĐỘNG MẠNH MẼ Ấn tượng sâu sắc còn đọng lại nơi tôi không chỉ là nội dung bài giảng của giáo sư Tây Giang. Nội dung của bài giảng tự nó đã trở nên không còn là quan trọng nhất, mà cái quan trọng chính là những rung động, chấn động tôi cảm nhận được từ giáo sư khi lên lớp. Khi nói chuyện với người khác, tôi đã từng chú ý đến những điều mình truyền đạt ngoài nội dung của cuộc nói chuyện. Điều quan trọng là tạo được một sự chấn động, thu hút sự chú ý nơi người khác. Đối tượng giao tiếp không chỉ giới hạn trong giới sinh viên. Không cần biết là bạn đang nói cái gì, quan trọng là chỉ cần bạn tạo được một sự chú ý nơi người khác. Ngược lại, bất luận là truyền đạt, chuyển tải bao nhiêu nội dung, nếu như đối phương không cảm nhận được một chút chấn động, không nảy sinh một sự chú ý nào thì tôi nghĩ đây chính là một cuộc trò chuyện thất bại. Bài nói chuyện hay cuộc nói chuyện nên phong phú về ý nghĩa và sinh động, có sức sống. Cùng một nội dung sẽ không có hai lần trình bày giống nhau, bởi số người tham dự và trạng thái tinh thần của diễn giả có thay đổi. Mỗi lần diễn thuyết không luôn hoàn toàn giống nhau, cũng như những lần diễn kịch. Mà đã là kịch thì chắc chắn không thể nào làm ra vẻ xuất sắc để lấy lòng người khác. Những buổi lên lớp của giáo sư Tây Giang đối với tôi thật giống như những buổi biểu diễn nghệ thuật xiếc hay những trận quyết đấu về việc vận dụng trí óc. Lâu nay có lẽ bạn vẫn từng cho rằng các vị giáo sư ở đại học thì có gì đâu, chẳng qua cứ nói đi nói lại mãi một môn học, một đề tài suốt năm này qua năm khác không có gì thay đổi. Một khi đã nghĩ như vậy thì hẳn nhiên bạn sẽ không cảm thấy thú vị gì trước bài giảng của các vị giáo sư. Nhưng mà, bạn lầm rồi. Đương nhiên một cộng một chỉ có thể là hai, không thể nào có thể là ba. Tuy nhiên, để giải thích tại sao một cộng một là hai thì có nhiều phương pháp. Giả như nói về việc dạy học, có lúc bạn cảm thấy mình dạy rất hay, nhưng có lúc bạn lại cảm thấy mình thất bại. Chỉ điều này thôi đủ thấy chẳng có buổi diễn giảng nào hoàn toàn giống nhau. Những buổi diễn giảng mang lại cho người nghe cảm giác mới mẻ là kết quả của sự động não nhằm tìm tòi những phương pháp diễn đạt càng lúc hay hơn, tinh xảo hơn, thuyết phục hơn. Và những buổi diễn giảng làm xúc động lòng người, gây cảm giác phấn khích, cho dù là cùng một vấn đề nhưng nghe lại vẫn không thấy nhàm chán. Giáo sư đứng trước bảng đen, như đang bước vào một cuộc đọ sức sinh tử. Xin bạn cũng hãy nghe giảng với tinh thần và thái độ nghiêm túc chăm chỉ như giáo sư! Hồi trung học tôi có tham gia vào đội cờ tướng của trường. Phương pháp đánh cờ thì tôi đã rõ, nhưng khi xem thuyết minh của người hướng dẫn môn đánh cờ trên tivi tôi thường có một cảm giác mờ mịt. Người hướng dẫn như thể đang chìm đắm trong thế giới riêng của anh ta. “Đi như thế này, rồi lại đi như thế này, à, không được, đây không phải là nước đi tốt.” Anh ta cứ ngồi thì thầm một mình như vậy, không cần biết người xem khó chịu như thế nào. Tuy không biết những chỉ dẫn cụ thể của người hướng dẫn, nhưng tôi vẫn ngầm cảm thấy ván cờ này đã đi đến chỗ xuất sắc tinh xảo nhất. Đối với những tay mê cờ, đây là điều khó chấp nhận nhất. Giải thích cách đánh cờ, ngoài việc giải thích, hướng dẫn còn thường mang lại cho người ta một cảm giác sợ sệt khó gọi thành tên. Ví như trong một cuộc cờ, người đi trước ra một nước. Người đi sau phát hiện tình hình bất lợi, cầm chắc thua cuộc, bèn nói lời đầu hàng: “ Ôi, tôi thua rồi.” Sức cuốn hút kỳ lạ của môn đánh cờ chính là ở chỗ nó thực giống như một cuộc giao chiến thực thụ. Một bài diễn giảng cũng giống như một ván cờ đầy khí thế sục sôi. Người nghe trong khi nghe cũng cảm nhận được cái khí thế ấy. Hãy cảm nhận sự chấn động, xúc động từ những buổi diễn giảng đầy khí thế của những con người thực sự tài năng! Việc đó vô cùng có ích đối với bạn! Vì ngày mai hãy làm việc thứ 3 Nghe những buổi diễn thuyết làm chấn động lòng người. Mời các bạn đón đọc 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng của tác giả Akihiro Nakatani.  
50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng
50 việc cần làm là bộ sách kỹ năng bán chạy ở rất nhiều nước trên thế giới. Sách tập hợp lời khuyên của tiên sinh Akihiro Ankatani về những chủ đề mà các bạn trẻ quan tâm: rèn luyện bản thân, tạo dựng sự nghiệp, kinh doanh, kết hôn. Mỗi chủ đề tác giả đưa ra đúng 50 lời khuyên, trình bày vô cùng đơn giản, khúc chiết nhưng ý tứ sâu xa. 50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20 - Akihiro Ankatani Cái gọi là môn học bắt buộc ở tuổi 20 có nghĩa là những việc mà chỉ ở tuổi 20 mới có thể làm được. Chỉ những ai ở tuổi ấy cứ bôn ba qua lại một cách uổng công vô ích đến một lúc nào đó mới mới thấm thía rằng: tuổi hai mươi là giai đoạn huy hoàng nhất trong cuộc đời mỗi người. 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học Trên đời này chỉ có 2 loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng - mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Những sinh viên có hoài bão phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy cơ hội khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Vì vậy, quãng đường đại học cũng chính là khoảng thời gian để bạn học cách vượt qua những thử thách đầu đời. 50 Việc Cần Làm Trước Khi Kết Hôn - Akihiro Nakatani Thượng đế sở dĩ chưa để cho bạn kết hôn, là vì trước khi kết hôn, bạn còn rất nhiều việc phải làm. Sau khi kết hôn, người ta mới ân hận: sớm biết thế này, thì những việc cần làm trước khi kết hôn, mình đã thực hiện chu đáo cả rồi. Tiếc rằng trước khi kết hôn, người ta thường không hiểu giá trị của thời gian sống độc thân nên đã đem phung phí khoảng thời gian quý báu đó. 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng Đầu bếp của tiệm ăn Shousi làm gì vào khoảng thời gian giữa cao điểm ban ngày và ban đêm? Nhân viên Akimasi đã tận dụng khoảng thời gian rỗi ấy để học tiếng Anh. Mặc dù cửa hàng không tăng lương và cũng không có bất kỳ khoản phí hỗ trợ nào cho việc này, nhưng anh vẫn kiên trì học tiếng. Bởi vì Akimasi muốn kể tỉ mỉ cho thực khách nước ngoài biết cách thưởng thức món ăn như thế nào, cách nấu món ấy ra sao... Đôi khi chỉ những cố gắng nhỏ từ bản thân bạn nhưng sẽ mang đến những lợi ích không ngờ trong kinh doanh. *** Akihiro Nakatani Akihiro Nakatani sinh năm 1959. Ông là một nhà văn, diễn viên và một nhà sản xuất tài năng và nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một DJ vào năm 1973. Năm 1976, ông được trao giải thưởng của Hiệp hội Các nhà thơ của Asahi Tanka. Năm 1982, ông đã là một nhà văn được nhiều người biết tên. Năm 1984, sau khi tốt nghiệp khóa kịch nghệ tại trường đại học Waseda, ông làm giám đốc kinh doanh tại công ty Hakuhodo - công ty đứng thứ hai Nhật Bản về quảng cáo. Ông đã nhận được giải thưởng ACC bốn năm liên tiếp, kể từ năm 1987. Năm 1990, ông viết quyển "Mensetsu No Tatsujin (Masters for interviews)", về cách để thành công trong phỏng vấn xin việc. Quyển sách gây được tiếng vang lớn và bán được hơn 2,5 triệu bản. Năm 1991, ông thành lập văn phòng của riêng mình. Ông đã xuất bản hơn 370 quyển sách về các chủ đề như kinh doanh, cuộc sống và tình yêu; và đã bán được 2,5 triệu bản một năm ở Nhật Bản, 1 triệu bản tại Hàn Quốc và 4 triệu bản trên toàn thế giới. Hiện nay, sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được phát hành ở nhiều quốc gia. Tác phẩm tiêu biểu 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học 50 Việc Cần Làm Đối Với Khách Hàng  50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20  50 việc cần làm trước khi kết hôn 50 việc cần làm ở tuổi 30… *** Rõ ràng là bạn sẽ không thể có cách thuyết phục khách hàng nếu như không biết được họ là ai và họ muốn gì. Thử tưởng tượng trong một cuộc giao tiếp mà bạn chỉ thao thao bất tuyệt, tôi là A, tôi muốn B, bạn nên làm C, bạn đừng làm D… sẽ chẳng có một khách hàng nào đủ kiên nhẫn để nghe hết từ A đến Z cả! Và càng tệ hơn nữa là trong khi bạn có thể nói “tất tần tật” về bản thân thì lại “quên” đi khách hàng của bạn là ai, thậm chỉ gọi nhầm tên, địa chỉ của họ. Nếu cuộc giao tiếp thật sự “rơi” vào tình huống này thì kết quả có lẽ bạn đã thấy trước… Vậy nên, kỹ năng thuyết phục khách hàng trước hết nên là kỹ năng ghi nhớ, ghi nhớ tất cả những thông tin của khách hàng, càng nhiều càng tốt! (tất nhiên chỉ là những thông tin cần thiết liên quan đến quá trình thương thảo) Tiếp theo, điều quan trọng hơn nữa là sau khi bạn biết họ là ai, bạn phải biết khách hàng của bạn muốn gì. Kinh doanh hiện đại đã chỉ ra rằng muốn thành công bạn phải “bán cái khách hàng cần chứ không phải cái bạn sản xuất”. Và vì vậy, biết khách hàng muốn gì là điều kiện tiên quyết để có thể “đánh đúng tâm lí” và thuyết phục họ. Biết được khách hàng muốn gì thì kỹ năng tiếp theo bạn nên có đó là biết cách hướng cuộc hội thoại về kết quả: lợi ích cuối cùng thuộc về khách hàng. Trong một quyển sách nghiên cứu về văn hóa kinh doanh của các nước trên thế giới, tác giả Richard R. Gesteland đã nhấn mạnh rằng ở Nhật Bản (một trong những nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới), khái niệm “Customer is King” (khách hàng là vua) đang dần được thay thế bằng khái niệm “Customer is God” (khách hàng là thượng đế) để nói lên tầm quan trọng của khách hàng trong đời sống kinh doanh. Vậy nên, trong tổng hòa cuộc giao tiếp, hãy để khách hàng “hiểu” rằng sử dụng dịch vụ hay sản phẩm của bạn sẽ mang lại lợi ích cao nhất cho họ, sẽ không thể có nơi thứ 2 có dịch vụ hoặc giá tốt hơn. Tóm lại, khách hàng phải cảm nhận được “lợi ích tuyệt đối” trong suốt cuộc thương thảo. Sẽ không quá khi nói rằng kỹ năng giao tiếp sẽ quyết định việc thuyết phục khách hàng của bạn. Các “thủ thuật” về ánh mắt, cách chào hỏi, cách bắt tay, cách mỉm cười, cách nói chuyện… sẽ “ghi dấu” hình ảnh của bạn trong mắt khách hàng. Một ánh mắt thân thiện, một nụ cười “vừa phải” sẽ làm bạn đẹp hơn rất nhiều trong mắt người đối diện. Dáng điệu của bạn cũng nên để lại sự tự tin cần thiết để khách hàng có đủ niềm tin vào những điều bạn nói. Ngoài ra, những kỹ năng giao tiếp khác cũng cần được chú trọng, bởi vì bạn không nên (và không được phép) để lại bất kì một sai sót nào trong quá trình tiếp xúc. Bởi lẽ, một khi những “ấn tượng ban đầu” này tốt đẹp thì xem như bạn đã thành công một nửa, còn ngược lại, có lẽ sẽ rất khó khăn cho cuộc thương thảo của bạn. Thật đáng tiếc, điều này có thể khiến các nhân viên bán hàng dành những quãng thời gian quý báu của họ vào việc nỗ lực xác định và giải thích bản thân nội dung thông điệp mà không diễn tả được giá trị kinh doanh tới các khách hàng. Thay vào đó, bạn cần phải kể một câu chuyện khai phá các thách thức kinh doanh và phương pháp của công ty bạn để giải quyết những vấn đề đó. Khi nó bắt đầu trở nên thích hợp trong cuộc thảo luận, bạn sẽ phác họa nó trong các cụm từ viết tắt và kết nối nó giữa những bức tranh và các giải pháp. Tiếp theo, hãy biểu lộ rằng: “Tại công ty XYZ, chúng tôi gọi đó là….”   Mời các bạn đón đọc 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng của tác giả Akihiro Nakatani.
Con Mắt Biên Tập
Tác giả cuốn sách là những nhà báo và chuyên gia tên tuổi trong giới truyền thông Mỹ. Bà Jane T. Harrigan là giáo sư khoa báo chí ở Đại học New Hampshire kiêm cố vấn cho nhiều ấn phẩm đa dạng. Bà Jane đã có 23 năm giảng dạy nghiệp vụ biên tập. Còn Karen Brown Dunlap là giám đốc Viện Báo chí Poynter ở Florida và đã hai lần tham gia ban giám khảo giải thưởng báo chí Pulitzer. "Con mắt biên tập" là cuốn sách nghiệp vụ báo chí đầu tiên trong tủ sách "Nghề báo" do công ty Sài Gòn truyền thông thực hiện. Nhà báo Trần Trọng Thức, người có nhiều đóng góp với các tờ Tin Sáng, Tuổi Trẻ, Lao Động, Thời báo Kinh tế Sài Gòn... và hiện nay là tờ Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần đã viết lời giới thiệu cuốn sách. Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu tới quí vị độc giả: Bài báo đến với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng". L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nổi tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên đã cho rằng, một Ban Biên Tập thật giỏi với những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xĩnh. Một Ban Biên Tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một Ban Biên Tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập". Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biên tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoài nghi. Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày trang báo... Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết. Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết. Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ. Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi. Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nên tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc. Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với độc giả. Báo chí là một sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí. Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thì "Con mắt biên tập" (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Sài Gòn Media và báo Sài Gòn Tiếp Thị giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh được những vấp ngã mà còn giúp những ai muốn đi xa hơn trong nghề viết hệ thống lại kỹ năng cơ bản. Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới đang phát triển không ngừng. Không quá đáng khi nói rằng, "Con mắt biên tập" là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh phong cách viết báo hiện đại mà chúng ta đang hướng đến. *** LỜI GIỚI THIỆU           Để một bài báo đến được với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, những người thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng".     L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nối tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên, đã cho rằng, một ban biên tập thật giỏi với -những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xỉnh. Một ban biên tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một ban biên tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập".     Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biến tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoàn nghi.     Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày tang báo…     Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết.     Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết.     Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ.     Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi.     Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nền tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc.     Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với dộc giả.     Báo chí là một sản phẩm của sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí.     Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thí CON MẮT BIÊN TẬP (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Công ty Sài Gòn truyền thông giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh đuợc những vấp ngã mà còn giúp những ai muôn đi xa hơn irên con đường viết lách hệ thống lại kỹ năng cơ bản.     Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới dang phát triển không ngừng.     Không quá dáng khi nói rằng, CON MẮT BIÊN TẬP là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh nhông cách viết báo hiện đại mà chúng ta dang hướng đến.     TRẦN TRỌNG THỨC     NHÀ BÁO Mời các bạn đón đọc Con Mắt Biên Tập của tác giả Jane T. Harrigan & Karen Brown Dunlap.
Sống Với Sách
Mỗi cuốn sách đều chứa đựng một phần thông tin. Sách là bản văn hữu ích theo nhiều cách khác nhau. Không chỉ gần gũi, thân quen với con người, sách còn là phẩm vật thông dụng nhất trong những đồ vật ở nhà và cũng là tài sản quý giá nhất được lưu giữ trong ngôi nhà của chúng ta. Tuy nhiên, sống với sách phải là cả một nghệ thuật. Do vậy, điều cần nhất là làm sao phối hợp nhịp nhàng giữa sách với chức năng của ngôi nhà chúng ta. Cuốn Sống với sách của tác giả Alan Powers do Trần Hoàng Dung biên dịch đã tìm tòi và khám phá những phương cách khác nhau để sách không những được lưu trữ một cách hợp lý mà còn đóng vai trò hoàn hảo trong việc tạo cá tính cho ngôi nhà hay căn hộ của chúng ta. Cuốn sách dày 144 trang, khổ 14,5x20,5cm do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành. svois.jpg "Sống với sách" gồm nhiều chuyên mục. Mỗi chuyên mục hướng dẫn cho bạn đọc cách phân chia các phòng và cách sắp xếp sách ở thư viện gia đình, văn phòng, tại nhà, phòng khách, phòng ngủ, phòng tắm, bếp... Sự ra đời của sách có 2 thời điểm tách biệt nhau: thứ nhất, sách được làm hoàn toàn bằng tay do những người chuyên sao chép lại; thứ hai, cách 1.500 năm sau, sách được in ấn theo phát minh của Johann Gutenberg tại Đức. Sau đó, nhờ kỹ thuật in ấn phát triển nên việc in sách được dễ dàng và được phổ biến rộng rãi hơn. Sách không phải là nguồn thông tin vô hồn mà là tạo tác văn hóa có ý nghĩa muôn màu muôn vẻ được tích lũy theo thời gian. Nhà học giả Walter Benjamin đã hiểu ý nghĩa tượng trưng của cuốn sách như thế nào và giá trị không tùy thuộc vào sự tiện dụng của nó. Đối với ông, việc mượn được một cuốn sách trong thư viện có tiếng không bằng có trong tay bản sách đó. Do vậy, ông có cái cảm giác vui sướng vì sục sạo tìm mua được cuốn sách vừa ý nhất và đặc biệt đó là việc "cứu" được cuốn sách, trả tự do lại cho cuốn sách. Theo ông, tất cả các cuốn sách được hoàn toàn tự do một khi đã nằm trên kệ sách. Mỗi cuốn sách đều có giá trị nhân bản, đó là được đóng góp vào niềm vui của người được sở hữu nó. Sách xứng đáng có vai trò thích đáng và cho chúng ta thêm nhiều niềm vui, sự yêu thích khi mình được tự tay sắp xếp, lưu giữ chúng một cách có ý thức và thích hợp. Có rất nhiều cách thức kết hợp giữa nhà cửa và sách và ngược lại, tùy thuộc vào đặc tính của ngôi nhà, cá tính của người chủ và thể loại sách. Thư viện gia đình thường có chức năng phụ là phòng học, khởi đầu nó là nơi sinh hoạt thân hữu, rồi trở thành phòng đọc sách cũng là nơi các thành viên trong gia đình tụ họp sinh hoạt mỗi khi rảnh rỗi.  Tùy theo điều kiện từng nhà, thư viện gia đình có thể đơn giản chỉ là tận dụng khoảng không dưới mái, tận dụng ánh sáng tự nhiên, cũng có thể là một phòng khách rộng lớn. Tác giả cuốn sách đã cho chúng ta thấy cái nhìn tổng thể về việc thiết kế một thư viện gia đình, từ cách bày trí kệ sách, bàn ghế đến bày trí sách theo phong cách hiện đại. Thiết kế phòng đọc sách đẹp hay không đẹp dựa trên các kệ sách hay tủ sách mà tùy thuộc vào chất lượng ánh sáng. Đọc sách không chỉ là một hoạt động của trí óc mà còn là một hoạt động của cả cơ thể nên ánh sáng tự nhiên sẽ làm cho phòng đọc sách có một không gian tuyệt hảo. Để mở rộng khoảng không, kệ sách còn được dùng làm vách ngăn giữa thư viện và các chỗ sinh hoạt khác. Đặc biệt, đồ đạc trong phòng không nên có màu tối. Trong một căn nhà, thật khó có thể nói rõ sự khác biệt giữa một văn phòng làm việc với một phòng đọc sách. Theo tác giả, phòng đọc sách là nơi người ta thực hiện các hoạt động như đọc, viết, vẽ cho dù có được xem là nơi thư giãn hay làm việc chuyên môn hay không. Còn văn phòng là một nơi để làm việc. Sự khác biệt rất tinh tế dựa vào sự hiện diện của máy vi tính, máy điện thoại... Sự phân định rõ ràng giữa thư viện gia đình và văn phòng phần lớn là vì lợi ích của người sử dụng, nhằm kích thích, phát triển tâm trạng làm việc nghiêm túc, tránh những ảnh hưởng khác có thể làm mất tập trung tư tưởng. Với bất cứ văn phòng nào, sách bao giờ cũng đóng một vai trò quan trọng, một ngôn ngữ đầy phong thái được tập hợp từ sự đa dạng của nhiều yếu tố. Do vậy, sự hiện diện của những cuốn sách cũng hàm ý là có những kệ sách. Đối với văn phòng thì hệ thống kệ rời rất thuận lợi: nhanh chóng lắp đặt, sắp xếp lại các kệ... Sách cũng minh hoạ những công cụ bình thường dùng để tiết kiệm khoảng trống nhằm dành chỗ cho sách ở những nơi linh tinh như cầu thang, hành lang, lối đi lại. Trong một căn nhà có người ham đọc sách đương nhiên không có nơi nào là không thể chứa sách được. Nhưng không có nghĩa là bất cứ phòng nào, hay lối đi nào cũng đều có thể làm thư viện. Sách xuất hiện theo nhiều lối khác nhau và góp phần vào bất cứ khoảng không nào nếu như được thiết kế một cách có ý thức. Một trong những cách sống với sách trong nhà, có tính sáng tạo và hữu ích nhất là phối hợp sách với các đồ vật khác.   Sách dùng như vật trang trí và là phương tiện tạo bầu không khí sáng tạo, nhưng quan trọng hơn, có lẽ là sách có khả năng ảnh hưởng đến cấu trúc của khoảng không chung quanh chúng. Do vậy, trưng bày sách ở nơi sinh hoạt là điều mà bất cứ nhà thiết kế nào cũng phải hết sức quan tâm. Nhà thiết kế giỏi sẽ sắp xếp để tạo ra cảm giác rộng thoáng và bao bọc cùng lúc bằng cách điều chỉnh kích thước và ánh sáng trong khoảng không, thu hẹp các cạnh hoặc hạ thấp khoảng không phía trên, hoặc cả hai. Nếu việc xếp sách làm biến đổi bề mặt bức tường, cần xem việc đó đang đóng vai trò gì, một lần nữa cho thấy rằng xử lý theo cách tổng quát là tốt nhất. Sách trong phòng ăn là người bạn tốt. Nó tạo một hậu cảnh giảm âm, đó là điều quan trọng trong nội thất hiện đại. Sách cũng hữu ích trong việc giải quyết những quan điểm về một sự kiện hoặc tìm những đoạn trích dẫn giữa bữa ăn, hoặc để giải trí khi ăn không có bè bạn, người thân. Một nhà bếp thiết thực thì cũng cần có một kệ sách, trong đó đa số là loại sách dạy nấu ăn, những tài liệu, công thức nấu ăn cắt từ báo chí. Kệ sách có thể đặt ở trên hay dưới mặt chỗ nấu nướng miễn là thoải mái và dễ sử dụng. Người tỉ mỉ thì có thể bố trí cả một chỗ đọc. Đây là cách sắp xếp thân mật, không theo quy ước, cho ta cách hiệu quả để đến với sách. Sách trong nhà bếp cần đặt xa chỗ làm thức ăn bề bộn. Sách làm tăng thêm vẻ thân mật và nhiều khi tựa đề và gáy sách có thể kích thích ăn ngon và khi ngồi ăn thấy vui. Đồ đạc khác trong bếp thì có thể dấu trong tủ chạn nhưng sách thì cần để chỗ dễ thấy. Điều đó chắc chắn sẽ giúp ngăn ngừa cảm giác quá sạch sẽ và hiệu quả từ cuộc sống đầy áp lực và tính cách cá nhân khỏi len vào phòng. Ai đó đã có bộ sưu tập sách để ở nhiều nơi khác nhau trong nhà sẽ thấy phòng ngủ và phòng tắm cũng là nơi tốt để mở rộng thư viện gia đình. Sách trong phòng ngủ thật sự làm người ta thoải mái, nhất là đối với những người không thể nào đi ngủ mà không có ít nhất vài ba cuốn sách bên cạnh. Sách trong phòng ngủ nên nằm trong tầm tay, có thể trải dài ở dưới hay trên đầu giường, hoặc phía lối ra vào. Phần cuối sách nói về cách giữ gìn và bảo quản sách cùng những gợi ý về kỹ thuật hữu dụng để lên kế hoạch thiết kế kệ sách. Tác giả cuốn sách đã đưa ra những gợi ý nhỏ mang tính nguyên tắc tổng quát về sự cần thiết phải chăm sóc, bảo quản sách. Nước là kẻ thù số một của sách. Đối với những cuốn sách bị ướt, cần dùng giấy thấm xen kẽ các trang sách cho sách khô từ từ. Côn trùng là một vấn đề gây nguy hại cho sách. Trong hơn 100 trang sách, có đến hơn 100 bức ảnh minh họa sinh động về các cách bài trí, sắp xếp một thư viện gia đình cho phù hợp, một kệ sách đơn giản mà thuận tiện. "Sống với sách" hay cũng là sống cùng sách tưởng đơn giản mà lại là cả một nghệ thuật, đòi hỏi những người yêu sách phải dụng công thiết kế, sắp đặt để sách trở thành một thành viên trong gia đình, gần gũi và rất hữu ích. Hy vọng với cuốn sách này, bạn đọc sẽ có một khái niệm để tự mình thiết kế thật đẹp những nơi lưu trữ sách, tận dụng những khoảng trống mà mình vô tình đã bỏ sót, và nhất là tạo được phong cách độc đáo cho tổ ấm gia đình của mình. Mời các bạn đón đọc Sống Với Sách của tác giả Alan Powers.