Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tội Ác Dưới Ánh Mặt Trời

Arlena Marshall là một nữ diễn viên xinh đẹp, luôn liếc mắt đưa tình những người đàn ông hấp dẫn đối với cô. Cô đến Khách sạn Hải Tặc cùng chồng Kenneth Marshall, và con gái riêng của chồng, Linda Marshall, 16 tuổi. Linda rất ghét mẹ kế. Arlena đong đưa tán tỉnh anh chàng Patrick Redfern đẹp trai, trước sự giận dữ ra mặt của vợ anh ta, Christine, một cựu giáo viên. Cùng ngụ trong khách sạn này có Hercule Poirot; ông Horace Blatt khoác lác; thiếu tá Barry, sĩ quan người Anh gốc Ấn Độ về hưu hay kể chuyện lê thê; Rosamund Darnley, nhà tạo mẫu thời trang cao cấp, vốn là bạn thanh mai trúc mã với Kenneth; bà Carrie Gardener, một du khách người Mỹ lắm mồm, và ông chồng tên Odell; cha xứ Stephen Lane; và cô Emily Brewster, quý cô chưa chồng khỏe như vận động viên.  Arlena được phát hiện bị giết chết vào buổi sáng của một ngày đẹp trời. Các chứng cứ ngoại phạm bắt đầu được thu thập. Arlena chèo bè đến Vũng Tiên rõ ràng cho một cuộc hẹn hò. Nhưng cả Kenneth lẫn Patrick đều tìm cô. Cuối cùng Patrick xin cô Emily cho anh đi chèo thuyền cùng. Anh phát hiện một cái xác nằm sải tay, giấu mặt trong nón, những lọn tóc đỏ ló ra ngoài. Anh ở lại đó trong lúc Emily đi báo cảnh sát. Bác sĩ pháp y nhận định nạn nhân bị một đôi bàn tay rất khỏe mạnh siết cổ chết. Phải là đôi bàn tay của đàn ông. Hai người có động cơ giết Arlena rõ nhất là: ông chồng Kenneth, Christine – cô vợ của anh chàng nhân tình Patrick nọ. Nhưng Kenneth có chứng cớ ngoại phạm chắc nịch. Còn Christine là một phụ nữ tay chân đặc biệt nhỏ nhắn xinh xắn! Thế rồi cô con gái riêng Linda nổi lên thành kẻ tình nghi số một vì có đôi bàn tay to tướng khỏe mạnh như đàn ông lẫn ác cảm với mẹ kế… và chứng cớ ngoại phạm không vững!  Khi cảnh sát sở tại và Hercule Poirot phối hợp điều tra ráo riết, lần ra nhiều bí mật đen tối của các vị du khách. Ông Horace Blatt khoác lác có thể là một tay buôn lậu ma túy. Cha xứ Stephen Lane thù ghét đàn bà lẳng lơ đến phát bệnh thần kinh và từng phải vào bệnh viện tâm thần. Một lời khai bổ sung của nhà tạo mẫu thời trang Rosamund Darnley hóa ra là nói dối, hơn nữa mọi du khách cùng ở đó đều thấy rõ cô phải lòng Kenneth… Một mê hồn trận những động cơ gây án và nghi phạm!  Đùng một phát, Linda Marshall uống thuốc ngủ tự tử, để lại thư tuyệt mệnh thú nhận tội lỗi! Rất may cô hầu phòng phát hiện và Linda được đưa đi cứu chữa trong tình trạng thập tử nhất sinh. Phải chăng chỉ cần đợi cô bé sống lại là có thể làm rõ các bước gây án? Chỉ có Hercule Poirot mới trả lời được câu hỏi này. *** Khi thuyền trưởng Roger Angmering xây nhà vào năm 1782 trên hòn đảo trong Vịnh Leathercombe, người ta nghĩ căn nhà ấy biểu hiện tính lập dị tột đỉnh của ông. Một người con nhà khá giả như ông đáng lẽ phải có cơ ngơi đường hoàng tọa lạc giữa đồng cỏ rộng, với một dòng suối chảy qua và bãi cỏ ngon lành cho gia súc. Nhưng ông thuyền trưởng này chỉ có một tình yêu vĩ đại, tình yêu biển cả. Vì thế ông đã xây ngôi nhà của mình - còn là một ngôi nhà kiên cố vì cần phải như thể, trên một mũi đất nhỏ lộng gió nơi hải âu thường xuyên lui tới - cách biệt với đất liền mỗi khi thủy triều lên. Ông không lập gia đình, biển cả là hôn thê đầu tiên và cuối cùng của ông, và khi ông qua đời ngôi nhà và hòn đảo về tay một người em họ xa. Ông em họ đó và đàn con cháu ít nghĩ tới việc để lại một chúc thư. Đất đai của họ thu hẹp và những người thừa kế dần dần trở nên nghèo khó hơn. Vào năm 1922 khi cuối cùng thiên hạ bắt đầu đổ xô đi tắm biển vào dịp nghỉ hè, không còn nghĩ vùng bờ biển Devon và Cornwall quá nóng bức vào mưa hè nữa, Arthur Angmering nhận thấy ngôi nhà rộng mênh mông thiếu tiện nghi xây vào cuối thời vua George của mình không bán được, nhưng khu đất nhỏ xíu kỳ quặc do đại úy thuyền trưởng Roger tậu được đem lại một giá trị lớn lao. Ngôi nhà kiên cố đó được xây thêm và trang trí lại thật đẹp. Một con đường bằng bêtông bắt đầu được đắp cao trên bãi lầy nối đất liền ra đảo. Nhiều lối tản bộ và góc riêng tư được hình thành và xây dựng quanh đảo. Có hai sân quần vợt, những nền đất cao để phơi nắng dẫn xuống một vịnh nhỏ với những bè gỗ và ván nhào lặn tôn thêm vẻ đẹp của nó. Khách sạn Hải Tặc, Đảo Buôn Lậu, Vịnh Leathercombe ra đời, hân hoan đắc thắng. Và từ tháng 6 tới tháng 9 cùng với mùa Phục sinh ngắn ngủi, khách sạn đó thường đầy ắp khách đến tận tầng thượng. Nó được mở rộng và nâng cấp vào năm 1934, có thêm một quầy bar, một phòng ăn lớn hơn và một số buồng tắm phụ. Giá cả tăng lên. Người ta hỏi nhau: “Tới Vịnh Leathercombe chưa hả? Ở đó có một khách sạn hay cực kỳ, trên một chỗ như là hòn đảo. Rất tiện nghi thoải mái, chẳng có người dạo chơi hay xe buýt tham quan đâu. Nấu ăn ngon và tất cả đều tốt đẹp. Ông nên tới đó đi.” Và quả thật người ta đã tới. Có một nhân vật rất quan trọng lưu trú tại Khách sạn Hải Tặc (hay ít ra ông ấy tự đánh giá mình như vậy). Hercule Poirot rực rỡ trong bộ comlê bằng vải dày màu trắng, với cái mũ panama nghiêng nghiêng trên đôi mắt, hàng ria mép xoắn lại thật đẹp. Ông nằm dựa ngửa trên ghế bố kiểu cải tiến quan sát bãi tắm. Một dãy nền đất cao từ khách sạn dẫn xuống đó. Trên bãi biển còn có các phao tấm, phao nằm, thuyền hơi và vải bạt, những quả bóng và đồ chơi bằng cao su. Có một tấm ván nhún dài và ba bè gỗ ở những khoảng cách khác nhau từ bờ biển. Về phần những người tắm biển, một số đang ở dưới nước, một số nằm duỗi dài trên bãi phơi nắng, số khác thì đang bôi díu lên người thật kỹ lưỡng. Ở trảng đất cao bên trên, những người không xuống tắm thì chọn cách ngồi bình luận về thời tiết, phong cảnh trước mặt, tin tức trên báo buổi sáng hay bất cứ đề tài nào khác lôi cuốn họ. Về phía bên trái của Poirot những câu nói dông dài, dịu dàng đơn điệu không ngừng tuôn ra từ miệng bà Gardener, trong khi hai tay bà vẫn thoăn thoắt đan len, khiến hai que đan cứ chạm vào nhau kêu lách cách. Ở phía bên kia là chồng bà, ông Odell C. Gardener nằm trên ghế võng, cái mũ sụp xuống tận mũi. Thỉnh thoảng ông chỉ góp vài lời ngắn gọn khi được yêu cầu nói. Về phía bên phải của Poirot, cô Emily Brewster, một phụ nữ mạnh mẽ rắn rỏi có mái tóc hoa râm và khuôn mặt dạn dày sương gió vui vẻ dễ ưa, đưa ra một lời bình luận cộc lốc. Nghe gần như tiếng sủa ngắn, thật to và mạnh mẽ của một con chó chăn cừu làm gián đoạn tiếng kêu ăng ẳng không ngớt của một con chó dòng Pomerania. Bà Gardener đang nói: “Và thế là tôi nói với ông nhà tôi, à, tôi đã nói là các chuyến tham quan đều rất tốt, và quả là tôi thường đi tham quan suốt. Chúng tôi đã đi khá nhiều nơi khắp xứ Anh này rồi, nên bây giờ tôi chỉ muốn đến một nơi yên tĩnh ở miền biển và chỉ để thư giãn mà thôi. Em đã nói thế, đúng không Odell? Chỉ thư giãn thôi. Tôi cảm thấy mình phải thư giãn. Đúng như thể, phải vậy không Odell?” Từ sau cái mũ ông chồng khẽ đáp: “Phải, em yêu à.” Bà vợ tiếp tục theo đuổi đề tài của mình: “Và thế là khi tôi đề cập chuyện ấy với ông Kelso ở công ty du lịch Cook - ông ấy đã thu xếp cả lộ trình cho chúng tôi, hết sức hữu ích về mọi mặt. Thật tình tôi chẳng biết chúng tôi phải làm gì nếu không có ông ấy! - À, như tôi nói đó, khi tôi đề cập chuyện ấy, ông Kelso nói tốt hơn hết chúng tôi nên tới đây. Một địa điểm đẹp như tranh vẽ, hoàn toàn cách biệt, mà vẫn rất tiện nghi thoải mái và riêng tư. Tất nhiên ông nhà tôi đã xen vào ngay vào hỏi vệ sinh thì thu xếp ra sao? Bởi vì nếu ông chịu tin lời tôi, ông Poirot à, một cô em gái của ông Gardener có lần từng tới trọ ở một nhà khách mà họ bảo là rất riêng biệt giữa một bãi đất hoang, nhưng ông có tin không, chẳng có gì ngoài nhà xí lấy đất phủ lên phân. Vì thế lẽ tất nhiên chuyện ấy khiến ông nhà tôi nghi ngờ những nơi cách biệt với thế giới bên ngoài, có phải vậy không Odell?” “Ờ phải, em yêu à,” ông chồng đáp. “Nhưng ông Kelso lập tức cam đoan với chúng tôi một lần nữa. Ông ấy bảo chuyện vệ sinh tuyệt đối không cần phải bàn thêm gì, và nấu ăn thật xuất sắc. Tôi chắc chắn thế đó. Và điều khiến tôi rất thích là đúng giờ đúng giấc, chắc ông hiểu tôi muốn nói gì rồi. Là một nơi nhỏ bé nên tất cả chúng ta trò chuyện với nhau và ai nấy đều biết nhau. Người Anh nếu có một lỗi thì đó là họ hơi xa cách một chút xíu cho tới khi đã quen nhau chừng vài năm. Sau đó chẳng ai có thể tử tế hơn họ. Ông Kelso bảo những con người thú vị thường hay tới đây, và tôi thấy ông ấy nói đúng. Có các vị đây, ông Poirot và cô Darnley. Ôi! Đúng là tôi đã thích đến chết đi được khi khám phá ra các vị là ai, có phải vậy không Odell?” “Phải, em yêu à.” “Hà!” cô Brewster hùng hổ ngắt ngang câu chuyện. “Thật rộn ràng vui sướng quá, hử, ông Poirot?” Poirot giơ hai tay lên có vẻ không đồng tình. Nhưng đó chỉ là một cử chỉ lịch sự không hơn không kém. Bà Gardener nói tiếp như một dòng nước đang lững lờ trôi: “Xin hiểu cho, thưa ông Poirot, tôi từng nghe Cornelia Robson kể rất nhiều chuyện về ông đó. Tháng 5 vừa rồi, vợ chồng tôi đã tới Badenhoi Và tất nhiên Cornelia đã kể hết cho chúng tôi nghe vể vụ Linnet Ridgeway bị giết chết ờ Ai Cập. Bà ấy bảo ông thật tuyệt vời, và lâu nay tôi đã muốn gặp ông hết sức, có phải vậy không, Odell?” “Phải, em yêu à.” “Rồi sau đó còn cô Darnley nữa. Tôi mua rất nhiều đồ hiệu Rose Mond, và tất nhiên cô ấy là Rose Mond, đúng không? Cô ấy thiết kế trang phục quá thông minh. Một mặt hàng tuyệt diệu quá đỗi. Cái đầm tôi mặc đêm hôm qua là của cô ấy đó. Quả đúng là một phụ nữ đáng yêu về mọi mặt.” Từ phía bên kia cô Brewster, thiếu tá Barry nãy giờ vẫn ngồi dán cặp mắt ốc nhồi vào những người đang tắm, lẩm bẩm: “Cô nàng trông ngon lành đáo để!” Bà Gardener khua que đan lách cách: “Tôi phải thú nhận một điều thôi, ông Poirot à. Gặp ông ở đây khiến tôi bị điếng người kiểu nào đó - chẳng phải tôi không phấn khích khi gặp ông đâu, phấn khích quá đi chứ. Ông nhà tôi biết điều ấy. Nhưng tôi vừa nghĩ đến chuyện có thể ông tới đây - à, là để hành nghề. Ông biết tôi muốn nói gì chứ? À, tôi vốn cực kỳ nhạy cảm, như ông Gardener sẽ nói cho ông biết, và quả tôi chẳng thể chịu nổi nếu phải dính líu vảo bất cử kiểu tội ác nào. Xin ông hiểu cho.” Chồng bà ta đằng hắng rồi nói: “Xin ông hiểu cho, ông Poirot à, bà nhà tôi nhạy cảm lắm.” Hai tay thám tử Poirot giơ thẳng lên trời thật nhanh: “Xin cam đoan với bà, Madame, tôi tới đây cũng y như bà vậy thôi - để vui hưởng - để nghỉ hè thôi. Thậm chí tôi chẳng hề nghĩ tới tội ác.” Cô Brewster lại nói như tiếng chó sủa ngắn cộc cằn: “Chẳng có cái xác nào trên Đảo Buôn Lậu đâu.” “A!” Hercule Poirot nói. “Nói thế cũng không hoàn toàn đúng.” Ông chỉ tay xuống phía dưới. “Bà nhìn họ đang nằm dài ra đó từng hàng đi! Họ là gì vậy hả? Không phải đàn ông hay đàn bà. Chẳng có đặc điểm cá nhân nào cả. Họ chỉ là - những thân xác.” Thiếu tá Barry tán thành: “Một đám ngớ ngẩn trông cũng được mắt đó, vài người trong bọn họ. Mảnh khảnh, có lẽ vậy.” “Phải đó,” Poirot kêu lên, “nhưng có gì hấp dẫn? Có gì bí ẩn? Tôi già mất rồi, thuộc trường phái cũ xưa, hồi tôi còn trẻ người ta hiếm khi trông thấy mắt cá chân. Thoáng thấy một cái váy lót xốp cũng làm mình mê mẩn xiết bao! Một bắp chân căng tròn mém mại - một đẩu gối - ghim nịt vớ…” “Hư đốn, hư đốn!” thiếu tá Barry nói với giọng khàn khàn. “Đồ ta mặc ngày nay gợi cảm hơn nhiều,” cô Brewster nhận xét. “À phải đó, ông Poirot à. Bọn con trai con gái đời nay sống tự nhiên khỏe mạnh hơn nhiều. Chúng chỉ nô đùa đây đó với nhau rổi chúng - à, chúng nó…” bà Gardener hơi đỏ mặt vì đầu óc bà vốn rất tinh tế - “chúng chẳng nghĩ gì về chuyện ấy, ông hiểu ý tôi chứ?” “Tôi hiểu rồi,” Poirot đáp. “Thật đáng trách!” “Đáng trách sao?” bà Gardener rít lên. “Xóa bỏ hết tình cảm lãng mạn - hết còn bí ẩn! Ngày nay mọi thứ đều bị tiêu chuẩn hóa.” Ông thám tử phẩy tay về phía những hình hài nằm sấp nằm ngửa. “Cái cảnh đó nhắc tôi nhớ rất nhiều tới Nhà xác ở Paris.” “Ông Poirot!” bà Gardener cảm thấy bị xúc phạm. “Những cái xác - xếp trên những phiến dày và rộng - y hệt thịt ở cửa hàng bán thịt!” “Ông Poirot à, nói vậy chẳng phải là quá cường điệu sao?” Hercule Poirot thừa nhận: “Có lẽ thế, đúng vậy.” “Dù sao đi nữa,” bà Gardener đan len thật hăng, “tôi vẫn có thể đồng ý với ông về một điểm. Những cô gái đang nằm dài phơi nắng như thể kia sẽ bị mọc lông tay lông chân đó. Tôi từng bảo Irene - con gái tôi, ông Poirot à, - tôi bảo nó nếu cứ nằm dài phơi nắng như thế, con sẽ mọc lông khắp mình khắp mẩy, lông tay lông chân và lông ngực, khi ấy trông con sẽ như thể nào hở? Em đã nói với con bé, phải vậy không Odell?” “Phải, em yêu à,” chồng bà đáp. Mọi người im lặng, có lẽ đang mường tượng trong đầu hình ảnh của Irene khi tình huống xấu nhất đã xảy ra. Bà Gardener cuốn đồ đan len lại rổi nói: “Bây giở tôi tự hỏi..” Ông chồng hỏi: “Gì thế, em yêu?” Ông gượng đứng lên rời khỏi cái ghế võng, cầm lấy đồ đan len và quyển sách của vợ rổi hỏi: “Cùng uống với chúng tôi một ly nhé, cô Brewster?” “Ngay bây giờ thì không được, cảm ơn ông.” Hai vợ chồng đi trở lên khách sạn. Cô Brewster nói: “Các ông chồng người Mỹ thật tuyệt vời!” Cha Stephen Lane ngồi vào chỗ của bà Gardener. Đó là một ông thầy tu cao ráo sung sức ngoài năm mươi. Khuôn mặt rám nắng và cái quần dài bằng nỉ mỏng tanh màu xám sẫm thích hợp để đi nghỉ mát lại làm ô uế thanh danh của một kẻ tu hành. Ông nói thật hăng hái: “Miền quê này thật kỳ diệu! Ta đã đi từ Vịnh Leathercombe đến Harford rồi quay về chỗ gành đá.” “Hôm nay đi bộ làm ấm người lắm đó,” thiếu tá Barry nói, nhưng ông ta chẳng bao giờ đi bộ. “Rèn luyện thân thể là rất tốt,” cô Brewster thêm vào. “Tôi vẫn chưa chèo thuyền đây. Muốn tập cơ bụng thì không gì bằng chèo thuyền đâu.” Cặp mắt Hercule Poirot sụp xuống, hơi rầu rĩ liếc nhìn chỗ trương phình lên chính giữa bụng. Để ý thấy, cô Brewster nói thật tử tế: “Ông sẽ sớm làm chỗ ấy xẹp xuống thôi, ông Poirot ạ, nếu hằng ngày chèo thuyền ra biển.” “Merci, Mademoiselle. Tôi thì lại ghét cay ghét đắng các loại thuyền bè!” “Ông muốn nói đến những chiếc thuyền nhỏ sao ạ?” “Thuyền bè mọi kích cỡ.” Ông nhắm mắt lại và rùng mình. “Biển động thì chẳng hề dễ chịu.” “Chúa ban phúc lành cho cái ông này, hôm nay sóng yên biển lặng mà ông.” Poirot đáp lại với niềm tin vững chắc: “Thật ra chẳng có chuyện biển lặng đâu. Lúc nào, lúc nào cũng chuyển động.” “Nếu ông hỏi tôi,” thiếu tá Barry nói, “cứ mười người thì có tới chín người bị say sóng đó.” “Thế đấy,” ông thầy tu hơi nhếch mép mỉm cười, “là thủy thủ lành nghề mà cũng nói thế ư, ông thiếu tá?” “Chỉ bị say sóng mỗi một lần, đó là lúc tôi vượt Biển Manche! Đừng nghĩ tới say sóng, đó là phương châm của tôi.” “Say sóng thật sự là một chứng rất kỳ quặc,” cô Brewster có vẻ đâm chiêu. “Vì sao người này mắc chứng ấy, còn kẻ khác lại không chứ? Chẳng phải là quá bất công hay sao? Chẳng liên quan gì tới sức khỏe thể chất cả. Có người cực kỳ ốm yếu lại là thủy thủ giỏi. Từng có người bảo tôi chứng ấy liên quan gì đấy với cột sống. Rồi còn có cái kiểu chẳng chịu nổi độ cao. Chính tôi cũng chịu đựng không tốt lắm, nhưng bà Redfern còn tệ hơn nhiều. Hôm nọ ở lối đi trên vách đá đến Harford, bà ấy bỗng dưng bị chóng mặt, đến nỗi phải vịn vào tôi đấy. Bà kể tôi nghe có lần từng bị kẹt ở nửa chừng đường đi xuống cầu thang bên ngoài nóc Nhà thờ Milan. Bà ấy leo lên thì chẳng hề nghĩ ngợi gì, nhưng khi đi xuống lại bị choáng.” “Thế thì tốt hơn hết bà ấy không nên leo cái thang xuống Vũng Tiên,” cha Lane nhân xét. Cô Brewster nhăn mặt. “Chính tôi cũng khiếp nữa là. Bọn trẻ thì không sao cả. Thằng bé nhà Cowan với cậu Mastermans cứ leo lên trèo xuống nhoay nhoáy, ra cái điều thích thú lắm.” Ông thầy tu nói: “Bà Redfern vừa tắm xong lên đây kia kìa.” Cô Brewster nhận xét: “Ông Poirot phải tán dương bà ấy đấy. Bà ấy tắm biển không hề bắt nắng.” Cô Redfern trẻ trung đã cởi cái mũ cao su và đang giũ tóc. Đó là một phụ nữ tóc vàng xám tro và làn da trắng tinh rất hợp với màu tóc. Chân tay rất trắng trẻo. Thiếu tá Barry cười khềnh khệch: “Trông cô ấy còn tai tái một tí, chưa nướng chín như những người khác nhỉ?” Redfern từ bãi biển đi lên rồi leo các bậc thềm tiến về phía họ. Khuôn mặt nghiêm trang của cô thật xinh đẹp, một kiểu xinh đẹp trơ trơ vô vị, bàn tay bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn. Cô mỉm cười với họ, buông mình ngồi xuống bên cạnh, kín mít trong lớp áo tắm bọc lấy người. Brewster nói: “Chị được ông Poirot đánh giá cao đấy. Ông ấy chẳng thích đám người da rám nắng. Bảo họ giống như những súc thịt trong hàng thịt, hay những từ mô tả vậy đấy.” Christine Redfern mỉm cười buồn bã: “Tôi vẫn ước ao da mình có thể ăn nắng thì tốt. Nhưng nó chẳng chịu đổi màu nâu. Chỉ bị rộp lên vì bỏng nắng và có những vết tàn nhang kinh khủng nhất khắp cả hai cánh tay.” “Còn đỡ hơn là bị mọc đầy lông như cô bé Irene con gái bà Gardener,” cô Brewster nói. Rồi đáp lại cái liếc nhìn dò hỏi của thiếu phụ xinh xắn trắng trèo, cô nói tiếp: “Sáng nay bà Gardener cực kỳ phấn khởi. Cứ luôn mổm nói liên tu bất tận. ‘Có phải vậy không Odell?’ Ông chồng liền đáp, ‘Phải, em yêu à.’” Cô dừng lại một lát rổi nói: “Tuy thế tôi vẫn ước ao, ông Poirot ạ, lẽ ra ông nên trêu bà ta một chút. Sao ông không làm thế? Sao không bảo bà ta rằng ông xuống đây để điều tra một án mạng ghê rợn, và kẻ gây án là một tên sát nhân cuồng loạn, mà nhất định là một trong số khách trọ của khách sạn này?” Hercule Poirot thở dài. “Tôi rất ngại bà ấy sẽ tin lời tôi.” Thiếu tá Barry cười khò khè khục khặc. “Chắc chắn bà ấy sẽ tin.” Cô Brewster nói: “Không đâu. Chắc ngay cả bà ấy cũng chẳng tin có án mạng xảy ra ở đây đâu. Đây không phải là nơi có thể tìm ra một cái xác.” Hơi nhúc nhích cựa quậy trong cái ghế, Poirot phản đối: “Nhưng sao lại không, thưa cô? Sao lại không có cái mà cô gọi là cái xác ở đây trên Đảo Buôn Lậu này?” Emily Brewster đáp: “Không biết nữa. Tôi cho rằng một số nơi ít có khả nàng xảy ra án mạng hơn những nơi khác. Đây không phải là nơi kiểu đó…” Đột nhiên cô ngừng lại, thấy khó lòng giải thích điều mình muốn nói. “Nơi này thật lãng mạn, đúng vậy,” Poirot đồng ý. “Thật bình an. Mặt trời chiếu sáng. Biển xanh. Nhưng cô quên rồi, cô Brewster à, tội ác có ở khắp mọi nơi dưới ánh mặt ười.” Ông thầy tu cựa quậy trong cái ghế bố của mình. Ông chồm người tới trước. Đôi mắt xanh lơ sáng rực lên. Cô Brewster nhún vai. “Ôi, dĩ nhiên tôi biết điều ấy chứ, nhưng dù sao đi nữa…” “Nhưng dù sao đi nữa nơi đây đối với cô hình như vẫn không có khả nàng là bối cảnh xảy ra một án mạng à? Cô quên mất một điều, thưa cô.” “Bản tính con người phải không ông?” “Đúng vậy đó. Vẫn luôn như vậy. Nhưng không phải là điều tôi vừa mới nói. Tôi vừa chỉ cho cô rõ ở đây mọi người đều đang đi nghỉ mát.” Cô Brewster quay khuôn mặt bối rối sang nhìn Poirot: “Tôi không hiểu.” Poirot tươi cười nhìn cô. Ông nhịp nhịp ngón trỏ vào không trung. “Giả sử cô có một kẻ thù. Nếu cô cố tìm cho ra hắn ở căn hộ của hắn, ở sở làm, ở ngoài đường phố, eh bien, cô phải có một lý do - cô phải giải thích hành vi của mình. Nhưng ở đây trên bờ biển chẳng ai cần phải giải thích về hành vi của mình. Cô tới Vịnh Leathercombe, sao hả? Parbleu! Bây giờ là tháng 8 - người ta thường ra biển vào tháng 8 - đi nghỉ hè. Hoàn toàn là lẽ đương nhiên chuyện cô và cha Lane tới đây, chuyện thiếu tá Barry và cô Redfern cùng chồng tới đây. Bởi vì đi nghỉ mát vào tháng 8 là tập quán ở xứ Anh này.” “À,” Brewster công nhận, chắc chắn đấy là một ý kiến rất tinh tế. “Nhưng còn ông bà Gardener thì sao? Họ là người Mỹ cơ mà.” Thám tử mỉm cười. “Chính bà Gardener cũng nói với chúng ta bà cảm thấy có nhu cầu được thư giãn. Hơn nữa bà đang tham quan xứ Anh, nên nhất thiết phải trải qua nửa tháng ngoài bờ biển mới đúng là một du khách sành điệu, chứ không làm điều gì khác. Bà ấy thích quan sát mọi người.” Christine Redfern khẽ hỏi: “Chắc ông cũng thích quan sát mọi người chứ?” “Thưa bà, tôi xin thú nhận điều đó. Tôi thích chứ.” Cô nói vẻ trầm ngâm: “Ông thấy - khá nhiều đấy.” Có một khoảnh khắc tạm dừng. Cha Lane đằng hắng rồi nối, hơi ngượng ngùng một chút. “Ta quan tâm đến điều ông vừa nói lúc nãy, ông Poirot ạ. Ông bảo tội ác hoành hành khắp nơi dưới ánh mặt trời. Đấy có vẻ như là một câu trích dẫn từ Sách Truyền Đạo.” Cha tạm dừng rồi sau đó tự trích dẫn: “Phải, trong tim con cái của con người cũng đầy rẫy cái ác, và sự điên cuồng ở trong tim họ trong khi họ sống.” Mắt ông rực lên một thứ ánh sáng gần như cuồng tín. “Ta rất vui khi nghe ông nói câu ấy. Đời nay chẳng ai tin có cái ác cả. Cùng lắm được xem đơn giản chỉ là phủ định của cái thiện. Người ta bảo cái ác được thực thi bởi những kẻ chẳng biết điều gì tốt hơn - những kẻ chậm phát triển - những kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Nhưng ông Poirot này, cái ác có thật đấy. Đấy là một thực tế. Ta tin có cái ác cũng như ta tin có cái thiện. Nó tồn tại! Nó có quyền lực lớn lao! Nó bước đi khắp trên quả đất này!” Ông thầy tu dừng lại, hơi thở gấp gáp một chút. Ông lấy khăn tay lau trán và chợt có vẻ ân hận. “Ta rất tiếc vì đã quá sa đà.” Poirot nói thật điềm tĩnh: “Tôi hiểu ý của ông. Tôi đồng ý với ông về một điểm. Quả là cái ác vẫn bước đi khắp trên trái đất và ta có thể nhận biết điều đó.” Thiếu tá Barry đằng hắng. “Bàn về chuyện kiểu ấy thì, mấy thằng cha tu hành khổ hạnh ở Ấn Độ…” Thiếu tá Barry ở Khách sạn Hải Tặc đã đủ lâu để mọi người cảnh giác đề phòng cái khuynh hướng sa vào những câu chuyện Ấn Độ dài lê thê chán ngắt của ông ta. Cả cô Brewster lẫn Christine đều đột nhiên cùng cất tiếng. “Bây giờ chồng cô đang xuống bơi, phải không cô Redfern? Kiểu bơi sải của ông ấy thật cừ khôi. Ông ấy bơi giỏi kinh khủng.” Cùng lúc đó Redfern nói: “Ôi, xem kìa! Chiếc thuyền nhỏ có những cánh buồm đỏ ở ngoài kia đẹp quá! Là thuyền của ông Blatt, phải không?” Chiếc thuyền buồm đỏ đúng là đang băng qua cuối vịnh. Thiếu tá Barry lẩm bẩm: “Ý tưởng thật kỳ khôi, những cánh buồm màu đỏ.” Nhưng mọi người đã thoát khỏi câu chuyện phiền hà về những nhà tu khổ hạnh của ông ta. Hercule Poirot nhìn người đàn ông trẻ vừa bơi vào bờ, tấm tắc khen thầm. Patrick Redfern là một mẫu người thật tuyệt. Thanh mảnh, nước da màu đồng thau, đôi vai rộng và hai bắp đùi săn chắc, anh ta có cái kiểu vui vẻ khoan khoái dễ hòa đồng - tính hồn nhiên bẩm sinh mà tất cả đàn bà và hầu hết đàn ông đều quý mến. Anh ta đứng đó giũ nước trên người rổi giơ tay vui vẻ gọi vợ. Cô vợ vừa vẫy tay đáp lại vừa cất tiếng: “Đến đây đi, Pat!” “Anh đến ngay.” Anh ta đi một quãng ngắn dọc theo bãi biển để lấy cái khản tắm đã để lại đó. Ngay lúc ấy một phụ nữ từ khách sạn đi xuống bãi biển ngang qua chỗ họ. Chuyện cô ta tới chỗ đó có tầm quan trọng cỡ như một diễn viên bước ra sân khấu. Hơn nữa cô ta bước đi như thể biết rõ điều đó. Chẳng hề có vẻ ngượng ngùng gì cả. Dường như cô ta đã quá quen thuộc với hiệu quả bất biến do sự có mặt của mình. Dáng người cao ráo mảnh mai, cô ta mặc chiếc áo tắm một mảnh hở lưng màu trắng và từng li từng tí trên thân thể lộ ra ngoài đều nhuốm một chút màu đồng thau tuyệt đẹp. Hoàn hảo như một bức tượng. Mái tóc màu nâu đỏ rực lửa uốn quăn úp thật sát vào cái cổ rất đẹp. Nét mặt hơi nghiêm nghị thường thấy khi ba mươi năm đã đến rồi đi, nhưng toàn bộ tác động của cô ta là tác động của tuổi trẻ - của sức sống chiến thắng thật mãnh liệt. Khuôn mặt ấy bất động kiểu Trung Hoa và đôi mắt xanh sẫm xếch lên. Trên đầu đội một cái nón Trung Hoa bằng bìa cứng màu xanh ngọc thạch thật kỳ quái. Cô ta có điểm gì đó khiến mọi phụ nữ khác trên bãi biển dường như đểu lu mờ đi và chẳng có nghĩa lý gì. Cũng không thể nào tránh khỏi điều đó, mọi cặp mắt đàn ông hiện diện đều bị hút dính vào cô ta. Hercule Poirot mở to cặp mắt, hàng ria mép rung rinh tấm tắc khen thầm. Thiếu tá Barry ngổi thẳng dậy, cặp mắt ốc nhồi thậm chí còn lồi ra nhiều hơn vì quá phấn khích. Bên trái Poirot, cha Stephen Lane hít vào một hơi với một tiếng rít khe khẽ, còn toàn thân thì cứ cứng đơ ra. Thiếu tá Barry thì thào, giọng khàn khàn: “Arlena Stuart – là tên cô ta trước khi lấy Marshall. Tôi từng xem cô ta trong vở Đến và Đi trước khi cô ta rời bỏ sân khấu. Cũng có cái đáng để ngắm nhìn đó, hử?” Christine Redfern nói thật chậm rãi, giọng lạnh lùng: “Cô ta trông cũng được mắt - vâng. Tôi nghĩ - trông cô ta như một con thú thì đúng hơn!” Emily Brewster nói cộc lốc: “Lúc nãy ông vừa bàn về cái ác, thưa ông Poirot. Giờ đây trong tâm trí tôi người đàn bà này chính là hiện thân của cái ác! Cô ta là một ả đê tiện suốt từ đầu đến cuối. Tôi tình cờ được biết rất nhiều chuyện về cô ta.” Thiếu tá Barry hồi tưởng: “Tôi còn nhớ một ả ở bên Simla. Tóc ả cũng màu đỏ. Vợ của một trung úy hải quân. Có làm cho nơi ấy xào xáo hay không ư? Xin thưa là có ạ. Đàn ông phát điên lên vì ả. Tất nhiên hết thảy đàn bà đều muốn móc mắt ả ra! Ả đã phá nát hơn một gia đình rồi đó.” Ông ta cười khục khạc khi nhớ lại. “Chồng ả là một thằng cha trầm lặng thật tuyệt. Sùng bái cả mặt đất dưới bước chân ả. Chẳng bao giờ thấy cái gì - hay vờ không thấy.” Cha Lane nói với giọng trầm trầm đầy cảm xúc mãnh hệt: “Phụ nữ như thế là một mối đe dọa - đe dọa đối với… Ông dừng lại. Arlena Stuart đã ra tới mép nước. Hai cậu trai choai nhảy dựng lên rồi hăm hở tiến tới. Cô đứng lại mỉm cười với họ. Mắt cô lướt nhanh ngang qua họ tới chỗ Patrick Redfern đang đi dọc theo bãi biển. Hercule Poirot nghĩ như thể ông đang theo dõi cây kim la bàn. Patrick Redfern đi chệch đường, đôi chân anh ta đổi hướng. Kim la bàn dù muốn hay không cũng phải tuân theo quy luật của từ trường và xoay về hướng bắc. Hai chân Patrick Redfern đưa anh ta đến với Arlena Stuart. Cô đứng đó mỉm cười với anh ta. Rồi cô chầm chậm di chuyển dọc theo bải biển sát bên những ngọn sóng. Anh ta đi cùng với cô. Cô nằm duỗi dài ra cạnh một tảng đá. Patrick buông mình nằm xuống chỗ đay đá cuội ở bên cạnh. Christine Redfern lập tức đứng dậy và đi vào khách sạn. Có một thoáng im lặng không thoải mái sau khi cô ta bỏ đi. Rồi Emily Brewster nói: “Hơi quá tệ đấy. Cô ấy nhỏ bé, dễ thương. Họ chỉ mới lấy nhau chừng một hai năm thôi.” “Cái ả tôi vừa nhắc đến,” thiếu tá Barry nói, “ở Simla ấy. Ả đã làm đổ vỡ một cặp vợ chồng thật sự hạnh phúc. Có vẻ đáng thương, nhỉ?” Brewster nói: “Có một hạng đàn bà thích phá nát gia đình người ta.” Chừng một vài phút sau cô nói thêm, “Patrick Redfern là đồ ngu ngốc!” Hercule Poirot không nói gì. Ông đang chăm chú nhìn xuống bãi biển. Nhưng không phải nhìn Patrick và Arlena. Cô Brewster lại nói: “À, tôi nên đi chèo chiếc thuyền thì hơn.” Cô rời khỏi họ. Thiếu tá xoay cặp mắt như hai trái lý gai nấu chín ngó Poirot có vẻ hơi tò mò: “Này Poirot, ông đang nghĩ gì vậy? Ông chưa mở miệng. Nghĩ gì về ả mỹ nhân ngư ấy? Cũng nóng bỏng đấy chứ nhỉ?” Poirot trả lời: “C’est possible.” “À ra thế, ông bạn già. Tôi biết ngay ông là người Pháp mà.” Poirot lạnh lùng đáp lại: ‘Tôi không phải người Pháp!” “À, đừng nói với tôi ông chẳng hề để mắt đến gái đẹp nhé! Ông nghĩ gì về cô ả, hử?” “Cô ta không còn trẻ nữa.” “Điều ấy có quan trọng gì đâu chứ? Đàn bà trẻ hay già là tùy ở vẻ bề ngoài. Dáng cô ả cũng được đó chứ.” Poirot gật đầu nói: “Phải, cô ta xinh đẹp thật. Nhưng rốt cuộc sắc đẹp không phải là điều đáng quan tâm. Không phải sắc đẹp đã khiến mọi cái đầu – ngoại trừ một cái – đều xoay ra bãi biển để ngắm nhìn cô ta đâu.” “Chính thế, ông bạn ạ. Chính là điều ấy.” Thiếu tá nói, rồi đột nhiên tò mò hỏi, “Ông đang nhìn cái gì quá chăm chú vậy?” Poirot đáp: “Tôi đang nhìn trường hợp ngoại lệ. Người đàn ông duy nhất không ngước nhìn lên khi cô ta đi ngang qua.” Thiếu tá Barry nhìn theo ánh mắt đăm đăm của Poirot dừng lại nơi một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi, tóc vàng hoe và da rám nắng. Khuôn mặt trầm tĩnh dễ ưa, ông ta đang ngồi trên bãi biển vừa hút ống điếu vừa đọc báo The Times. “À ra thế. Đó là ông chồng, ông bạn ạ, là Marshall đó.” “Phải, tôi biết rồi,” Hercule Poirot đáp. Thiếu tá Barry cười khục khặc. Là đàn ông độc thân, ông ta vẫn quen nghĩ Người Chồng có ba nghĩa - là kỳ đà cản mũi, kẻ gây phiền phức hay gã bảo vệ. “Có vẻ là một thằng cha tử tế đó,” ông ta nhận xét. Thật trầm lặng. Tôi tự hỏi phải chăng thời cơ của tôi đã tới?” Thiếu tá Barry đứng dậy và đi lên về phía khách sạn. Cái liếc nhìn của Poirot chầm chậm chuyển sang khuôn mặt cha Lane. Vị cha xứ đang chăm chú theo dõi Arlena Marshall và Patrick Redfern. Chợt ông quay sang Poirot. Trong đôi mắt ông có một thứ ánh sáng nghiêm khắc cuồng tín. “Người đàn bà ấy là cái ác suốt từ đầu đến cuối. Ông có nghi ngờ điều đó không?” cha Lane nói. Poirot đáp thật chậm rãi: “Thật khó lòng biết chắc ạ.” “Nhưng là người còn sống, ông không cảm thấy nó trong không trung hay sao? Khắp xung quanh ông. Sự hiện hữu của Cái Ác.” Poirot chầm chậm gật đầu. Mời bạn đón đọc Tội Ác dưới Ánh Mặt Trời của tác giả Agatha Christie & Trần Hữu Kham (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truy Lùng Tên Sát Nhân - Jerry Cotton
Jerry Cotton là series truyện trinh thám hình sự tiếng Đức thành công nhất từ trước đến nay, do NXB Bastei-Verlag in và phát hành thường xuyên dưới dạng các tập truyện khổ A5. Tập truyện đầu tiên của series dưới nhan đề "Tôi truy tìm ông trùm ganster (Ich suchte den Gangster-Chef) ra mắt độc giả lần đầu vào năm 1954. Hiện giờ tập truyện Jerry Cotton số 3040 đang được phát hành. Toàn bộ số ấn phẩm của series đã được in là khoảng 850 triệu bản!. Delfried Kaufmann là người đầu tiên chủ trương phát hành và cũng là một trong các tác giả của series truyện. Jerry Cotton không phải là tên thật mà chỉ là nghệ danh chung cho hơn 100 tác giả (có ước lượng lên tới 150 - 180 tác giả) của series truyện trinh thám hình sự này. Jerry Cotton là một cảnh sát nguyện cống hiến cả đời mình cho cuộc chiến chống các băng đảng gangster. Với lòng dũng cảm và trí thông minh, anh đã chiếm trọn trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới. Những tác giả đã từng tham gia viết các tập truyện này (Nguồn wiki): Heinz Werner Höber Thomas Jeier (bút danh Christopher Ross) Rolf Kalmuczak (bút danh Stefan Wolf,  tác giả của bộ truyện"TKKG") Walter Appel Martin Barkawitz Horst Friedrichs Friedrich Jankuba Helmut Rellergert (bút danh Jason Dark, tác giả của bộ truyện "Geisterjäger John Sinclair") Friedrich Tenkrat Manfred Weinland Một số tác phẩm của bộ truyện đã được xuất bản tại Việt Nam: Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster - 2001 Làn Váy Mini Bên chiếc Xe Sang Trọng - 2001 Lũ chuột cống vùng Bronx - 2003, NXB Văn học xuất bản Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát - 2005 Lương Tâm Và Tội Ác (Hêrôin Trong Nhà Trắng) - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Tính Nhầm Luật Chơi - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Cơn bão - 1997 Truy lùng tên sát nhân - 1998, NXB Văn học xuất bản Những đứa con của bố già - 1999, NXB Trẻ xuất bản Con tin tình nguyện - 1999 Địa ngục trên đỉnh núi - 2000 Viên cảnh sát báo thù - 2000 Ngàn dặm xa lộ hiểm nguy - 2000 Trò chơi đã hết - 2000 Khi sát thủ là hai người đẹp - 2001 Người đàn bà bí hiểm - 2001 Con gái cảnh sát sa lưới Amphetamin - 2001 Vụ tống tiền bí hiểm - 2001 Vị đắng Crack ma túy quỷ dữ - 2002 Tiếng kêu cứu giữa nửa đêm - 2002 Phi trường Kennedy ba giờ sáng - 2002 Biệt thự con tin - 2002 30 giờ và gã giết thuê - 2002 Một kịch bản đầy án mạng - 2002 Máu đỏ thuốc phiện trắng - 2003 Những nụ hoa Bangkok - 2003 Đường dây "gái gọi" - 2003 Sòng bài đặt cược - 2003 Sát thủ số 1 của công ty cổ phần giết mướn - 2003 ... *** ...Sương mù phủ trên mặt Đại Tây Dương, dày như một biển bông xám trắng và chỉ loãng ra thành những vệt hơi nước nhợt nhạt bên bờ. Tiếng còi tàu trầm đục vẳng về từ rất xa. Tiếng nhạc rên rỉ phát ra từ ngôi nhà xây trước khách sạn, điếm gặp gỡ hàng đêm của đám trai trẻ trong vùng, điểm hội tụ của những phút giây nhảy nhót và vui nhộn. Wilbur Staten giơ tay quệt mồ hôi lạnh trên trán. Những ngón tay run run khi anh cầm lấy va-li. Chốc chốc ánh mắt anh ta lại liếc thật nhanh về hướng cửa sổ. Một ánh mắt đầy kinh hãi. Wilbur Staten cố gắng làm chủ nỗi sợ đang dâng đầy trong tâm khảm, nhưng chỉ uổng công. Có thể chúng không tới. Có thể chúng chưa phát hiện ra sự biến mất của anh. Có thể… Ở đâu đó có ai khẽ cất tiếng hát. Wilbur Staten giật mình. Dạ dày anh thít chặt. Người đàn ông đờ đẫn đứng lại, chỉ trong một giây đồng hồ toàn thân đã ướt đẫm mồ hôi, anh ta lắng nghe bầu trời đêm bên ngoài. Tiếng hát ngưng một thoáng, rồi lại cất lên. Wilbur Staten biết giai điệu đó: “Song of Death” (Bài ca cái chết). Wilbur Staten biết cái giai điệu đang khiến cho đám trẻ con phát điên phát khùng lên trong các sàn nhảy từ vài tuần nay, anh thuộc cả lời bài hát quái gở. Và anh ta biết cả người đàn ông đang lẩm nhẩm bài hát đó một mình, lẩm nhẩm bất cứ nơi nào gã xuất hiện một cách không ngơi nghỉ, không mệt mỏi như muốn dứt đứt tới sợi dây thần kinh cuối cùng của người nghe. Gã đến rồi. Gã đã nhận được lệnh, đã tìm dấu vết và sẽ thực hiện công việc của gã. ... Mời các bạn đón đọc Truy Lùng Tên Sát Nhân của tác giả Jerry Cotton.
Vị Đắng Crack & Ma Túy Quỷ Dữ - Jerry Cotton
Người ta gọi crack là quỷ dữ bởi nó đã biến không biết bao nhiêu người dùng cùng kẻ bán thật sự thành quỷ dữ. Làn sóng crack dìm New York vào một “cuộc chiến phố phường” trực diện và đẫm máu. Cái chết oan ức của một cảnh sát viên đẩy đội quân tổng hợp chống crack vào một cuộc ra quân ráo riết… Jerry Cotton là series truyện trinh thám hình sự tiếng Đức thành công nhất từ trước đến nay, do NXB Bastei-Verlag in và phát hành thường xuyên dưới dạng các tập truyện khổ A5. Tập truyện đầu tiên của series dưới nhan đề "Tôi truy tìm ông trùm ganster (Ich suchte den Gangster-Chef) ra mắt độc giả lần đầu vào năm 1954. Hiện giờ tập truyện Jerry Cotton số 3040 đang được phát hành. Toàn bộ số ấn phẩm của series đã được in là khoảng 850 triệu bản!. Delfried Kaufmann là người đầu tiên chủ trương phát hành và cũng là một trong các tác giả của series truyện. Jerry Cotton không phải là tên thật mà chỉ là nghệ danh chung cho hơn 100 tác giả (có ước lượng lên tới 150 - 180 tác giả) của series truyện trinh thám hình sự này. Jerry Cotton là một cảnh sát nguyện cống hiến cả đời mình cho cuộc chiến chống các băng đảng gangster. Với lòng dũng cảm và trí thông minh, anh đã chiếm trọn trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới. Những tác giả đã từng tham gia viết các tập truyện này (Nguồn wiki): Heinz Werner Höber Thomas Jeier (bút danh Christopher Ross) Rolf Kalmuczak (bút danh Stefan Wolf,  tác giả của bộ truyện"TKKG") Walter Appel Martin Barkawitz Horst Friedrichs Friedrich Jankuba Helmut Rellergert (bút danh Jason Dark, tác giả của bộ truyện "Geisterjäger John Sinclair") Friedrich Tenkrat Manfred Weinland Một số tác phẩm của bộ truyện đã được xuất bản tại Việt Nam: Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster - 2001 Làn Váy Mini Bên chiếc Xe Sang Trọng - 2001 Lũ chuột cống vùng Bronx - 2003, NXB Văn học xuất bản Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát - 2005 Lương Tâm Và Tội Ác (Hêrôin Trong Nhà Trắng) - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Tính Nhầm Luật Chơi - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Cơn bão - 1997 Truy lùng tên sát nhân - 1998, NXB Văn học xuất bản Những đứa con của bố già - 1999, NXB Trẻ xuất bản Con tin tình nguyện - 1999 Địa ngục trên đỉnh núi - 2000 Viên cảnh sát báo thù - 2000 Ngàn dặm xa lộ hiểm nguy - 2000 Trò chơi đã hết - 2000 Khi sát thủ là hai người đẹp - 2001 Người đàn bà bí hiểm - 2001 Con gái cảnh sát sa lưới Amphetamin - 2001 Vụ tống tiền bí hiểm - 2001 Vị đắng Crack ma túy quỷ dữ - 2002 Tiếng kêu cứu giữa nửa đêm - 2002 Phi trường Kennedy ba giờ sáng - 2002 Biệt thự con tin - 2002 30 giờ và gã giết thuê - 2002 Một kịch bản đầy án mạng - 2002 Máu đỏ thuốc phiện trắng - 2003 Những nụ hoa Bangkok - 2003 Đường dây "gái gọi" - 2003 Sòng bài đặt cược - 2003 Sát thủ số 1 của công ty cổ phần giết mướn - 2003 ... *** ...Mùi nấu nướng lưu cữu suốt 40 năm xông nồng. Những mảnh giấy dán tường rách tươm đua nhau cùng lớp vữa trần thở ra đủ mùi khói thuốc, từ loại Lucky-Strike của ngày hậu chiến cho tới thứ Marlboro thời nay. Vô số mùi nước hoa đàn bà cùng nước hoa cạo râu bổ sung thêm cho danh sách “hương vị” của ngôi nhà. Người ta ngửi rõ mùi chua của những con mèo không được dạy bảo tử tế. Dải hành lang nằm trước mặt chúng tôi phô bày vẻ tởm lợm như khu ăn uống ngập mùi thịt thừa của cả một bầy sư tử. Một dãy cửa phía trái, một dãy cửa phía phải. Mục đích của chúng tôi là cánh cửa cuối cùng thẳng chính giữa hành lang. Norman Grand coi lần ra quân này là nhiệm vụ của riêng anh. Có lẽ anh đang muốn được ngài thị trưởng Ed Koch tận tay trao tặng huy chương. Ed Koch đã đích thân tuyên chiến một mất một còn với đám bá tước thuốc phiện và nền tảng cho lời tuyên chiến đó là sự ủng hộ hết mình của tất cả chúng tôi: Cảnh sát thành phố, đội đặc nhiệm chống thuốc phiện, FBI. Có lẽ ngài thị trưởng không khỏi thầm ước ao có thêm vài đội quân thiện xạ nữa để tung vào “cuộc chiến phố phường” New York. Chờ tới khi chúng tôi tụ tập đầy đủ ở khoảng đầu cầu thang, Norman Grand giơ tay ra hiệu. Chúng tôi có tất cả 7 người. Norman Grand là người đầu tiên nhào tới. ... Mời các bạn đón đọc hai tập truyện trong series, Vị Đắng Crack & Ma Túy Quỷ Dữ của tác giả Jerry Cotton.
Hêrôin Trong Nhà Trắng - Jerry Cotton
Lưu ý là quyển này có trùng nội dung với quyển "Lương Tâm Và Tội Ác" cũng được NXB Công An Nhân Dân ấn hành cùng năm 2005 Jerry Cotton là series truyện trinh thám hình sự tiếng Đức thành công nhất từ trước đến nay, do NXB Bastei-Verlag in và phát hành thường xuyên dưới dạng các tập truyện khổ A5. Tập truyện đầu tiên của series dưới nhan đề "Tôi truy tìm ông trùm ganster (Ich suchte den Gangster-Chef) ra mắt độc giả lần đầu vào năm 1954. Hiện giờ tập truyện Jerry Cotton số 3040 đang được phát hành. Toàn bộ số ấn phẩm của series đã được in là khoảng 850 triệu bản!. Delfried Kaufmann là người đầu tiên chủ trương phát hành và cũng là một trong các tác giả của series truyện. Jerry Cotton không phải là tên thật mà chỉ là nghệ danh chung cho hơn 100 tác giả (có ước lượng lên tới 150 - 180 tác giả) của series truyện trinh thám hình sự này. Jerry Cotton là một cảnh sát nguyện cống hiến cả đời mình cho cuộc chiến chống các băng đảng gangster. Với lòng dũng cảm và trí thông minh, anh đã chiếm trọn trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới. Những tác giả đã từng tham gia viết các tập truyện này (Nguồn wiki): Heinz Werner Höber Thomas Jeier (bút danh Christopher Ross) Rolf Kalmuczak (bút danh Stefan Wolf,  tác giả của bộ truyện"TKKG") Walter Appel Martin Barkawitz Horst Friedrichs Friedrich Jankuba Helmut Rellergert (bút danh Jason Dark, tác giả của bộ truyện "Geisterjäger John Sinclair") Friedrich Tenkrat Manfred Weinland ... Một số tác phẩm của bộ truyện đã được xuất bản tại Việt Nam: Những Phiên Bản Phần Mềm Internet-Gangster - 2001 Làn Váy Mini Bên chiếc Xe Sang Trọng - 2001 Lũ chuột cống vùng Bronx - 2003, NXB Văn học xuất bản Cuộc Tình Cuối Của Chàng Cảnh Sát - 2005 Lương Tâm Và Tội Ác (Hêrôin Trong Nhà Trắng) - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Tính Nhầm Luật Chơi - Hồ Sơ Hình Sự - 2005 Cơn bão - 1997 Truy lùng tên sát nhân - 1998, NXB Văn học xuất bản Những đứa con của bố già - 1999, NXB Trẻ xuất bản Con tin tình nguyện - 1999 Địa ngục trên đỉnh núi - 2000 Viên cảnh sát báo thù - 2000 Ngàn dặm xa lộ hiểm nguy - 2000 Trò chơi đã hết - 2000 Khi sát thủ là hai người đẹp - 2001 Người đàn bà bí hiểm - 2001 Con gái cảnh sát sa lưới Amphetamin - 2001 Vụ tống tiền bí hiểm - 2001 Vị đắng Crack ma túy quỷ dữ - 2002 Tiếng kêu cứu giữa nửa đêm - 2002 Phi trường Kennedy ba giờ sáng - 2002 Biệt thự con tin - 2002 30 giờ và gã giết thuê - 2002 Một kịch bản đầy án mạng - 2002 Máu đỏ thuốc phiện trắng - 2003 Những nụ hoa Bangkok - 2003 Đường dây "gái gọi" - 2003 Sòng bài đặt cược - 2003 Sát thủ số 1 của công ty cổ phần giết mướn - 2003 ... *** ...Vào khoảng chín giờ ba mươi, Mel Corlet bước vào ngôi nhà nghỉ cuối tuần của anh nằm giữa một cánh rừng bên dòng sông Potomac. Anh thấy đầu váng rất đau, nhưng nhìn chung thì anh còn tương đối tỉnh táo. Món cà phê của Marny Davenport đi kèm với bánh mỳ nướng, đùi lợn xông khói, trứng ốp-la và rất nhiều nước cam ép thật sự đã có một hiệu ứng thần kỳ. Mặc dầu vậy, lẽ ra anh không được phép lái xe sau một đêm dài tới thế. Nhưng rồi người đàn ông tự an ủi mình rằng thật ra anh chỉ đi qua những đoạn đường dành riêng cho xe lâm nghiệp và xe của những người sống quanh đây. Trong số những người sống quanh dây thì anh đang là người duy nhất có mặt trong cả một khu đất rộng. Ngôi nhà gỗ nằm cô đơn, hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng được sống những ngày nghỉ hiếm hoi trong cảnh tĩnh mịch tuyệt đối, hoàn toàn không bị ai khuấy đảo, đủ tĩnh mịch cho anh quên được cuộc sống lao động vất vả hàng ngày. Vừa bước chân vào cái buồng tắm đứng nhỏ xíu và đóng cửa lại, Corlet vừa nghĩ rằng nếu được chia sẽ sự cô đơn này với một người phụ nữ dễ thương thì có lẽ cuộc sống sẽ trở nên rất dễ chịu. Anh đang nhớ đến một người cụ thể: tóc vàng, mắt xanh, có duyên, một thân hình lý tưởng và một bộ não chững chạc. Nhưng Liza là chiêu đãi viên hàng không và rất yêu nghề. Mà lịch bay của cô và lịch làm việc của anh lại khác biệt tới mức hiếm hoi lắm họ mới gặp được nhau. Mel Corlet đưa chiếc lược ướt chải qua mái tóc thẫm mầu gợn sóng, quan sát chút ánh bạc thấp thoáng hai bên thái dương và ở hai đường chân mày. Nếu không cẩn thận, rồi anh sẽ thành một gã trai ế vợ già nua. Bốn mươi tuổi! Thật ra thì đã quá tuổi cưới vợ một chút rồi. Nhưng từ xưa đến nay anh luôn ngại ngùng cái việc xem xét ngó nghiêng trong hàng ngũ con gái của những gia đình cầu tiến. Anh không thích dạng phụ nữ chỉ biết chăm con và coi con đường danh vọng của chồng là nhiệm vụ của đời mình. Ngược lại, Liza là một cô gái khiến cho anh thích thú. Nhưng đối với một người đàn ông mang trọng trách thì mối quan hệ với một cô gái độc lập và cũng rất thành công trong nghề nghiệp thật sự là một chuyện đầy khó khăn. ... Mời các bạn đón đọc Hêrôin Trong Nhà Trắng của tác giả Jerry Cotton.
Đứa Trẻ Hư - Tử Kim Trần
Sách Nói Đứa Trẻ Hư Chu Triều Dương, cậu học sinh có thành tích học tập xuất sắc nhất toàn trường cấp 2. Phổ Phổ và Đinh Hạo bỏ trốn khỏi cô nhi viện và đến tìm cậu để ở nhờ. Ba đửa trẻ tình cờ quay được đoạn video Trương Đống Thăng giết bố mẹ vợ anh ta và tiến hành tống tiền. Chu Triều Dương vô tình ngộ sát đứa em gái cùng cha khác mẹ, lúc đó chỉ có Phổ Phổ và Đinh Hạo chứng kiến. Bà mẹ kế nghi ngờ cậu chính là hung thủ nên dã tìm mọi cách trả thù cậu. Cảnh sát hoàn toàn không nghi ngờ gì Chu Triều Dương nhưng vẫn luôn tìm kiếm tung tích của kẻ giết chết Chu Tinh Tinh và đã dần điều tra được một số manh mối. Liệu Chu Triều Dương sẽ xử trí ra sao? Mối quan hệ giữa ba đứa trẻ và Trương Đống Thăng sẽ diễn biến như thế nào? Liệu Trương Đống Thăng có thể thực hiện được kế hoạch của anh ta một cách thuận lợi? Số phận của ba đứa trẻ sẽ ra sao? Và sau cùng, mọi hành vi của Chu Triều Dương có bị phát giác hay không? Cậu sẽ có một cuộc sống hoàn toàn mới hay phải chịu sụ trừng phạt của pháp luật? *** Đứa trẻ hư đã đề cập đến một vấn nạn nhức nhối cần được quan tâm – tội phạm vị thành niên. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, Tử Kim Trần đã phác họa lên bức tranh những thiếu niên nổi loạn chân thực và sống động, khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi. Chúng là những đứa trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, tâm hồn chứa đựng những tổn thương tâm lý nặng nề. Đó là một Triều Dương ngoan ngoãn, thành tích học tập xuất sắc nhưng thiếu thốn tình thương của cha; là Đinh Hạo – từ bé đã mang tiếng là con trai kẻ sát nhân; là Phổ Phổ xinh xắn nhưng mồ côi cha mẹ, là nạn nhân của việc xâm hại tình dục. Những đứa trẻ ấy không “hư” từ khi mới sinh ra. Mọi hành động của chúng đều nhằm mục đích bảo vệ chính bản thân mình. Tất cả chúng vừa đáng thương lại vừa đáng trách. Thông qua Đứa trẻ hư, tác giả Tử Kim Trần đã gióng lên một hồi chuông cảnh tình đối với toàn xã hội, nhắc nhở mỗi người lớn về trách nhiệm của mình. Hành động của mỗi đứa trẻ phần nào phản ánh nhân cách của bố mẹ chúng.  *** Năm thứ tư sau khi kết hôn, Từ Tịnh ngoại tình, đề nghị ly hôn với Trương Đông Thăng. Trương Đông Thăng vốn là người đàn ông ở rể, trước khi cưới đã làm giấy chứng minh tài sản, nếu ly hôn, gần như là ra đi tay trắng. Sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng, anh ta quyết định làm vài việc để thay đổi kết cục này. Sau khi lên kế hoạch gần một năm, anh ta giả vờ đưa bố mẹ vợ đi du lịch, đi lên ngắm cảnh núi ở vùng ngoại ô thành phố, rồi đột ngột đẩy ngã hai người từ trên núi xuống mất mạng. Đây vốn là kế hoạch phạm tội hoàn mỹ mà anh ta đã dày công dàn dựng, nào ngờ, màn biểu diễn này lại bị ba học sinh đang nô đùa ở gần đó vô tình dùng máy ảnh quay lại, anh ta càng không thể nào biết được rằng, ba đứa trẻ này không hề lương thiện chút nào. ... Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Hư của tác giả Tử Kim Trần.