Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gien Atlantis

Khát khao thoát khỏi bóng ma quá khứ vẫn từ lâu ám ảnh, bác sĩ Kate Warner quyết tâm rời California để đến Jakarta, dồn hết tâm huyết nghiên cứu gene Atlantis – một mã gene bí ẩn nắm giữ chìa khóa lý giải sự tiến hóa của loài người, hy vọng tìm ra liệu pháp mới chữa trị cho trẻ em mắc chứng tự kỷ. Nhưng liệu pháp đó, hóa ra, lại nguy hiểm và quyền năng hơn gấp bội so với những gì cô có thể tưởng tượng. Một cánh cửa dẫn đến bước tiến hóa tiếp theo của loài người và viết lại lịch sử của giống loài có thể mở ra, nhưng đồng thời, nếu lọt vào tay Hội Immari - tổ chức cổ xưa đã 2000 năm lịch sử – đó cũng chính là sự kết thúc cho nhân loại...  Cùng David Vale, đặc vụ của tổ chức tình báo Tháp Đồng Hồ, Kate phải chạy đua với thời gian, giải đáp vô số bí ẩn về nguồn gốc loài người, xâm nhập vào những ngóc ngách khuất nẻo nhất của thế giới, đào bới đến tận cùng những quá khứ đã từ lâu bị chôn vùi…  70000 năm trước, loài người đã sống sót qua nguy cơ tuyệt chủng. Nhưng giờ đây, nhân loại liệu có còn cơ hội? *** Katherine Warner là bác sĩ đứng đầu Trung tâm nghiên cứu và điều trị cho trẻ em tự kỷ tại Jakarta (Indonesia). Ngày nọ, khi kết quả thí nghiệm cho thấy cô đã đạt được bước đột phá trong công việc của mình thì Trung tâm nghiên cứu bị tấn công, hai đứa trẻ bị bắt cóc, bản thân cô không những không được bảo vệ mà còn bị cảnh sát xem như nghi phạm. David Vale là trưởng đơn vị Jakarta thuộc tổ chức Tháp Đồng Hồ - một tổ chức chống khủng bố phi chính phủ hoạt động hiệu quả nhất trên toàn thế giới. David và nhóm người ít ỏi của anh đã phát hiện một âm mưu khủng bố toàn cầu, đe dọa sẽ tiêu diệt hàng triệu nhân mạng. Kate Warner và David Vale có liên quan gì đến nhau và họ có thể làm gì để cứu chính mình đồng thời vãn hồi cục diện tăm tối này của loài người? Sách khổ lớn và dày 590 trang, bìa vô cùng đẹp, lẽ ra phải là một ấn phẩm đem lại 130% mãn nguyện nhưng vì cách viết chưa được hấp dẫn lắm nên thú thật là Biển có chút thất vọng. Phần mở đầu và vài chục chương đầu khiến Biển nghĩ đến sự kết hợp giữa tiểu thuyết Dan Brown, tiểu thuyết Harry Dolan và bộ phim G.I.Joe. Thay vì những đoạn viết về biểu tượng và tôn giáo như trong sách của Dan Brown thì “Gene Atlantis” chứa đựng rất nhiều kiến thức hàn lâm về di truyền học và tiến hóa. Có lẽ vì không hiểu rõ những đoạn đó, thêm nữa là chúng thường được chèn vào giữa các cuộc đối thoại rất dài khiến Biển không đọc nổi, đành phải lướt. Dù có bị chê cười thì Biển cũng phải nói rằng tuy rất nghiêm túc tập trung nhưng đọc hơn nửa quyển sách mà Biển vẫn chưa hiểu rõ nó đang nói về vấn đề gì :( “Loài người là kẻ sát nhân hàng loạt kinh khủng nhất mọi thời đại. Con thử nghĩ mà xem: chúng ta được lập trình để tồn tại. Ngay cả tổ tiên xưa kia của chúng ta cũng bị thôi thúc bởi bản năng này, đủ để nhận ra rằng người Neanderthal và người Hobbit là những kẻ thù nguy hiểm. Có thể họ đã giết hàng chục loài khác trong họ Homo. Và cái di sản đáng hổ thẹn đó đã tồn tại đến tận ngày nay. Chúng ta tấn công bất kỳ thứ gì khác biệt, bất kỳ thứ gì chúng ta không hiểu, bất kỳ thứ gì có thể thay đổi thế giới, môi trường của chúng ta, giảm bớt cơ hội sống sót của chúng ta. Phân biệt chủng tộc, chiến tranh giai cấp, phân biệt giới tính, Đông đấu với Tây, Bắc đấu với Nam, tư bản và cộng sản, dân chủ và độc tài, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo, Israel và Palestine, tất cả đều là những mặt khác nhau của cùng một cuộc chiến: cuộc chiến vì một loài người đồng nhất, kết thúc mọi khác biệt giữa chúng ta. Đó là cuộc chiến chúng ta đã bắt đầu cách đây rất lâu và đã chiến đấu từ đó đến giờ”. Yếu tố trinh thám – hành động trong truyện cũng đủ ly kỳ hồi hộp nhưng còn nhiều điểm vô lý. Đây là một câu chuyện khoa học giả tưởng nên độc giả phải sẵn sàng chấp nhận những sự kiện khác biệt và vượt xa lẽ thông thường. Tuy nhiên, xét về chất giả tưởng thì cá nhân Biển cho rằng “Gene Atlantis” không cuốn hút bằng “Cuộc thám hiểm vào lòng đất”của Jules Verne hoặc “Trạm tín hiệu số 23” của Hugh Howey. ____  Diễn tiến truyện được đan xen giữa hiện tại và quá khứ, đôi lúc đoạn quá khứ được viết khá dài, lại xen lẫn thêm “quá khứ của quá khứ” khiến câu chuyện hơi bị loãng. Tính cách nhân vật được miêu tả vừa giống người bình thường vừa có tính chất “anh hùng”: nam chính can đảm + hài hước trong cả những tình huống oái ăm nguy hiểm nhất; nữ chính tuy cũng giỏi giang nhanh nhẹn nhưng vẫn là một nữ bác sĩ yếu đuối không được đào tạo gì về kỹ năng chiến đấu. Khi đọc hết chương 25, Biển có một phút mặc niệm cho tất cả những người dũng cảm đã hy sinh để bảo vệ hòa bình thế giới. Nghe thì có vẻ mông lung xa vời nhưng ai đọc cuốn này sẽ hiểu Biển muốn nói gì. Ở đầu truyện khắc họa một hình ảnh người thi hành công vụ ở Jakarta rất tồi tệ và quan liêu, không biết liệu cuốn này có được bán ở Indonesia không.. Cuối sách có phần nhắn gửi của tác giả, đọc xong thấy thông cảm và muốn viết review ca ngợi thêm một chút nhưng Biển chỉ có thể viết những gì mình nghĩ chứ không thể tự dối lòng. So với bộ sách Dị Chủng – Tàn Thế thì Biển thấy “Gene Atlantis” không lôi cuốn bằng và chắc sẽ không mua những quyển tiếp theo của bộ này. (Sea, 24-10-2018) - Thiên Nhai Hải Giác *** Tôi không hề bất ngờ khi biết thông tin tiểu thuyết “Gene Atlantis” của tác giả A.G.Riddle đang được chuyển thể thành phim, bởi tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố để làm nên một bom tấn điện ảnh phiêu lưu, hành động, kịch tính, hấp dẫn. Tôi tò mò tìm đọc “Gene Atlantis” bởi “Atlantis” là từ khóa tôi tìm ra khi giải một câu đố. Câu đố thế này: Thuyết Âm – Dương là thuyết bao trùm vạn vật, biểu thị sự vận động của sinh vật, tự nhiên, vũ trụ. Biến thể của thuyết Âm – Dương là thuyết Ngũ Hành. Thuyết Ngũ Hành quan niệm vũ trụ được hợp thành bởi 5 nguyên tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tương ứng với 5 màu sắc cơ bản là Trắng, Xanh, Đen, Đỏ, Vàng. Trên thế giới có người da Trắng (ở Châu Âu), người da Đen (ở Châu Phi), người da Đỏ (ở Châu Mỹ), người da Vàng (ở Châu Á). Vậy người “da Xanh” ở đâu? Bằng phương pháp vạch vẽ trên bản đồ thế giới, tìm đọc tài liệu, chắp nối các sự kiện từ thời trước Hồng Thủy, tôi mạo muội đưa ra một “thuyết Âm Mưu” rằng: người “da Xanh” chính là người Atlantis, di sản của họ hiện được bảo vệ ở vùng lạnh giá Tây Tạng. Vừa hay tiểu thuyết của A.G.Riddle viết về Gene Atlantis bí ẩn, tác nhân dẫn đến Bước đại nhảy vọt về di truyền của nhân loại, khiến nhân loại tách hẳn ra khỏi phần còn lại của tự nhiên, thống trị thế giới, cũng có hẳn một phần về Tây Tạng, “tư tưởng gặp nhau” khiến tôi không thể bỏ qua tác phẩm này. Gene Atlantis là phần 1 trong trilogy Atlantis của nhà văn A.G.Riddle. Tác phẩm giả tưởng có nội dung xoay quanh tổ chức Immari bí ẩn, bị ám ảnh bởi tư tưởng “thanh lọc thế giới”, tạo ra một chủng tộc mới bằng cách gây ra một thảm họa quy mô toàn cầu, kích hoạt Gene Atlantis, tạo ra Bước đại nhảy vọt thứ 2 về di truyền. Với một nội dung tầm cỡ như vậy, độc giả đòi hỏi tác phẩm phải có kẻ phản diện xứng tầm, A.G.Riddle đã làm được điều đó (tôi để ngỏ cho bạn đọc tự khám phá). Bố cục của Gene Atlantis liên tục chuyển đổi qua lại giữa các nhân vật và các vùng địa lý khác nhau, giúp nhịp độ và kịch tính của câu chuyện luôn được đẩy lên cao, lôi cuốn đọc giả. Bố cục đặc biệt này cũng gây ra một cảm giác rằng: có một thứ gì đó đang chuyển động và nó đang dẫn động một thứ gì đó lớn hơn rất rất rất nhiều đang từ từ chuyển động theo. Gene Atlantis hấp dẫn, kịch tính và... dễ dọc, nhân vật chính lôi cuốn, thông minh, xử lý tình huống gọn gàng, hợp lý. Phe phản diện hấp dẫn, lối xây dựng kiểu “chính tà khó phân” khiến nội dung rất có chiều sâu. Mời các bạn đón đọc Gene Atlantis của tác giả A. G. Riddle.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kamanita: Kẻ Hành Hương - Gjellerup Karl
Câu chuyện về mối tình ngang trái giữa chàng thương nhân Kamanita tài hoa và nàng Vasitthi xinh đẹp diễn ra trên đất Ấn thời Đức Phật còn tại thế. 45 phần truyện là dòng chảy cuộc đời từ hiện tại đến quá khứ, từ quá khứ đến khởi thuỷ kiếp luân hồi của nhân vật; là sự đan xen chuyện kể đời thường với những câu chuyện ngụ ngôn, những ẩn dụ triết học trong đối thoại hay thuyết pháp của Đức Phật. Dòng chảy này tạo nên một ranh giới mơ hồ giữa truyền thuyết và sáng tạo tiểu thuyết; giữa câu chuyện Đức Phật kể về những người đã được Ngài giác ngộ và câu chuyện những người được giác ngộ kể về Ngài. Cái vẻ hư thực đó của tác phẩm trở thành điểm tựa để người đọc tìm thấy niềm tin, rằng triết lý đạo Phật có thể tìm thấy trong những sự kiện của đời người, rằng mỗi người sẽ là tia sáng dẫn đường của chính mình, là chỗ dựa của chính mình và rằng cái để suy ngẫm là những gì vĩnh cửu chứ không phải là cái chỉ tồn tại một mai. Do đó, dẫu là truyền thuyết hay tiểu thuyết, tác phẩm vẫn có sức ám ảnh lớn, ghi tạc vào tâm thức con người, rằng: Con đường giải thoát mở ra cho tất cả mọi người, cả những người không theo Đạo. Những người không theo Đạo - trong số đó có chúng ta. Vậy nên nếu đọc Kamanita, kẻ hành hương, hãy trầm tư lắng nghe câu chuyện này, biết đâu sẽ giác ngộ được một chân lý nào đó cho chính mình. *** Karl Adolph Gjellerup là nhà văn, nhà thơ Đan Mạch được trao giải Nobel Văn học năm 1917 cùng với Henrik Pontoppidan, cũng là nhà văn Đan Mạch. Karl Gjellerup xuất thân trong một gia đình mục sư. Ba tuổi cha mất, ông đến Copenhagen ở với bác họ đằng mẹ. Gjellerup sáng tác từ rất sớm, vừa tốt nghiệp trung học ông đã viết hai vở kịch Spicio Africanus và Arminius nhưng đều không được in. Năm 1874, ông vào học Đại học Copenhagen, khoa Thần học, nhưng về sau lại trở thành người vô thần: điều này thể hiện qua các tác phẩm như Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878, ký bút danh Epigon), Antigonos (1880) v.v. Tác phẩm: Spicio Africanus (1875), kịch Arminius (1875-1876), kịch Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878), tiểu thuyết Antigonos (1880), tiểu thuyết Arvelighed og moral (Truyền thống đạo lý, 1881) Rödtjörn (Cây sơn tra, 1881), tập thơ Germanernes laerling (Cậu học trò của những người Đức, 1882), tiểu thuyết G-dur (Gam sol trưởng, 1883), truyện Romulus (1883), tiểu thuyết En klassisk maaned (Tháng cổ điển, 1884) Brynhild (1884), bi kịch Saint Just (Thánh Just, 1885), kịch Thamyris (1887), kịch thơ Hagbard og Signe (Hagbard và Signe, 1889), bi kịch văn xuôi và thơ Min kaerligheds bog (Cuốn sách tình yêu của tôi, 1889), tập thơ Minna (1889), tiểu thuyết Herman Vandel (1891), kịch Kong Hjarne (Vua Hjarne, 1892), kịch Wuthhorn (1893), kịch Hans Excellence (Đức Ngài, 1893), kịch Pastor Mors (Mục sư Mors, 1894), tiểu thuyết Möllen (Chiếc cối xay, 1896), tiểu thuyết Ved graensen (Tại vùng biên giới, 1897), tiểu thuyết Tankelaeserinden (Nhà tiên tri, 1901), tiểu thuyết Die opferfeuer (Ngọn lửa hiến tế, 1903), kịch Pilgrimen Kamanita (Kamanita, người hành hương, 1906), tiểu thuyết Die weltwanderer (Những kẻ hành hương vĩnh cửu, 1910), tiểu thuyết Reif für das leben (Đến tuổi trưởng thành, 1913), tiểu thuyết Guds venner (Những người bạn của Chúa trời, 1916), tiểu thuyết Der goldene zweig (Cành vàng, 1917), tiểu thuyết Mời các bạn đón đọc Kamanita: Kẻ Hành Hương của tác giả Gjellerup Karl.
Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác - Mạc Ngôn
La Tiểu Thông là một cậu bé luôn miệng nói dối, một đứa trẻ ba hoa nói khoác, một đứa trẻ đạt được thỏa mãn trong khi nói chuyện. Trong dòng chữ lưu hỗn loạn ấy, câu chuyện vừa là thể chuyển tải của ngôn ngữ, vừa là sản phẩm phụ của ngôn ngữ... Câu chuyện mà cậu ta kể khi mới bắt đầu còn có một chút "chân thực", nhưng càng về sau càng là một sáng tác vừa thực vừa hư... Khi La Tiểu Thông kể chuyện về chính mình, nếu xét về tuổi tác thì cậu ta không như một đứa trẻ, nhưng thực ra lại là một đứa trẻ. Cậu ta là thủ lĩnh của những nhi đồng trong nhiều truyện "Góc nhìn nhi đồng" của tôi... Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách "Chuyện Của Cậu Bé Hay Nói Khoác" để hiểu rõ hơn về nhân vật này. *** Buổi sáng sớm cách đây mười năm trước. À, mà khi ấy là năm nào ấy nhỉ? Khi ấy cậu bao nhiêu tuổi? Lan Đại hòa thượng, một người đã từng đi nhiều nơi, hành tung bí hiểm, tạm thời tá túc tại ngôi miếu bỏ hoang mở to mắt, hỏi tôi bằng một giọng âm trầm nghe như vọng về từ một nơi rất xa. Giữa ngày tháng bảy nóng như nung mà tôi bất chợt rùng mình. Đó là năm 1990, khi ấy tôi mười tuổi, thưa đại hòa thượng. Tôi lẩm bẩm trả lời hòa thượng bằng một giọng khác hẳn. Đây là ngôi miếu nhỏ có tên là thần Ngũ Thông nằm giữa hai dãy phố sầm uất, đông đúc, nghe nói tổ tiên của Lão Lan trưởng thôn của thôn tôi đã bỏ tiền ra xây ngôi miếu này. Tuy ngôi miếu nằm kề ngay bên đường nhưng hương khói quanh năm lạnh lẽo, luôn tỏa ra một mùi cũ kỹ ẩm mốc. Chỗ khe tường đổ do người ta trèo vào đã thành lối đi, một người phụ nữ mặc chiếc áo màu xanh, xung quanh viền hoa màu đỏ đang gần như phủ phục ở đó. Tôi chỉ nhìn thấy khuôn mặt to, đầy, trắng như phấn và một cánh tay trần trắng muốt đang chống cằm của người ấy. Chiếc nhẫn trên ngón tay của bà ta ánh lên dưới ánh nắng mặt trời. Người phụ nữ này khiến tôi nhớ đến ngôi nhà ngói lớn được cải tạo thành trường học của nhà đại địa chủ Lan trong thôn tôi trước thời kỳ giải phóng. Trong nhiều truyền thuyết và nhiều sự tưởng tượng bắt nguồn từ truyền thuyết, người phụ nữ như thế này thường xuyên ra vào ngôi nhà nhiều năm thiếu sự chăm sóc tu sửa và phát ra những tiếng kêu nghe rợn cả tóc gáy vào nửa đêm gà gáy. Hòa thường ngồi ngay ngắn trên chiếc bồ đoàn cũ kỹ trước bức tượng thần Ngũ Thông bị người đời lãng quên từ lâu, vẻ mặt bình thản, như một con ngựa đang chìm trong giấc mộng. Tay của hòa thượng lần theo tràng hạt màu tím đỏ, trên mình hòa thượng là bộ quần áo dường như được dệt bằng giấy bị nước mưa thấm ướt, chỉ cần chạm khẽ vào nó sẽ tan thành mảnh vụn. Đôi tai của hòa thượng bu đầy ruồi, chỉ duy cái đầu trọc lóc và khuôn mặt trơn nhẫy là không có con nào. Phía trước sân là một cây ngân hạnh sum suê, trên cây ríu rít tiếng chim, trong tiếng chim hình như còn xen lẫn cả tiếng của một đôi mèo. Đôi mèo này ngủ trong hốc cây và rình bắt những chú chim trên cành. Tiếp theo tiếng kêu vui sướng của con mèo là tiếng kêu thảm thiết của con chim bị bắt và tiếng kêu kinh hoàng hoảng hốt của bầy chim. Tôi ngửi thấy mùi máu tanh, không, chính xác hơn là tôi nghĩ tới mùi máu tanh, nghĩ tới cảnh tượng kinh hoàng sặc mùi máu. Lúc này con mèo đực đang dùng đôi móng giữ chặt con mồi đầy máu, quay sang phía con mèo cái như muốn khoe chiến công. Con mèo cái bị mất chiếc đuôi trông rất giống một con thỏ. *** Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật tỉnh Sơn Đông. Là tác giả tạo nên cơn sốt văn học Trung Quốc tại Việt Nam thông qua một loạt các tiểu thuyết được chuyển ngữ và xuất bản từ thập kỷ trước như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận… Mạc Ngôn đã để lại dấn ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi tài năng văn chương không thể phủ nhận. Giải thưởng Nobel Văn học năm 2012 một lần nữa khẳng định địa vị quan trọng của Mạc Ngôn trong nền văn học thế kỷ 20 của Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Tác phẩm chính Báu vật của đời, nguyên tác: Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀), (1995) Cao lương đỏ, nguyên tác: Hồng cao lương gia tộc (红高粱家族), (1998) Đàn hương hình (檀香刑). Cây tỏi nổi giận (Bài ca củ tỏi Thiên Đường) Củ cải đỏ trong suốt. Rừng xanh lá đỏ (Rừng vẹt) Tửu quốc (Rượu chảy như suối) Châu chấu đỏ. Tổ tiên có màng chân Con Đường Nước Mắt Hoan Lạc Bạch Miên Hoa Trâu Thiến Sống Đọa Thác Đày Người Tỉnh Nói Chuyện Mộng Du Khác Ma chiến hữu, nguyên tác: Chiến hữu trùng phùng (战友重逢), (2004), một tác phẩm đề cập đến lính Trung Quốc hy sinh trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979. Giải thưởng Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc, tháng 12/1995 cho truyện "Báu vật của đời". Giải Mao Thuẫn cho tác phẩm Đàn hương hình Giải Nobel Văn học năm 2012.   Mời các bạn đón đọc Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác của tác giả Mạc Ngôn.
Con Lừa Và Tôi - Juan Ramón Jiménez
Đây là một chuỗi chuyện ngắn nối tiếp nhau, đầy cảnh sắc và tình tiết của một ngôi làng Tây Ban Nha rất gần gũi với một ngôi làng Việt Nam: con chim én, giếng nước, rặng bìm bịp…..Người với vật gắn bó với nhau như đôi bạn, quen mặt từng gã Bô-hê-miên, thằng mọi, đứa bé nghèo khó hay tật nguyền, nhớ từng gốc cây bạc hà, cùng mơ những giấc mơ hẩm hiu giống nhau, đem lòng yêu những vẻ đẹp phù du nhất….cho đến ngay cuối cùng bỗng hóa thành thê lương. Truyện kết thúc ở cảnh thi sĩ ra đồng đứng bên ngôi mộ của lừa. *** Juan Ramon Jiménez (24 tháng 12 năm 1881 – 29 tháng 5 năm 1958) là nhà thơ Tây Ban Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1956. Juan Ramón Jiménez sinh ở Moguer, gần Huelva, học xong cao đẳng Jimenez vào Đại học Seville nhưng bỏ để đi làm báo. Năm 1900, xuất bản tập thơ đầu tiên Almas de violeta (Hồn hoa tím) và tiếp theo đó gần như mỗi năm một tập thơ ra đời. Sáng tác thời kỳ đầu của ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Đức và chủ nghĩa tượng trưng Pháp, giàu cảm xúc trữ tình với những hình tượng thiên nhiên đầy màu sắc. Juan Ramon Jiménez mất tại Puerto Rico năm 1958, hưởng thọ 76 tuổi. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Tác phẩm: Almas de violeta (Hồn hoa tím, 1900), thơ Ninfeas (Những bông huệ nước, 1900), thơ Rimas (Vần điệu, 1902), thơ Arias tristes (Những khúc ca buồn, 1903), thơ Jardines lejianos (Những khu vườn xa, 1904), thơ Pastorales (Những bài thơ đồng quê, 1905), thơ Elejias puras (Những khúc bi ca, 1908), thơ Baladas de primavera (Những khúc ca xuân, 1910), thơ La soledad sonora (Sự cô đơn âm vang, 1911), thơ Poemas májicos y dolietes (Những bài thơ huyền ảo đau buồn, 1911), thơ Laberinto (Mê cung, 1913), thơ Estio (Mùa hè, 1915), thơ Sonetos espirituales (Những bài sonet trí tuệ, 1917), thơ Diario de un poeta recién casado (Nhật ký nhà thơ mới cưới vợ, 1917), thơ Eternidades (Vĩnh cửu, 1918), tập thơ Piedra y cielo (Đá và bầu trời, 1919), thơ Piedra (Thơ ca, 1923), thơ Belleza (Vẻ đẹp, 1923), thơ Animal de fondo (Con thú từ độ sâu tâm hồn, 1949), thơ *** Tôi đã bảo La Rô:  - Mình đợi đoàn xe ngựa. Xe đưa tiếng rì rào của rừng ở xa của Công nương, đưa đến cái huyền bí của rừng thông Thần Linh, cái mát mẻ từ các đầm lầy Chư Mẫu và Tần Bì Song Thụ, mùi vị vùng Rocina…  Tôi đã đem con lừa, đẹp và lộng lẫy, cho nó ve vản lớt phớt đám thiếu nữ đường Máy Nước, nơi đây mặt trời lay lắt buổi chiều đến tàn tạ, thành một giải hồng mờ ẩn, trên cái chái hiên thấp có quét vôi. Kế đó chúng tôi chọn bờ đường cạnh Đồng Lò mà đứng, từ đây ta thấy rõ trọn con đường Đồng Bằng.  Chưa chi, những chiếc xe ngựa đầu tiên đã ló dạng, leo dốc. Mưa phùn dịu nhẹ, thường xảy ra vào những ngày lễ Thánh mẫu Rocio, rơi từ những đám mây hoa cà, và nhanh chóng tan xuống các thửa nho xanh. Nhưng thiên hạ chẳng buồn ngước mắt nhìn mưa.  Dẫn đầu, cưỡi trên lưng lừa, la, ngựa, được kết giải theo lối phương Đông và bờm thì bện tết, là những cặp nam nữ đính ước hân hoan: trai, thật tươi; gái, cân quắc. Cả một đoàn người rậm đám nhặm lẹ, qua qua lại lại, không ngớt đuổi bắt, liền lưng thành một lễ hội xa mã vĩ đại.  Theo sau, trờ tới chiếc xe Lưu Linh huyên náo, cục mịch ngả nghiêng. Kế đó ta thấy xuất hiện, giống như một dãy giường ngủ, một đoàn xe trải vải trắng, chở những thiếu nữ tóc đen, chắc nịch, đương độ, ngồi dưới lọng, vừa vỗ vào mặt trống có chuông lủng lẳng, vừa lớn tiếng ca hát.  Vẫn còn ngựa, vẫn còn lừa….  Viên phụ thủ giáo đường, đầu hói, xương xẩu, đỏ gấc, mũ rộng vành hất ngược sau lưng. Và cây trượng vàng, ở thế nghỉ, chống tựa vào bàn đạp ngựa, y dõng dạc:  - Vạn tuế Đức Bà Rociooo! Vạn tuế!  ... Mời các bạn đón đọc Con Lừa Và Tôi của tác giả Juan Ramón Jiménez.
Con đường xứ Flandres - Claude Simon
Con đường xứ Flandres, xuất bản năm 1960, được Claude Simon viết dựa trên những trải nghiệm của chính ông trong những năm chiến tranh Thế giới thứ II.   Tác phẩm là những hồi tưởng của nhân vật chính – Georges – về trận đánh vào năm 1940 mà trung đoàn kỵ binh của anh đã thất bại và về quãng thời gian anh ở trong trại tập trung của quân Đức.    Sĩ quan chỉ huy của Goerges – de Reixach – được giải đi bởi một người làm công cho anh ngày trước, người có lẽ đã từng có quan hệ tình cảm với Corinne, vợ của Reixach. Georges chứng kiến cảnh de Reixach bị một xạ thủ bắn chết. Anh nghi ngờ rằng de Reixach cố tình phơi mình ra trước họng súng để chịu chết và anh bị ám ảnh bởi sự bí ẩn của việc tự sát này: liệu rằng đó là do de Reixach cảm thấy xấu hổ vị thất trận hay vì biết được vợ mình ngoại tình? Trong hình dung của Georges, Corinne là một phụ nữ vô cùng khêu gợi. Sau khi chiến tranh kết thúc, anh ngủ với cô cốt để tìm lời giải đáp cho điều bí ẩn về cái chết của de Reixach và cả để đồng cảm với Reixach nhưng không đạt được kết quả.    Ẩn chứa đằng sau việc lên án chiến tranh, cuốn tiểu thuyết còn khai thác những tính cách của con người, nhưng dục vọng và những hiểu biết hạn chế của chúng ta về các sự việc xảy ra. Với tựa gốc “Description fragmentaire d'un désastre” (tạm dịch là: Những mô tả rời rạc về thảm họa), cuốn tiểu thuyết không sử dụng lối kể truyện thông thường, kể theo trình tự mà lại thuật lại mọi sự kiện theo lối “xây dựng cảm nhận dựa trên trí nhớ” (lời của Simon), quyện chặt với một chuỗi các sự kiện tạo nên những móc xích xung quanh thời khắc xảy ra cái chết của de Reixach, và lời kể khi thì ở ngôi thứ nhất, khi thì ở ngôi thứ ba số ít. Chưa hết, các sự kiện, sự việc trong cuốn tiểu thuyết được diễn tả bằng cả những lời độc bạch của nhân vật chính lẫn những lời khai của một người bạn tù – Blum và của Corinne. *** Claude Eugène-Henri Simon (10 tháng 10 năm 1913 – 6 tháng 7 năm 2005) là nhà văn Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1985.   Claude Simon sinh ở Antananarivo, Madagascar, là con trai của một sĩ quan đã hy sinh khi Thế chiến thứ nhất mới bắt đầu. Cùng với mẹ và ông bà ngoại, Simon về Perpignan (Pháp) và bắt đầu đi học. Simon tốt nghiệp trường trung học Stanislas ở Paris, sau học ở Đại học Oxford và Đại học Cambridge (Anh). Ông mơ trở thành họa sĩ nhưng phải từ bỏ ý định này sau một thời gian theo học hội họa và quay sang viết văn.   Năm 1936, Claude Simon sang Barcelona tham gia đội quân tình nguyện quốc tế chiến đấu chống lại tướng Francisco Franco. Trong Thế chiến thứ hai, ông chiến đấu trên nhiều mặt trận và bị quân Đức bắt làm tù binh năm 1940. Sau khi trốn thoát khỏi trại tù binh, Simon trở về tham gia phong trào Kháng chiến ở thị trấn Perpignan.   Thành công đầu tiên trong văn học của Claude Simon đến vào năm 1945 sau khi xuất bản tiểu thuyết Le tricheur (Kẻ lừa đảo). Tác phẩm thời kì này viết theo lối trần thuật truyền thống, chịu ảnh hưởng của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, William Faulkner, Marcel Proust và triết học chủ nghĩa hiện sinh.   Từ giữa thập niên 1950 trở đi Claude Simon bắt đầu tìm tòi, đặt khởi đầu cho trào lưu Tiểu thuyết mới với đặc trưng là cốt truyện “hiện thực” trở thành thứ yếu, còn trung tâm chuyện kể là những miêu tả và các hình tượng không kết gắn với nhau về mặt thời gian, tất cả các cảm xúc đồng hiện trên một bình diện như trên một bức tranh. Năm 1960 Simon kí tên vào “Tuyên ngôn 121” của các trí thức Pháp ủng hộ phong trào đòi độc lập cho Algérie. Tiểu thuyết La route de Flandres (Những con đường xứ Flandres) cũng được xuất bản vào năm này đã mang lại cho ông giải thưởng của tạp chí Express năm 1961. Có thể nhận thấy trong tác phẩm này sự đứt đoạn giữa các sự kiện và ngôn ngữ mô tả chúng - một kĩ thuật mới trong phong cách tiểu thuyết - thể hiện kiếp người vô nghĩa, những đoạn đời không lối thoát, hoặc chỉ dẫn đến cái chết mà thôi. Tiểu thuyết Histoire (Lịch sử, 1967) được trao giải thưởng Meditri. Năm 1973 ông được phong học vị danh dự của Đại học Miền Đông nước Anh.   Từ thập niên 1980, Claude Simon trở về quê Perpignan, vừa viết văn vừa trồng nho. Với tiểu thuyết Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), Simon bắt đầu xa rời phong cách thử nghiệm trong các cuốn sách trước đây của ông. Năm 1985 Simon được trao giải Nobel vì “sự kết hợp trong sáng tác của ông các nguyên tắc của thơ và hội họa”, vì “nhận thức sâu sắc về vai trò của thời gian trong mô tả con người”.   Năm 1989, nhà văn 76 tuổi cho ra đời tiểu thuyết L'acacia (Cây keo hoang) được đánh giá cao; cùng với Les Géorgiques là hai tác phẩm tự thuật độc đáo, trong đó lịch sử và hư cấu, quá khứ và hiện tại đan quyện vào nhau trong một hình thức kể chuyện vừa hư vừa thực. Claude Simon mất ở Paris năm 2005.   Tác phẩm:   - Le tricheur (Kẻ lừa đảo, 1945), tiểu thuyết   - La corde raide (Dây căng, 1947), tiểu thuyết   - Gulliver (1952), tiểu thuyết   - Le sacre du printemp (Mùa xuân đăng quang, 1954), tiểu thuyết   - Le vent (Gió, 1957), tiểu thuyết   - L'herbe (Cỏ, 1958), tiểu thuyết   - La route de Flandres (Con đường xứ Flandres, 1960), tiểu thuyết   - Le palace (Cung điện, 1962), tiểu thuyết   - La chevelure de Bérénice (Mái tóc Berenice, 1965), truyện ngắn   - Histoire (Lịch sử, 1967), tiểu thuyết   - La bataille de Pharsale (Trận Pharsale, 1969), tiểu thuyết   - Orion aveugle (Chòm Thiên Lang mờ tối, 1970), tiểu luận   - Les corps conducters (Những thân xác dẫn đường, 1971), tiểu thuyết   - Triptyque (Bức họa tam bình, 1973), tiểu thuyết   - Leçon de chose (Bài học vạn vật, 1975)   - Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), tiểu thuyết   - L'acacia (Cây keo hoang, 1989), tiểu thuyết   - La Jardin des plantes (Vườn bách thảo, 1997), tiểu thuyết Mời các bạn đón đọc Con đường xứ Flandres của tác giả Claude Simon.