Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phong Thanh

Phong Thanh là sự biến đổi của dòng "Tiểu thuyết mật thất", cũng là một trò ảo thuật nguy hiểm, nó có một sức mạnh kể chuyện to lớn... Đây là cuốn tiểu thuyết viết về những con người bình thường nhưng đã làm được những việc phi thường, là một bi ca về một ý chí của nhân loại. Truyện lấy bối cảnh năm 1942, khi Trung Quốc chịu sự xâm lược của Nhật Bản. Sau một loạt vụ ám sát nhằm vào các quan chức của chính phủ bù nhìn do Nhật Bản dựng lên. Kawa Hihara - Trưởng cơ quan đặc vụ nghi ngờ có nội gián trong nội bộ đã ra lệnh cho Tư lệnh Trương Nhất Đỉnh của ngụy quân triệu tập 5 người bị tình nghi về biệt thự Cầu Trang để tra xét. Nhóm 5 người đó (ba nam, hai nữ) đều là bộ hạ cũ của Tiền Hổ Dực, quan quân ngụy cả trước khi Trương Nhất Đỉnh lên thay: Ngô Chí Quốc – Trưởng ban tham mưu quân sự dưới trướng Tư lệnh Trương; Kim Sinh Hỏa – Trưởng ban cơ yếu quân sự, nắm cơ mật nòng cốt của toàn quân; Lý Ninh Ngọc, nữ, Tổ trưởng tổ dịch điện Ban quân cơ; nhân vật thứ tư là Bạch Tiểu Niên – quan tháp tùng của Tư lệnh Trương Nhất Đỉnh; cuối cùng là Cố Ninh Ngọc, nữ, là nhân viên của Lý Ninh Ngọc. Những kẻ tình nghi bị canh giữ cẩn mật, được đưa đi thẩm vấn riêng biệt. Trò chơi mèo vờn chuột dần dần được đẩy đến cao trào. Những đòn tra tấn tấm lý và thể xác lần lượt được Kawa Hihara tung ra. Cuộc đấu trí để lật mặt “Lão Quỷ” ngày càng hồi hộp nghẹt thở, sự mưu trí của nhân vật nằm vùng cũng được thể hiện sâu sắc. Ngôn ngữ trong tác phẩm của Mạch Gia cao thâm khó lường, mỗi khi bạn tưởng rằng đã biết được sự thật, lại luôn cảm thấy nghi hoặc khi câu đố cuối cùng đã được giải mới cảm giác nút thắt như được mở ra. Tính cách nhân vật dưới ngòi bút của Mạch Gia vô cùng phong phú, không có những hạn chế như ở các nhân vật trong tiểu thuyết cùng loại, dường như mỗi nhân vật đều đáng để chúng ta suy nghĩ. Tác giả Mạch Gia sinh năm 1964 tại Phú Dương, Chiết Giang. Năm 1986 ông bắt đầu nghiệp sáng tác, nối tiếng với các tiểu thuyết dài kỳ như Giải mật, Lắng nghe trong gió, và Phong Thanh. *** 1 0 năm đã sắp trôi qua, cuộc sống của tôi vẫn giới hạn trong một vòng tròn nhỏ hẹp, không đến cơ quan làm việc, người thân và bạn bè đa số đều ở xa, chỉ có vài người bạn ở gần nhưng thường cũng rất ít giao du. Tôi khá thích cuộc sống cô độc này. Thực ra thì cũng không phải là thích mà là đành phải chịu. Một mình ở nhà cũng đã đủ khó chịu, nhưng ra ngoài phải chịu đựng những thói thường của người khác, hay để người khác nhường nhịn mình thì càng thấy khó chịu hơn. Tôi không uống rượu, sợ cãi cọ, cũng không bài bạc, đúng hơn là không biết, mà hễ ngồi xuống là chỉ thích đàm đạo chuyện văn chương, muốn tìm một người cùng sở thích như vậy có lẽ còn khó hơn tìm đồng chí. Đồng chí còn có thể gặp ở câu lạc bộ hay những nơi hoạt động cố định nào đó, ở Thành Đô, nghe nói chỗ bảng đọc báo ở trước cổng Tòa soạn Nhật báo Tứ Xuyên là nơi hoạt động của cánh đồng chí, cũng chỉ là có chút ước định mà thành. Cảm giác như salon kiểu Anh trước đây. Thành Đô là một thành phố hưởng lạc, đâu đâu cũng thấy quầy rượu, phòng trà, quán ăn từ hạng bét đến hạng sang đều có cả. Lương thấp lương cao, công nhân, trí thức đều có nơi tụ tập của riêng mình. Tôi đã từng sống ở bảy thành phố, vì vậy tôi có thể khẳng định rằng cuộc sống của người Thành Đô rất xa hoa, xa hoa giống như bông hoa anh túc, có phần phung phí, có phần lạ đời. Vậy mà tôi vẫn thấy rất tẻ nhạt, cùng con trai đánh bài, bói bài (kiểu chơi do tôi tự nghĩ ra), đánh cờ vua, cờ tướng đã trở thành thú vui chính của tôi. Thời gian của tôi ư? Ngoài thời gian nghỉ ngơi bình thường và dành cho cái gọi là công việc như đọc sách hay viết lách một thứ gì đó ra thì tôi không biết làm gì nữa. Nếu như nhất định phải nói thì đành chịu, có khi còn suy nghĩ lung tung. Lắng nghe trong gió (Âm mưu đen tối) chính là do nghĩ ngợi lung tung mà thành. Thực ra tiểu thuyết của tôi đa số là như vậy, chỉ dựa vào một chút sự thật rồi tưởng tượng thêm, không có tư liệu gì, cũng không có bất kỳ trải nghiệm thực tế nào. Cứ ngỡ như vậy sẽ chẳng có ai bắt bẻ hay phạt vạ mình, cũng chẳng sợ bị lịch sử lên án. Thế nhưng kỳ lạ là mấy bộ tiểu thuyết hơi có chút ảnh hưởng của tôi mấy năm gần đây, luôn có người bắt bẻ phạt vạ, họ tìm mọi cách để liên lạc với tôi, chỉ ra vô vàn những điều phi thực tế và sai lầm trong tác phẩm của tôi. Có người còn kỳ lạ hơn, nói rằng cuốn Giải mã của tôi viết về vị cha đẻ của kỹ thuật tên lửa Trung Quốc, Tiền Học Sâm. Sự kỳ lạ theo suốt hành trình và chắc chắn sẽ còn ở phía sau. Cuốn Nốt ruồi (Hắc ký) viết về một cô gái, trên ngực cô ấy có một nốt ruồi thần bí, đầy gợi cảm. Khi chạm vào nó còn khiến cô ấy bị kích thích hơn là sờ vào đầu nhũ hoa. Đây hoàn toàn là những thứ tưởng tượng, vậy mà vẫn có người tìm đến bắt bẻ, còn tìm ra một vị bác sỹ giống thế ngoài đời, tố cáo ông ấy đã tiết lộ bí mật. Thật là có lỗi với vị bác sĩ ấy, tôi là đàn ông hay đàn bà, ông ấy còn chả biết thì làm sao có thể tiết lộ bí mật cho tôi chứ? Cuốn Lắng nghe trong gió thì càng không cần phải nói, do sự bùng nổ phim truyền hình, số người đến tìm tôi kiếm chuyện thị phi càng nhiều, đến nỗi trong một thời gian dài tôi phải trốn về quê. Bởi vì người ta tìm tôi quá nhiều, đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của tôi. Trong số những người đó có một vị tướng quân đội quyền cao chức trọng, cũng có những nhân vật kiểu A Bỉnh, Hoàng Y Y, Trần Nhị Hồ trong cơ quan 701[1] hoặc là những hậu bối của họ. Trong số họ, có người đến với tư cách cá nhân, gia đình, có người đại diện cho cơ quan, đơn vị, có người đến cảm ơn tôi, có người đến lên án tôi. Thôi thì cảm ơn cũng tốt, lên án cũng được, tôi đều tiếp cả, muốn gặp, muốn giải đáp tất cả thắc mắc. Thực ra những điều tôi nói đều giống như nhau, chẳng thế mà một dạo tôi giống như chị Tường Lâm[2], không ít lần chỉ toàn là “chuyện cũ nói lại”. [1] Các nhân vật trong cuốn Lắng nghe trong gió của cùng tác giả Mạch Gia (Chú thích trong cuốn sách là của người dịch). [2] Một nhân vật vật trong truyện ngắn Chị Tường Lâm của Lỗ Tấn. Trong số những người đến tìm tôi có một người tìm tôi với mục đích có chút mơ hồ, không hẳn là cảm ơn cũng không phải là lên án tôi. Nói theo một ý nghĩa nào đó, ông ấy không phải đến nghe tôi nói mà là đến để nói với tôi. Ông ấy đến từ Thượng Hải, họ Phan, tên Hướng Tân, là một giáo sư hóa học của một trường đại học, năm trước vừa nghỉ hưu, giờ thơ thẩn và nhàn rỗi ở nhà. Ông ấy tự đến, nhưng lưu lại trong cuộc đời tôi một dấu ấn thật đậm. Vào tuần đầu tháng Giêng năm ngoái, giáo sư Phan nhận lời mời đến giảng bài tại trường Đại học Sư phạm Tứ Xuyên, trong thời gian đó nhờ bạn bè của tôi liên lạc với tôi, và bạn tôi đã đứng ra mời chúng tôi cùng ra ngoại ô ăn một bữa cơm dã ngoại. Trong bữa ăn, giáo sư đàm luận chuyện văn chương, lời hay ý đẹp nhiều vô kể, ông đã để lại cho tôi ấn tượng sâu đậm. Thậm chí ông ấy còn tài tình và khéo léo gắn nghề viết tiểu thuyết của tôi với nghề hóa học của ông ấy, hai thứ khác nhau một trời một vực. Ông nói rằng, tiểu thuyết hay cũng chính là hóa học, là xử lý cuộc sống theo hóa học. Ngược lại, tiểu thuyết dở thì là vật lý, nghiêng về sự thật, rập khuôn cuộc sống vân vân. Đúng sai không bàn tới, nhưng cách nói mới mẻ, khiến người nghe khó quên. Trong bữa ăn, chúng tôi cũng nói về bộ phim truyền hình Lắng nghe trong gió, ông bảo rằng ông vừa xem Đài Truyền hình Thượng Hải chiếu xong, mỗi ngày ba tập, ông xem liền một mạch không bỏ tập nào, sau đó còn mua đĩa xem lại phần ba Người bắt gió, với học vấn và kiến thức của ông, một thứ mà đã xem đến hai lần thì thứ đó cơ bản đã thành của ông ấy, tình tiết lớn bé, cả chi tiết nội dung đều thông hiểu hết. Ông không đưa ra bình luận tốt xấu, chỉ hỏi tôi câu truyện đó có xuất xứ không và khẩn cầu tôi nói thật. Với người bình thường tôi không cần phải nói thật, nhưng với một người trí thức như ông ấy, tôi lo rằng nếu nói dối và lừa bịp sẽ bị ông ấy nhận ra ngay, thêm nữa lại vướng tình cảm bạn bè, tôi không tiện nói bừa, đành phải nói thật. Thẳng thắn mà nói, câu chuyện trong phần đầu Kẻ nghe gió và phần hai Kẻ xem gió của cuốn Lắng nghe trong gió không có nguyên mẫu nhất định, ví dụ như gã mù A Bỉnh trong phần một, nguyên mẫu là một thằng ngốc ở quê tôi, tên gã là Lâm Hải, 40 tuổi vẫn chưa biết gọi bố mẹ, không thể tự lo liệu cuộc sống, nhưng thị lực của gã thì đáng kinh ngạc, mang tính bẩm sinh đặc biệt, đến cả vuông tròn cách xa mấy km, tính cách và gia cảnh của hàng chục nghìn người, gã đều có thể đoán được thông qua con mắt, đọc ra vanh vách. Công việc mà tôi đã làm chẳng qua chỉ là chọc mù mắt đôi mắt kỳ diệu của gã, để cho đôi tai của gã trở nên vô cùng thần kỳ. Còn về câu chuyện trong phần ba Người bắt gió, quả thực hoàn toàn là hư cấu, nếu như nhất định phải biết về xuất xứ, thì tôi miễn cưỡng đưa ra hai phương án: Một là từ bộ phim Thảm án trên sông Nile đọng lại trong ký ức tôi, hai là trò chơi giết người một thời thịnh hành tại Bắc Kinh. Cả hai kỳ thực chỉ là một, đều là cuộc tìm kiếm hung thủ trong một môi trường khép kín, thậm chí tôi còn hoài nghi bản thân cái sau bắt nguồn từ cái trước. Nói cho cùng là năm 2001, cơ quan tôi, đài Truyền hình Thành Đô muốn làm một phim mừng dịp 80 năm thành lập Đảng, phần tôi thì đảm nhiệm viết kịch bản, tôi đã lôi kéo anh bạn thân Hà Đại Thảo cùng viết hai tập phim ngắn mang tên Bầu trời dưới lòng đất, cần phải nói cảm hứng sáng tác chính là từ bộ phim Thảm án trên sông Nile, đó chính là lịch sử cách mạng hóa cốt truyện mà thôi. Hai năm sau, tôi học tại Học viện Văn học Lỗ Tấn, trong đám sinh viên rộ lên trò chơi giết người, tôi thấy rất thú vị, nổi hứng viết lại cuốn Bầu trời dưới lòng đất. Câu chuyện Người bắt gió thực ra là như vậy. Là tôi mượn cốt truyện kinh điển, dựa vào sở trường tư duy lôgic và niềm đam mê với công việc điệp báo, mà viết nên câu chuyện này. Giáo sư Phan nghe song, trầm ngâm khá lâu. Tôi đoán im lặng như vậy không phải là ông ấy không có gì để nói mà ông ấy có điều quan trọng muốn nói. Quả nhiên, sau một hồi trầm ngâm ông bắt đầu chầm chậm nói, bởi vì qua trầm ngâm ‐ trầm ngâm suy nghĩ, lời nói của ông quả nhiên đầy triết lý và có sức thuyết phục vô cùng, ông nói với tôi như thế này: “Trên thế giới này không có hai chiếc lá giống nhau, càng không thể có hai câu chuyện giống nhau, nhưng… Nói sao nhỉ, nếu anh hứng thú, tôi không ngại kể cho anh nghe một câu chuyện, thật một trăm phần trăm, có ghi chép lại trong lịch sử. Tôi không dám khẳng định, câu chuyện tôi kể hay hơn của anh, nhưng tôi tin rằng anh nghe xong sẽ rất ngạc nhiên. Có thể nói như thế này, trước khi anh viết nên câu chuyện ấy, Thượng đế đã thảo xong rồi. Tôi từng cho rằng, anh dựa vào tài liệu lịch sử để rồi thay hình đổi dạng viết nên câu chuyện của anh, nhưng nghĩ kỹ lại thì không phải như vậy, bởi vì anh đã vứt bỏ hết những thứ tinh hoa nhất, xuất sắc nhất trong tư liệu lịch sử. Xin lỗi anh, hãy thứ lỗi cho tôi nói một câu mạo phạm, cá nhân tôi cho rằng, tay nghề của anh còn kém Thượng đế rất nhiều.” Sau đó, trong vòng nửa tiếng đồng hồ, giáo sư đã kể cho tôi nghe câu chuyện của ông, nghe xong quả thực tôi cứ ngây ra. Đúng như vậy, câu chuyện ông kể hay hơn chuyện của tôi rất nhiều, hay gấp mười lần, gấp một trăm lần. Ngay lúc ấy, tôi yêu cầu ông kể lại tường tận một lần nữa. Ông bảo, người có tư cách nhất kể câu chuyện này nhất chính là đương sự của câu chuyện, rất nhiều người trong số họ hiện vẫn còn sống, trong đó có bố của ông. Ông nói với tôi, nếu như tôi thực sự hứng thú thì hãy đi cùng ông một chuyến, chắc chắn sẽ không uổng công vô ích. Hơn cả mong đợi, tôi đã thu hoạch được rất nhiều. Tôi tìm được nguyên mẫu của câu chuyện Người bắt gió. Cùng với niềm vui, tôi luôn miệng khen kỳ diệu: Một câu chuyện hư cấu hóa ra lại có nguyên mẫu! Chẳng trách có người đem tiểu thuyết của tôi ra để bắt bẻ. Trước đó, tôi luôn thấy kỳ quái, một người hầu như không bước chân ra khỏi nhà như tôi, chỉ trong lúc bột phát, nghĩ vẩn vơ viết ra câu chuyện mà lại có người tìm đến bắt bẻ? Bây giờ thì tôi đã hiểu, đó là do cuộc sống mênh mông hơn hư cấu. Tôi nghĩ quan hệ giữa hư cấu và cuộc sống giống như quan hệ giữa phép Cân đẩu vân của Tôn Ngộ Không với lòng bàn tay của Phật tổ Như Lai, anh cứ chạy đi, xem anh có thể chạy được đến đâu. Sau vụ này, tôi có lý do để tin rằng giáo sư Phan không đến với tôi một cách ngẫu nhiên, mà là có chủ ý, và dùng cách của riêng mình để đạt được mục đích: để tôi tự dựng lại cốt truyện về hình tượng Người bắt gió. Tôi phải thừa nhận, so với câu chuyện mà tôi đã hư cấu, câu chuyện này phức tạp hơn, ly kỳ hơn và cũng chân thực hơn. Bố của giáo sư Phan, cụ Phan cùng năm người khác nữa như cụ, sau nửa thế kỷ, với thời gian và địa điểm khác nhau, nhưng đều cung cấp cho tôi những nội dung giống như nhau, giống nhau đến mức như là chỉ có một người kể vậy. Trong trải nghiệm của tôi, đây là lần đầu tiên có chuyện ngoại lệ như vậy. Cho nên tôi cũng ngoại lệ tin tưởng và thản nhiên với tính chân thực của nó. Mời các bạn đón đọc Phong Thanh của tác giả Mạch Gia.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái chết của Bà McGinty - Agatha Christie
James Bentley bị kết án sát hại bà McGinty và do đó phải đối mặt với giá treo cổ. Nhưng chính thanh tra Spence lại không nghĩ vậy nên đã tìm tới Hercule Poirot. Một vụ án tưởng đơn giản hóa thành một mạng lưới phức tạp gồm những nhân vật dấu mặt. Vụ án thứ 28 của thanh tra Hercule Poirot. ***   Hercule Poirot là một nhân vật giả tưởng của nhà văn Agatha Christie. Trong vai trò một thám tử tư người Bỉ, Poirot đã xuất hiện trong 33 tiểu thuyết và 54 truyện ngắn trinh thám của Agatha Christie xuất bản trong giai đoạn 1920-1975. Hercule Poirot cùng Bà Marple là hai nhân vật trinh thám nổi tiếng nhất của Agatha Christie nói riêng cũng như của văn học trinh thám thế giới thế kỉ 20 nói chung. Nhân vật Poirot cũng xuất hiện nhiều lần trong các bộ phim điện ảnh và truyền hình chuyển thể từ tác phẩm của Agatha Christie.   Mời các bạn đón đọc.  
Thung Lũng Khủng Khiếp - Arthur Conan Doyle
Thung Lũng Khủng Khiếp lần đầu tiên được công bố trên tạp chí The Strand Magazine, tháng 9 năm 1914 - tháng 5 năm 1915, với 31 hình minh họa của Wiles Frank. Ấn bản đầu tiên ra ngày 27 tháng 2 năm 1915 bởi công ty G. H. Doran Co ở New York (câu chuyện không còn được đăng trên tạp chí The Strand Magazine). Ấn bản đầu tiên tại Anh là của công ty Smith, Elder & Co ra ngày 3 tháng 6 năm 1915 với 6.000 bản. Tạp chí The Strand Magazine từ tháng 9 năm 1914  với hai chương đầu của cuốn tiểu thuyết.   Tóm tắt sách Sherlock Holmes: là một nhân vật thám tử hư cấu vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm của nhà văn Arthur Conan Doyle xuất bản năm 1887. Ông là một thám tử tư ở Luân Đôn nổi tiếng nhờ trí thông minh, khả năng suy diễn logic và quan sát tinh tường trong khi phá những vụ án mà cảnh sát phải bó tay. Nhiều người cho rằng Sherlock Holmes là nhân vật thám tử hư cấu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học và là một trong những nhân vật văn học được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới. Mời các bạn đón đọc Thung Lũng Khủng Khiếp của tác giả Arthur Conan Doyle.
Nụ Hôn Của Casanova - James Patterson
Hắn tự xưng là Casanova, người tình tuyệt vời nhất thế gian…   Hắn đam mê cái đẹp đến ám ảnh, khao khát sở hữu cái đẹp bằng mọi giá, để rồi lại đang tâm thủ tiêu nó. Nạn nhân của hắn đều là những cô gái trẻ xinh đẹp, tài năng. Một trong số đó là cháu gái của Alex Cross.   Alex Cross, thám tử gạo cội kiêm tiến sĩ tâm lý vào cuộc với tâm trạng đau đớn và có phần nóng vội. Cuộc săn lùng kẻ thủ ác trở nên khó khăn hơn bao giờ hết bởi tên tội phạm quá cáo già, cùng lúc lại xuất hiện một nhân vật mang danh Kẻ Lịch Thiệp với cách ra tay tàn độc. Giả thiết đặt ra là: Liệu Casanova chỉ là một kẻ đa nhân cách hay đây là hai tên tội phạm tâm thần đang cạnh tranh khốc liệt trong một trò chơi hiểm ác? Nụ hôn của Casanova là tập 2 trong series về thám tử Alex Cross.  ***   Nhận định    “Bậc thầy của thể loại trinh thám.”   - USA Today   “Tích tắc như một trái bom hẹn giờ, sợ hãi và căng thẳng tột độ.”   - Los Angeles Times   “Một trải nghiệm dữ dội, khó quên.”   - Toronto Star   “Với tiết tấu thích hợp, câu chuyện đánh lừa độc giả một cách tài tình, khiến họ phải sững sờ khi bức màn bí mật hé mở.”   - Washington Times   ***  Tác giả     Nhà văn James Patterson sinh ngày 22 tháng 3 năm 1947 tại thành phố Newburgh, bang New York. Ông từng tốt nghiệp cử nhân về tiếng Anh ở trường cao đẳng Manhattan và tiếp theo, đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ cũng về tiếng Anh ở Trường Đại học Tổng hợp Vanderbilt. Năm 1971, Patterson được nhận vào làm tại Công ty Quảng cáo James Walter Thompson. Chính ở đây nhà văn tương lai đã được thăng tiến rất mau lẹ trong công việc, từ một nhân viên bình thường lên tới giám đốc. Ngay khi đang làm quảng cáo, Patterson đã thử viết văn. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Con số Thomas Berryman thoạt tiên đã bị nhiều nhà xuất bản từ chối. Mãi tới năm 1976, Con số Thomas Berryman mới được nhà xuất bản Little Brown nhận in và sau đó, chính nó đã trở thành sách best-seller và được trao giải thưởng mang tên nhà văn Edgar (mang tên nhà văn Mỹ nổi tiếng Edgar Poe) dành cho tác phẩm đầu tay xuất sắc. Trong gần hai mươi năm sau đó, Patterson đã kết hợp hoạt động của một giám đốc hãng quảng cáo với công việc của một ngôi sao mới nổi trong làng nghệ thuật giải trí. Và rất thành công. Mời các bạn đón đọc Nụ Hôn Của Casanova của tác giả James Patterson.
Địch Gia Bát Án
Địch Gia Bát Án là một tác phẩm rất đặc biệt trong Series Địch Công kỳ án. Đây là tuyển tập 8 vụ án riêng lẻ nhưng cũng được coi là đáng nhớ nhất trong sự nghiệp quan án xuất chúng của Địch Công cùng các trợ thủ đắc lực là Hồng Sư gia, Mã Vinh và Kiều Thái trong suốt một thập kỷ ông làm quan án tại bốn huyện lỵ khác nhau của vương triều Đại Đường. Từ nghi án phản quốc của một viên Đại tướng khi đối diện sinh tử nơi sa trường với đám mọi rợ Thát Đát ở biên giới phía Tây cho tới vụ sát hại một thi sĩ cô đơn trong lương đình ở Hán Nguyên. Bằng khả năng phán đoán nhanh nhạy và suy luận tài tình, Địch Công không chỉ giúp người dân giải oan, vạch trần tội lỗi của những kẻ ác nhân mà còn tương trợ cho những vị tường đang đối diện sinh tử nơi sa trường, góp phần giữ vững biên cương Đại Đường, giữ vững quốc gia thái bình, thịnh thế. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Tình ơi đau đớn làm chỉ Để cho nhi nữ chia ly với chàng Trời cao số kiếp bẽ bàng Gieo chi ác bệnh, hai hàng lệ rơi Thuyền quyên giấc mộng chơi vơi Xuân sang em bước, người ơi đi cùng... -Tùng Vũ- Vụ án này xảy ra vào năm 663 sau Công nguyên, khi Địch Công chỉ vừa mới chính thức nhậm chức tại địa phương đầu tiên trong sự nghiệp làm quan án là Huyện lệnh huyện Bồng Lai được một tuần, đây là chức vị một mình một cõi cai quản vùng đất xa xôi hẻo lánh ờ bờ biển Đông Bắc của vương triều Đại Đường, Trung Quốc. Ngay sau khi chân ướt chân ráo đến nhận nhiệm sở mới, ông đã phải đối mặt với ba tội ác bí ẩn được đề cập ở tập “Hoàng kim án” trong cùng bộ tiểu thuyết “Địch Công kỳ án”. Câu chuyện đó diễn ra trong bối cảnh ngành công nghiệp đóng thuyền đang phát triển thịnh vượng tại Bồng Lai, dưới sự chi phối của Diệp Thủ Bôn, một chủ thuyền giàu có. Còn câu chuyện này khai màn tại nha sảnh của Địch Công trong nha phủ, nơi ông đang họp bàn với Diệp Thủ Bôn và hai nam nhân khác. Họ vừa kết thúc cuộc thảo luận dài hơi xoay quanh đề xuất của Địch Công về việc chuyển ngành đóng thuyền về dưới sự kiểm soát của triều đình. “À, thưa chư vị,” Địch Công mỉm cười hài lòng nói với ba vị khách, “ta nghĩ đã đủ thông tin để đưa ra quyết định rồi.” Cuộc hội bàn ở nha sảnh của Địch Công đã bắt đầu từ giữa giờ Mùi, hiện đã quá giờ Thân. Nhưng ông nghĩ ngần ấy thời gian đã được sử dụng hữu ích. “Các quy tắc chúng ta dự thảo dường như đã chu toàn cho mọi sự kiện ngẫu nhiên có thể xảy ra,” họ Hồ bình phẩm bằng một giọng điệu chắc nịch. Y là một nam nhân trung niên, ăn vận nhã nhặn, vốn là Lục sự của Thượng thư Bộ Hình, nay đã hồi hưu. Nhìn sang Hạ Minh, gã chủ thuyền giàu có ngồi bên phải mình, y nói thêm: “Hạ tiên sinh, chắc ông sẽ đồng ý rằng nghị ước của chúng ta đã giải quyết hợp tình hợp lý sự bất đồng giữa ông với Diệp tiên sinh đây.” Hạ Minh nhăn nhó mặt mày. “Công bằng là một từ hay,” hắn lãnh đạm nói, “nhưng là một thương nhân, ta thích từ lợi tức hơn nhiều! Nếu ta được trao quyền tự do cạnh tranh với bằng hữu Diệp đây, kết quả có thể không hoàn toàn công bằng đâu... nhưng sẽ mang lại nhiều lợi tức... cho ta!” “Ngành nghề đóng thuyền ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh.” Địch Công nhận xét vẻ kiên quyết. “Triều đình không cho phép độc quyền tư nhân. Chúng ta đã dành cả buổi trưa cho vấn đề này, và nhờ vào lời tư vấn kỹ thuật tuyệt vời của Hồ tiên sinh, mà giờ đây chúng ta đã soạn được nghị ước này rất rõ ràng và chi tiết nhằm nêu bật những quy tắc mà các chủ thuyền phải phục tùng. Ta mong cả hai ông nhất nhất tuân theo chúng.” Diệp Thủ Bôn chậm rãi gật đầu. Địch Công thích thương nhân ma mãnh nhưng thành thật này. Ông đánh giá Hạ Minh thấp hơn, ông biết hắn không hề phản đối các giao dịch mờ ám, lại còn phóng đãng, ham mê tửu sắc. Địch Công ra hiệu cho nha dịch châm đầy các chén trà, rồi ông tựa lưng vào ghế. Ngày hôm nay đã rất nóng nực, nhưng giờ thì một cơn gió nhẹ mát lành thổi qua, thoảng đưa hương mộc lan thơm ngát bên ngoài cửa sổ lan tỏa khắp nha sảnh. Họ Diệp đặt chén trà xuống, liếc mắt ra hiệu cho hai nam nhân kia. Đã đến lúc họ nên cáo từ rồi. Đột nhiên cánh cửa mở ra và Hồng Sư gia, lão quân sư tin cẩn của Địch Công bước vào. Lão tiến lại gần án thư và nói: “Bẩm đại nhân, có người muốn cầu kiến ngài, nói là có chuyện khẩn cấp.” Địch Công nhận ra ánh nhìn đầy ngụ ý của Sư gia, “Xin cáo lỗi, ta có việc một chút,” ông nói với ba vị khách rồi đứng lên và theo lão Hồng ra ngoài. Khi họ đã ra đến hành lang, Hồng Sư gia hạ giọng nói với Địch Công: “Đó là quản gia của Hồ tiên sinh, thưa ngài. Y đến để bẩm báo rằng Hồ phu nhân đã tự tử.” “Trời đất ơi!” Địch Công thốt lên. “Bảo y đợi ta. Tốt hơn là ta nên tự mình báo lại hung tin này cho Hồ tiên sinh. Hồ phu nhân tự tử như thế nào?” “Hồ phu nhân treo cổ quyên sinh, thưa đại nhân, ở tiểu đình trong hậu hoa viên vào giờ nghỉ trưa. Quản gia vừa phát hiện liền lập tức chạy tới đây báo tin.” “Thật là bi thảm cho Hồ tiên sinh khi gặp tai kiếp này. Ta quý mến y, vốn là một kiểu người hơi khô khan nhưng rất tận tâm, chu đáo, và cũng là một luật gia khôn ngoan.” Địch Công buồn bã lắc đầu, đoạn ông quay trở lại nha sảnh. Sau khi ngồi xuống sau án thư, ông nói với họ Hồ, vẻ nghiêm trọng: “Đó là quản gia của ông, Hồ tiên sinh à. Y đến đây với một tin dữ. Về tôn phu nhân.” Họ Hồ nắm lấy tay vịn của ghế: “Về phu nhân của ta ư?” “Có lẽ phu nhân đã tự sát, Hồ tiên sinh à.” Họ Hồ nhấp nhổm đứng dậy, sau đó lại buông mình thẫn thờ xuống ghế. Y nói với giọng yếu ớt đượm buồn: “Vậy là điều đó đã xảy ra, đúng như ta lo sợ. Mấy tuần gần đây nàng... nàng đã rất sầu não và tuyệt vọng.” Y dụi mắt, đoạn hỏi: “Nàng làm sao... làm thế nào mà tự kết liễu đời mình?” “Quản gia của ông trình báo rằng tôn phu nhân đã treo cổ. Bây giờ y đang chờ để hộ tống ông về gia trang. Ta sẽ phái Ngỗ tác đến hỗ trợ ngay để soạn giấy chứng tử. Dĩ nhiên là ông muốn các nghi thức thủ tục được hoàn tất càng nhanh càng tốt để bản thân không còn phải vướng bận tâm tư thêm nữa.” Họ Hồ dường như không nghe thấy Địch Công nói gì. Y lẩm bẩm: “Chết! Chỉ vài canh giờ sau khi ta rời đi sao? Ta biết làm gì đây?” Hạ Minh nói vẻ an ủi: “Chúng ta nhất định sẽ giúp đỡ ông!” Hắn tiếp thêm vài lời vỗ về nữa. Diệp Thủ Bôn cũng góp lời động viên. Nhưng dường họ Hồ không nghe thấy. Y đang nhìn đăm đăm vào không gian bất tận, khuôn mặt co rúm lại. Bất chợt họ Hồ ngước lên nhìn vào Địch Công và cất lời sau một thoáng ngần ngừ: “Địch lão gia, ta cần thời gian, một chút thời gian để... Ta không muốn lợi dụng sự tử tế của lão gia, nhưng... ngài có thể cử ai đó lo liệu các nghi thức và thủ tục ấy thay cho ta được không? Rồi ta có thể sẽ về Hồ gia sau... sau khi thi thể đã được khám nghiệm, và đã...” Giọng y yếu ớt dần, đôi mắt van lơn tha thiết nhìn Địch Công. “Dĩ nhiên rồi, Hồ tiên sinh!” Địch Công mạnh mẽ đáp nhanh. “Ông cứ ở đây và dùng thêm một chén trà. Đích thân ta cùng Ngỗ tác sẽ đi đến Hồ gia trang, và sẽ chuẩn bị một cỗ quan tài tạm thời. Ít nhất ta có thể làm chuyện đó cho ông. Ông chưa bao giờ miễn cưỡng trao cho ta những lời khuyên giá trị, và hôm nay, ông dành cả buổi trưa cho công vụ của huyện nha. Không, bản quan đã quyết rồi, Hồ tiên sinh à! Diệp tiên sinh, Hạ tiên sinh, hai vị hãy chăm sóc bằng hữu của chúng ta nhé. Ta đi thu xếp một chút, khoảng hai khắc nữa sẽ trở lại.” Hồng Sư gia đang chờ ngoài sân nhỏ cùng với một nam nhân béo lùn có chòm râu dê đen nhánh. Lão Hồng bầm với quan án rằng đây là quản gia của họ Hồ. Địch Công nói với kẻ ấy: “Ta đã thông báo với Hồ tiên sinh rồi, giờ ngươi có thể trở về gia trang. Bản quan sẽ theo sau ngay.” Rồi Địch Công nói thêm với Hồng Sư gia: “Tốt hơn là lão hãy về công đường, lão Hồng à, để sắp xếp lại các giấy tờ công vụ vừa được chuyển tới. Chúng ta sẽ cùng xem xét sau khi bản quan về nha phủ. Hai thuộc hạ của ta đâu rồi?” “Bẩm đại nhân, Mã Vinh và Kiều Thái đang ở trong sân chính, điều khiển binh sĩ tiến hành thao luyện.” “Tốt lắm. Bản quan chỉ cần Bộ đầu và hai thuộc hạ cùng tới Hồ gia trang. Họ sẽ đặt thi thể vào quan tài. Tối nay ta cũng không cần đến Mã Vinh và Kiều Thái sau khi họ đã thao luyện đám binh lính xong xuôi. Cho gọi Ngỗ tác và truyền kiệu của ta ra đây.” Trong cái sân nhỏ tẹo phía trong tư gia khiêm tốn của họ Hồ, gã quản gia béo lùn đang đứng chờ Địch Công. Hai nữ tì mắt đỏ hoe quẩn quanh đứng gần cổng gia trang. Bộ đầu giúp Địch Công bước xuống kiệu. Ông lệnh cho y đứng chờ cùng với hai Bộ khoái trong sân nhỏ, rồi bảo quản gia dẫn đường cho mình và Ngỗ tác đến gian tiểu đình nơi Hồ phu nhân đã tự sát. Quản gia dẫn họ đi dọc theo một hành lang lộ thiên bao quanh gia trang, tới một khu vườn rộng lớn nằm giữa những bức tường cao chót vót. Y dẫn họ bước xuống một lối mòn đã được dọn dẹp quang đãng, nằm quanh co uốn khúc giữa những bụi hoa, tới góc xa nhất. Ở đó, dưới bóng râm của hai cây hòe lớn, một gian tiểu đình hình bát giác đứng sừng sững, tọa lạc trên nền gạch tròn. Mái đình nhọn lợp ngói lưu ly, trên chóp đặt một quả cầu dát vàng. Các cột trụ và cửa sổ lưới mắt cáo tinh xảo được sơn son. Địch Công bước lên bốn bậc thềm lát đá hoa cương rồi đẩy cánh cửa mở tung ra. Gian tiểu đình cao nhưng nhỏ hẹp này thật oi bức, mùi hăng hắc của một loại hương trầm kỳ lạ đang lan tỏa nồng nặc trong không khí. Ánh mắt của Địch Công ngay lập tức hướng về phía chiếc trường kỷ bằng trúc kê sát tường bên phải. Thi thể bất động của một nữ nhân đang nằm trên đó, quay mặt về phía tường. Ông chỉ thấy mái tóc dày óng ả xõa tung xuống bờ vai nàng. Nàng mặc xiêm y bằng lụa trắng, bàn chân nhỏ nhắn vừa vặn trong đôi bạch hài bằng gấm thêu. Quay sang phía Ngỗ tác, Địch Công nói: “Ngươi hãy nghiệm thi cho Hồ phu nhân trong khi ta chuẩn bị giấy chứng tử. Quản gia, mở các cửa sổ ra, trong này ngột ngạt quá.” Địch Công lấy từ trong ống tay áo ra mẫu giấy công vụ và đặt nó sẵn trên cái bàn kê sát tường, cạnh cửa ra vào. Rồi ông thong thả nhìn kĩ gian phòng. Trên chiếc bàn chạm khắc gỗ tử đàn đặt giữa phòng có một khay trà đựng hai cái chén. Ấm trà vuông vức đã đổ nhào, nó đang nằm lay lắt với một nửa bên vòi vất vưởng trên một chiếc hộp bằng đồng trơn nhẵn. Một dải lụa đỏ dài loằng ngoằng nằm kế bên cạnh. Hai chiếc ghế lưng tựa cao đứng chơ vơ cạnh bàn. Ngoại trừ hai kệ tương phi trúc nằm giữa những cửa sổ đang chứa sách và vài món đồ cổ nhỏ bé, không còn đồ đạc nào khác. Nửa trên của các bức tường được lát ván gỗ, trên đó chạm khắc những bài thơ nổi tiếng. Không khí thật yên tĩnh, phảng phất phong vị thanh tao. Quản gia đẩy cánh cửa sổ cuối cùng mở tung ra. Bấy giờ y tiến tới gần Địch Công và chỉ tay vào những thanh xà sơn son lớn chạy ngang qua trần nhà hình vòm. Từ thanh xà chính giữa trần treo đu đưa một dải lụa đỏ, một đầu đã sờn. “Bẩm đại nhân, chúng tiểu nhân tìm thấy phu nhân treo cổ ở đó. Nữ tì hầu phòng và tiểu nhân...” Địch Công gật đầu. “Sáng nay Hồ phu nhân trông có chán nản, ủ ê không?” “Ồ không, thưa đại nhân, lúc ăn cơm trưa, tinh thần phu nhân vẫn rất tốt. Nhưng khi Hạ tiên sinh đến thăm lão gia, thì phu nhân..” “Ngươi nói ai? Hạ Minh? Hắn đến đây làm gì? Hắn sắp sửa gặp Hồ tiên sinh ở thư phòng của ta vào giờ Mùi mà!” Quản gia trông có vẻ ngại ngùng. Sau một thoáng do dự, y đáp lời: “Lúc đó, do phải phục vụ trà tại sảnh đường, nên tiểu nhân đã nghe được vài câu họ nói chuyện. Hình như Hạ tiên sinh muốn lão gia góp lời tư vấn có lợi cho hắn trong cuộc thương nghị buổi chiều. Thậm chí hắn còn tặng cho lão gia một... à, khoản đền ơn... kha khá. Tất nhiên là lão gia đã từ chối, vẻ rất phẫn nộ...” Ngỗ tác tiến tới gần Địch Công, thì thầm nói, “Thuộc hạ phát hiện ra vài điều hết sức kỳ lạ!” Nhận thấy vẻ mặt lo lắng của Ngỗ tác, Địch Công xẵng giọng ra lệnh cho quản gia: “Hãy đi tìm nữ tì của Hồ phu nhân về đây cho ta!” Rồi ông tiến về phía chiếc trường kỷ để kiểm tra. Ngỗ tác đã quay đầu của nữ nhân xấu số lại. Khuôn mặt bị méo mó nặng nề, nhưng người ta vẫn có thể nhìn ra nàng là một nữ nhân có nhan sắc. Địch Công áng chừng nàng khoảng hai mươi lăm tuổi. Ngỗ tác vén mái tóc nàng sang một bên và cho Địch Công thấy một vết bầm tím nghiêm trọng phía trên thái dương bên trái. “Đây là điều khiến cho thuộc hạ lo lắng,” y chậm rãi nói. “Còn điều thứ hai, tuy nguyên nhân tử vong là do bị thắt cổ, nhưng không một đốt sống cổ nào bị trật khớp cả. Bây giờ, thuộc hạ đo chiều dài của dải lụa treo lòng thòng từ xà nhà trên cao đằng kia với dải lụa nằm trên bàn và chiều cao của Hồ phu nhân. Thật dễ dàng trông ra được cách nàng ấy tự sát. Nàng ta bước lên chiếc ghế đó, rồi lên bàn. Nàng quăng dải lụa qua thanh xà, thắt một đầu thành nút trượt và rút chặt vòng dây quanh đó. Rồi nàng quấn đầu kia thành chiếc thòng lọng, tròng nó quanh cổ mình và nhảy khỏi bàn, khiến ấm trà đổ tung tóe. Khi đang treo lơ lửng ở đó, chân nàng chắc chắn chỉ cách sàn nhà vài phân. Cái thòng lọng chầm chậm siết cổ nàng, nhưng không khiến nó bị gãy. Thuộc hạ không thể không băn khoăn tại sao nàng ấy không đặt cái ghế kia lên bàn, rồi từ đó hãy nhảy xuống. Một cú rơi như thế sẽ làm gãy cổ nàng, gây tử vong nhanh chóng. Nếu chúng ta kết hợp điều này với vết bầm trên thái dương...” Y đột ngột bỏ lửng câu nói và trao cho Địch Công một cái nhìn đầy ẩn ý. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 13: Địch Gia Bát Án  của tác giả Robert van Gulik.