Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dưới Cánh Thiên Thần Rượu - Jerzy Pilch

LỜI NGƯỜI DỊCH Jurus, nhân vật chính của tiểu thuyết, cũng là nhân vật dẫn chuyện, là một nhà văn, một con nghiện - nghiện rượu. Nhà văn “sâu rượu” này tổng cộng đã có tới mười tám lần đến cai nghiện tại Trung tâm cai nghiện rượu. Cứ sau mỗi lần ra viện Jurus lại tái nghiện, lại say xỉn, lại bất tỉnh, và khi tỉnh dậy lại thấy mình đang ở Trung tâm cai nghiện rượu. Đến nỗi bác sĩ Granada, Giám đốc Trung tâm, không muốn nhận Jurus nữa, vì ông bất lực, cho rằng anh ta không chịu cai rượu, không thể cai rượu, lại còn bướng bĩnh, cãi lấy được - thưa bác sĩ, làm gì có chuyện sống lâu và hạnh phúc mà lại không uống rượu nào? Trung tâm cai nghiện rượu là nơi thu dung những bợm rượu, những sâu rượu “chiến tích đầy mình”, nam có, nữ có. Họ là nhà văn, giáo sư, giáo viên, doanh nhân, cử nhân, sinh viên, lái xe, thợ cắt tóc... được gán cho những biệt danh dài lê thê nghe rất kêu: Nhà Thám Hiểm Colombo, Vua Đường, Cá Nhân Lao Động Tiên Tiến, Tên Khủng Bố Hiếm Có Trên Trần Đời, Nữ Hoàng Xứ Kent... Mỗi lần bác sĩ Granada hỏi, vì sao họ lại uống rượu, thì họ đưa ra cả ngàn lý do để biện minh, khiến bác sĩ bực mình, quát lớn: Các người uống rượu, vì các người uống rượu. Rồi ông chì chiết: Không một ai trong các vị sẽ lành bệnh, không một ai trong các vị sẽ cai được rượu. Đa phần các tình tiết của tiểu thuyết diễn ra tại Trung tâm cai nghiện rượu, nơi, ngoài việc sử dụng dược phẩm, người ta còn sử dụng các liệu pháp trị bệnh, trong đó trị liệu tâm lý có vai trò cực kỳ quan trọng. Tại đây các học viên - bệnh nhân cai nghiện, hàng ngày có nhiệm vụ phải viết nhật ký cảm xúc, thực chất là những lời tự thú, tự phê về nghiện rượu, rồi đem đọc cho nhau nghe; phải lên lớp nghe giảng bài về tác hại của rượu, phải trả lời các bài trắc nghiệm, phải đối thoại trị liệu với các nữ nhân viên trị liệu, phải tham gia các cuộc họp kiểm điểm công việc thường nhật, mỗi ngày, trước khi đi ngủ phải đo nồng độ cồn bằng cách thổi vào máy thử; tuyệt nhiên không được cất giấu, sử dụng bất kỳ thứ gì có liên quan đến rượu, cồn, dù đó là nước hoa, nước khử mùi. Nghiêm ngặt đến mức các nữ nhân viên trị liệu phải thường xuyên kiểm tra tủ cá nhân của bệnh nhân-học viên cai nghiện, để tìm xem, có cồn giấu trong tuýp thuốc đánh răng, rượu trắng giấu trong vỏ chai shampoo, thuốc ngủ giấu dưới chăn, gối hay không. Cuộc “hành xác” hướng tới mục tiêu cai nghiện rượu tại trung tâm này diễn ra vô cùng cam go, cực kỳ khốc liệt, nhưng kết quả thường chẳng mấy lạc quan, vì “ngựa theo đường cũ”. Tại đây có lắm chuyện bi hài, cười ra nước mắt, chẳng hạn chuyện “đạo văn”, chuyện “người già cũng khóc” như trẻ con, chuyện trốn viện... Tuy nhiên, tất cả các bệnh nhân cai nghiện ở trung tâm, ai cũng có nét đáng yêu, đáng quý. Lại nói về nhà văn - con nghiện Jurus, nhân vật chính của tiểu thuyết. Là một nhà văn, có tài viết lách, anh được “các bạn chiến đấu” tại trung tâm quý mến, tin yêu và nhờ vả. Tại vì anh văn hay chữ tốt cho nên họ nhờ anh “viết hộ” các bài văn tự thú về nghiện rượu, để nộp, để đọc, theo yêu cầu của trung tâm. Jurus viết theo lời họ kể, hoặc phịa ra, nhưng phải là thứ văn thật bình dân, thêm mắm thêm muối cho nó thành bài văn tự thú “thứ thiệt” của học viên. “Thù lao” thường bằng hiện vật, như chuối, cam, sôcôla, thuốc lá, nước dứa hộp, đồ ăn, vài đồng zlôty lẻ hoặc các thứ vặt vãnh khác. Dẫu sao Jurus cũng có đất “dụng võ”, tha hồ “trổ tài văn chương”, tuy “nhuận bút” chẳng bõ bèn gì. Ấy vậy mà cũng nảy sinh ối chuyện rắc rối, chẳng hạn chuyện “đạo văn” gây thù oán lẫn nhau mà Jurus cảm thấy mình cũng mắc tội. Nhưng cũng có lần anh thoát hiểm. Chẳng hạn, anh bị bác sĩ trị liệu Quasi Mojzesz alias Ja Alkohol bắt quả tang đang viết hộ “nhật ký cảm xúc” cho con nghiện - lái xe, được mệnh danh là Tên Khủng Bố Hiếm Có Trên Trần Đời, vậy mà anh vẫn bình an vô sự!? Gia đình nhà văn Jurus là gia đình uống rượu truyền đời. Ông nội Stary Kubica, một điền chủ, khuynh gia bại sản vì nghiện rượu, phải bán con ngựa cái Fuchs yêu quý, thứ của nả có giá cuối cùng còn lại trong nhà. Jurus tâm sự với nàng Alberta Lulai: Anh uống rượu vì anh theo di truyền. Các cụ tổ nhà anh, tất cả đều uống rượu. Ông nội, ông ngoại anh uống rượu, bố anh uống rượu và mẹ anh cũng uống rượu. Anh không có chị, cũng chẳng có anh, nhưng anh dám chắc: nếu trên đời này có các chị của anh và các anh của anh thì có lẽ tất cả các chị của anh đều uống rượu, tất cả các anh của anh cũng đều uống rượu . Jurus là con nghiện, nghiện nặng, rượu đã ngấm vào máu thịt, cho nên đối với nhà văn này, cai rượu hầu như là chuyện viễn vông, vô vọng. Mười tám lần cai rượu bất thành tại trung tâm đã chứng tỏ điều này. Thường thì, sau khoảng sáu tuần điều trị Jurus lại ra viện, và rồi anh lại hành động như mọi khi, lại đến quán rượu “Dưới cánh Thiên thần Rượu” , lại đi thang máy lên nhà mình trên tầng mười hai, lại ngạc nhiên, ngỡ ngàng, đứng lặng người một hồi lâu ở ngưỡng cửa, khi thấy nhà cửa bẩn thỉu, bề bộn, đồ đạc bừa bãi, lộn xộn, cứ ngỡ rằng có kẻ đã đến ở và phá phách nhà mình khi anh vắng nhà. Jurus không hề nghĩ ra, tất cả mọi thứ “lộn tùng phèo” đó chính là hậu quả của say xỉn, của hôn mê, là do chính anh gây nên, trước khi anh lại được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Trung tâm cai nghiện rượu. Đã có lúc anh bi quan tính rằng, với lượng rượu khổng lồ mà anh đã đổ vào trong bụng mình trong vòng hai chục năm qua, thì chỉ còn thiếu năm chai rượu nữa thôi là đủ lượng độc tố để thần chết lôi anh về nơi chín suối, thậm chí không cần đến năm mà chỉ cần ba chai. Nhưng mối tình, được gọi là tình yêu cuối cùng trước khi nhắm mắt xuôi tay của anh, với nữ “nhà thơ” Alberta Lulai, người đàn bà mặc váy màu vàng, sau này là áo màu đen, đã cứu nhà văn thoát khỏi vũng bùn nghiện ngập: Anh đi tìm tình yêu trước khi nhắm mắt xuôi tay, nhưng anh lại tìm được tình yêu ban cho anh sự sống... Em đến với anh vào thời khắc khi anh đặt dấu chấm hết lên đời mình... Đã có lúc anh muốn tự tử vì không bỏ rượu được...Khi anh nói, anh bỏ rượu vì em là anh nói thật lòng. Khi anh nói anh bỏ rượu vì chúng ta, là anh nói thật lòng. Vì không có em thì chẳng có anh, không có chúng ta thì chẳng có anh. Từ “anh” của anh không còn là số ít nữa rồi . Có lẽ tác giả của Dưới cánh Thiên thần Rượu muốn cho thấy sức mạnh của tình yêu, cái có thể biến điều không thể thành có thể. Sẽ không ngoa chút nào nếu nói, Alberta Lulai là bậc cứu tinh của Jurus. Nhờ có nàng mà Jurus đã tỉnh mộng, chọn đúng đường và làm được điều thoạt tiên tưởng chừng không tưởng: Nhưng cháu đang chọn sự sống, lúc này một tình yêu mãnh liệt như tiếng hát của ông đang cặp kè cùng cháu, tình yêu này đang cứu vớt cháu. Rốt cuộc anh có hầu như tất cả, cai được rượu, có tình yêu, có tác phẩm văn học và lại lạc quan, lại yêu đời. Anh khoe tiếp với ông nội quá cố của mình : Chứng nghiện rượu của chúng ta, thủ phạm đã giết ông, đang tách rời khỏi cháu, như da rắn đang tách rời khỏi thân rắn lột. Ông nội ơi, cháu thắng lợi rồi, cháu chia sẻ cùng ông thắng lợi này của cháu, cháu đang viết về ông, cháu đang viết về cháu, chẳng những để chứng tỏ rằng thiên tiểu thuyết thứ thiệt về cai nghiện rượu này không kết thúc bằng cái chết, trái lại, nó đang kết thúc bằng sự sống.... Sự xuất hiện đầy bí ẩn, y như trong thần thoại, của nhân vật Jozef Cieslar, người tự nhận là bạn đồng môn Trường Chúa Nhật của Jurus thời thơ ấu, khiến người đọc không khỏi tò mò về thực tâm và thực chất của nhân vật này. Đây là một thiên tiểu thuyết viết khá chân thật và rất thực tế, bất kể ngoa ngôn, bốc đồng và những lời mê sảng của nhân vật. Pilch đã miêu tả một cách trung thành trên giấy những suy tư, trăn trở, những dằn vặt, đau khổ của người nghiện rượu và thế giới bé nhỏ của họ. Người ta nói, trong tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu, tác giả là nhân vật chính, nhân vật chính là tác giả. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn Jerzy Pilch nói rằng, ông chẳng xa lạ gì chuyện nghiện rượu. Phải chăng ông muốn viết tiểu thuyết thể loại tự sự (hay tự truyện), như là một liệu pháp cai nghiện cho bản thân mình? Trong văn học, sự thật mà không phải là sự thật, không phải là sự thật mà lại là sự thật, là chuyện thường tình. Khi bắt tay vào viết thiên tiểu thuyết này, Jerzy Pilch định xây dựng một “tác phẩm súng lục”, một “tác phẩm tối hậu thư”, cho nên ông mới tuyên bố: “tôi viết rồi tôi chết”. Ấy vậy mà thiên tiểu thuyết đã kết thúc rất có hậu, khiến người đọc lấy làm mừng, mừng cho nhân vật chính Jurus, mừng cho tác giả Jerzy Pilch. Kết thúc “có hậu” này cũng chính là nét riêng, là sự khác biệt giữa tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu và các cuốn tiểu thuyết khác viết về đề tài rượu, khi kết cục thường bi đát. Cho nên, tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu khiến người ta nghĩ tới một chức năng mới của văn học, chức năng chữa trị. Một câu hỏi được đặt ra: Phải chăng văn học là một liệu pháp? Hoặc: Phải chăng có Bộ môn tiểu thuyết trị liệu? Rượu là một thức uống hết sức gần gũi và quen thuộc với nhiều người, nhất là nam giới - Nam vô tửu như kỳ vô phong . Nói rượu là niềm vui: - đúng, bảo rượu là nỗi buồn: - không sai. Rượu là niềm vui hay nỗi buồn, điều này hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, nghiện rượu đang là vấn đề xã hội nhức nhối, bức xúc ngang với nạn nghiện ma túy, là nỗi khổ không riêng của một quốc gia nào [1] . Cho nên, bằng việc xây dựng hẳn một thiên tiểu thuyết về uống rượu, nghiện rượu và cai rượu, Pilch đã nhằm trúng vấn đề nóng bỏng đang là mối quan tâm của mỗi nhà, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia và của toàn nhân loại. Với lối viết khoáng đạt, lắm khi trào lộng (chẳng hạn, máy vi tính thua con người trong cuộc đấu rượu, đến nỗi nôn thốc nôn tháo toàn bộ ổ cứng của mình...), bằng thủ pháp đồng hiện, hư hư thực thực, quá khứ và hiện tại đan xen như mắc cửi, lúc tỉnh, lúc say, lúc mê sảng, mộng mị và ảo giác, với ngòi bút điêu luyện và sắc sảo của mình, Pilch đã kể cho chúng ta nghe câu chuyện giàu tính nhân văn về sự sống và cái chết mà chính nhà văn từng dấn thân vào. Ông đã đưa người đọc vào thế giới kinh dị của Thiên thần Rượu, nơi ma men tác oai tác quái. Giải thưởng Nike 2001 (trị giá trên 30 ngàn đô la), giải thưởng văn học hàng năm danh giá nhất Ba Lan mà nhà văn Jerzy Pilch được nhận, là phần thưởng cao quý, khẳng định giá trị của tác phẩm và tài năng của nhà văn. Chỉ trong một thời gian rất ngắn sau khi xuất bản, Dưới cánh Thiên thần Rượu đã bán được trên 100 ngàn bản, tối hôm trước công bố giải thưởng, thì ngay sáng hôm sau, 15 ngàn bản của tiểu thuyết đã bán hết veo. Đây là tác phẩm bán chạy nhất trong số tất cả những tác phẩm văn học được tặng Giải thưởng Văn học Nike từ trước đến nay. Trong những năm vừa qua Dưới cánh Thiên thần rượu tiếp tục được tái bản nhiều lần, được bạn đọc Ba Lan và nước ngoài mến mộ. Lần tái bản gần đây nhất là vào tháng 2 năm 2012, do Swiat Ksiazki ấn hành, với bìa sách mới thiết kế, có hình chiếc cốc uống rượu dốc ngược. Dưới cánh Thiên thần Rượu đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, như: Anh, Bungari, Estonia, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, Litva, Đức, Nga, Xlôvakia, Serbia... Năm 2003, Dưới cánh Thiên thần Rượu đã được Nhà hát mang tên Juliusz Slowacki ở thành phố Krakow đưa lên sân khấu, nghệ sĩ Rafal Sabara đạo diễn. Vở kịch độc đáo, giàu chất “men” và mới lạ này đã được dân chúng cố đô hồ hởi đón xem. Dịch tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu sang tiếng Việt, người dịch muốn mang đến cho bạn đọc nước nhà một thiên tiểu thuyết đương đại của Ba Lan về đề tài vốn rất gần gũi và quen thuộc đối với mỗi người chúng ta trong đời thường, nhưng lại chưa có mấy nhà văn bỏ công khai thác đến nơi đến chốn. Nếu người dịch không nhầm thì ngay tại Việt Nam ta “thơ say” thì có, nhưng “tiểu thuyết say” thì chưa. Mong rằng tiểu thuyết Dưới cánh Thiên thần Rượu của nhà văn Jerzy Pilch sẽ mang đến cho bạn đọc những gợi mở, những cảm xúc mới lạ, nhiều thú vị và bổ ích. Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2012 Nhà văn, dịch giả Lê Bá Thự Tặng Ewa-Ewenlina *** Trước khi trong nhà tôi xuất hiện toán mafia đi cùng nữ nhà thơ da bánh mật Alberta Lulai, trước khi bọn họ bứt tôi khỏi giấc mơ say và trước khi họ đòi tôi - thoạt tiên là những yêu cầu theo kiểu giả nhân giả nghĩa, sau đó là những lời đe dọa láo xược - đừng gây khó dễ cho việc in thơ của Alberta Lulai trên tờ “Tuần báo Phổ thông”, trước khi xảy ra những sự kiện bão bùng mà tôi định kể, thì đã có ngày hôm trước của những sự kiện đó, đã có buổi sáng sớm và buổi tối của ngày hôm trước, và từ sáng sớm cho đến tối ngày hôm trước đó tôi uống rượu đào. Đúng vậy, tôi uống rượu đào, khát khao cháy bỏng có được mối tình cuối cùng trước khi nhắm mắt xuôi tay, và tôi đã lún sâu vào cuộc sống suy đồi. Buổi sáng vẫn chưa có chuyện gì xảy ra, tôi vẫn kiềm chế được, thậm chí giữ được chừng mực. Tôi nằm trên sofa, đọc báo và nghe mấy đĩa nhạc của nghệ sĩ saxophone tenor người Séc, Felix Slovacek. Nhưng tới gần trưa, toàn bộ các nhạc phẩm mà Slovacek trình tấu chỉ có độc một bài lọt được vào tâm trí tôi, đó là nhạc phẩm của Karel Svoboda có tiêu đề Where’ ve you got your nest, litte bird? [1] Tôi nghe và tôi luận, trong nguyên văn tiếng Séc nó phải như thế nào “Kde je tvoje hnizdo, ptacatko?”, hay là “Kde je tvoje hnizdo, ptacku?”. Nhưng tôi không quyết định nổi, nên chọn từ nào: từ ptacku - yếu hơn, hay từ ptacatko - mạnh hơn, thì nghe hay hơn và thích hợp hơn, cũng vì cảm giác bất lực về ngôn từ (cho dù vẫn tiếp tục say mê) thỉnh thoảng tôi lại bật dậy khỏi ghế, đi ra chỗ chiếc máy hát và mở lại bản nhạc làm rung động lòng tôi. Đó là một ngày tháng bảy đẹp trời, từ tầng mười hai tôi nhìn thấy rõ những ngọn đồi bao quanh thành phố, tiếp nữa là đất bằng, đồng ruộng, cột điện, đường ray xe lửa, dòng sông sáng bạc trôi hiền hòa, những dãy núi phía chân trời, thành phố Wisla [2] tựa hòn đá trắng dưới đáy thung lũng rừng thông, quán “Piast” và khu vườn thơm mùi cỏ xén kề bên quán, ong mật, bướm, bay vù vù bên trên các vại bia. Con chó của bác sĩ Swobodziczka đang tớp suất bia của mình đựng trong chiếc nồi nhôm - ông qua đời cách đây một năm, nhưng con chó của ông quen ăn, hàng ngày vẫn lui tới quán, ở đây những con người vẫn đang sống trút bia hơi Zywiec [3] từ các cốc vại, đổ đầy nồi cho nó. Tôi đã nhìn thấy rõ mọi thứ đó, như tôi đã ở đó, cũng như tại đây, nơi tôi hiện diện, tôi nhìn thấy tất cả: cửa sổ các ngôi nhà mở toang, những chiếc ô tô kiểu cổ, thon, tròn, di chuyển trên đường phố, một người đàn bà mặc váy dây màu vàng đứng bên máy rút tiền tự động. Nhìn từ trên cao tôi có cảm giác đây là một người đàn bà thông minh và xinh đẹp. Tự dưng tôi đinh ninh trong bụng, nàng chính là tình yêu cuối cùng của đời tôi. Đó là một sự đinh ninh bao trùm tất cả, không chỉ phần say của tôi, mà cả phần tỉnh của tôi, và tuốt tuột tất các bộ phận không xác định, tất thảy các bộ phận bí ẩn về mặt tỉnh táo của tâm hồn tôi, đều có cảm giác đó. Tôi cần phải mặc quần áo ngay lập tức, xức nước hoa, không đợi thang máy, chạy bộ ngay xuống dưới nhà và đuổi theo nàng. Trong một giây lát tôi đã chần chừ vì lòng tự trọng, liệu có nên làm như vậy hay không. Thế nhưng chiếc máy rút tiền tự động, chiếc máy rút tiền tự động đã gạt phăng mối tình này của tôi. Tôi mà chạy xuống dưới nhà và đuổi theo nàng, thì chắc tôi sẽ hành động như tôi vẫn luôn luôn hành động: tôi sẽ rón rén bước theo sau nàng y như tên giết người trên phim truyền hình nhiều tập, tôi bước theo nàng, xảo quyệt và kiên tâm, tôi cứ đi như vậy cho tới khi nàng phát hiện ra tôi, nàng hốt hoảng khi nghĩ bụng, có kẻ đang bám riết nàng. Sau đó, trong chốc lát nàng nhìn tôi và để ý tôi, tiếp nữa với nỗi thất vọng của một tên vô lại đã bị bại lộ, tôi tiếp tục cuộc rượt đuổi cho đến khi sự lo lắng, nỗi sợ hãi và máu tò mò bắt đầu hòa trộn với nhau thành một thứ thuốc nổ... Lúc bấy giờ, để ngăn ngừa vụ nổ, tôi sẽ bước nhanh chân, đi ngang bằng với nàng, cúi chào nàng một cách lịch sự và cất giọng nhỏ nhẹ: ... Mời các bạn đón đọc Dưới Cánh Thiên Thần Rượu của tác giả Jerzy Pilch.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

La Mã Sụp Đổ
Rời bỏ trường đại học để kiến tạo thế giới riêng cho mình, hai chàng sinh viên Matthieu và Libero những tưởng đã tìm được thế giới hoàn hảo cho riêng mình tại một quán bar ở ngôi làng hẻo lánh trên đảo Corse, nhưng liệu thế giới ấy có khả thể? Bởi phải chăng “… mỗi thế giới chỉ là sự phản ánh méo mó của tất cả các thế giới khác, một tấm gương xa vời trong đó rác rưởi dường như cũng sáng lên như kim cương…” Với giọng văn sâu lắng, giàu cảm xúc, để lại nhiều dư vị, chủ nhân của giải Goncourt 2012 đã xây dựng cho mình một lối viết tiểu thuyết riêng biệt. Những câu văn dài đầy nhịp điệu như một dải lụa bất tận cuốn độc giả vào dòng suy tưởng về số phận con người. Bằng cách đó, Jérôme Ferrari gây dựng một niềm tin sắt đá,‑ rằng khi kết thúc cũng chính là lúc khởi đầu, niềm tin ấy động viên mỗi con người sống trọn vẹn cho thế giới của chính mình. Nhận định “Điều khiến ta choáng ngợp cho đến tận dòng cuối cùng chính là lối viết tuyệt mỹ vô song.”- Elle “Jérôme Ferrari mang đến những giấc mơ, những đớn đau, những đam mê và cả những ảo mộng tan vỡ, rất giống với một huyền thoại.”- Le Soir *** Từ “thế giới” gợi nên một quang cảnh xa xôi và đầy hứa hẹn. Với mỗi con người thế giới rộng đến đâu, họ phụ thuộc vào thế giới của mình như thế nào và làm sao mà thế giới sụp đổ? Những câu hỏi vĩnh cửu đó được khám phá trong cuốn tiểu thuyết gọn gàng và tuyệt đẹp La Mã sụp đổ (*) của Jérôme Ferrari - chủ nhân giải Goncourt năm 2012. Bắt đầu bằng một bức ảnh đen trắng cũ, Jérôme Ferrari ngay lập tức tạo ra một trạng thái bất an về vị trí của mỗi con người đối với thế giới, nó có thể rộng lớn khôn cùng và cũng có thể hết sức hạn hẹp. Marcel - đứa con cuối cùng của một người lính trở về từ Thế chiến thứ nhất - đã ra đời vào thời điểm mà châu Âu tan hoang sau chiến tranh, và lớn lên trở thành một viên chức thuộc địa tại châu Phi trong những ngày tàn của đế chế Pháp. Cuộc đời ông là những lần “lỡ hẹn với những thế giới không còn tồn tại nữa”. Sự ra đời và lớn lên của con, rồi cháu ông là những cơ hội mới, và họ tiếp tục kiên trì bước vào xây dựng những thế giới nhỏ bé khác, bởi ở mọi thời đại, những con người bị bỏ rơi, bị tước đoạt thế giới, vẫn tiếp tục tấn trò của thế hệ và của cái chết... Matthieu - cháu trai của Marcel - cùng người bạn thân Libero đã rời bỏ trường đại học khi những người thầy trên giảng đường không còn khiến họ tin vào thế giới triết học trong thời hiện đại nữa. Tại ngôi làng hẻo lánh trên đảo Corse quê hương, họ quyết định tiếp tục cái ước mơ không bao giờ cũ - xây dựng thế giới hoàn hảo của riêng mình bằng cách tiếp quản một quán bar địa phương. Buổi đầu mọi thứ bao giờ cũng đẹp đẽ. Hai chàng thanh niên đầy nhiệt huyết tập hợp được một bộ sậu, với những cô hầu bàn rộng rãi đáng yêu và một nhạc công guitar lang thang. Họ sống những ngày đầy sôi động trong ảo tưởng rằng thế giới họ xây nên đã bền vững. Nhưng trọng tâm mong manh vô hình của nó mỗi ngày một lệch dần vì tình dục, tiền bạc, nỗi sợ hãi, sự cô lập... Và nếu một ngày nó sụp đổ thì cũng không ai nhận ra. Phải chăng các đế chế thường chết như thế, chẳng ai nghe thấy dù là một tiếng rung rinh? - đó là cảm giác ám ảnh hiện diện, trong từng trang sách cứ vang vọng mãi âm thanh mơ hồ của những nền móng đang dần dần rạn nứt. Ba sự sụp đổ được sử dụng làm nền cho cuốn sách đầy tính biểu tượng: sự sụp đổ của đế quốc La Mã, qua những lời giảng của Thánh Augustin; sự sụp đổ của trật tự thế giới cũ sau chiến tranh thế giới, qua cuộc đời của nhân vật Marcel; sự sụp đổ của quán bar nhỏ bé, thế giới bất toàn mà những người thanh niên thời hiện đại tự xây cho mình - như một lời cảnh báo về văn hóa châu Âu buổi suy tàn. Họ nào phải thần linh, họ chỉ là những kẻ sáng tạo, và chính thế giới mà họ đã tạo ra giờ lại đặt họ dưới ách thống trị độc đoán của nó - tình cảnh mà Matthieu và Libera trải qua gắn với số phận con người, và giờ đây con người nhìn thấu nó hơn bao giờ hết khi những bức màn trang trí của nhiều thế kỷ qua đều đã rơi xuống hết. “...Chúng ta không biết thế giới là gì, sự tồn tại của thế giới phụ thuộc vào cái gì. Hẳn đã được ghi đâu đó trong vũ trụ quy luật bí hiểm đang chi phối sự hình thành, sự lớn lên và sự kết thúc của những thế giới đó. Nhưng chúng ta cũng biết điều này: để một thế giới mới nảy sinh, thế giới cũ phải chết đi đã... Khoảng cách giữa hai thế giới đó có thể vô cùng ngắn ngủi hoặc trái lại, dài lâu đến mức trong nhiều chục năm trời, con người phải học cách sống trong sầu não, đau buồn để cuối cùng tất yếu nhận ra họ không thể sống và xét cho cùng, họ chưa bao giờ sống”. Chỉ dày hơn 200 trang, La Mã sụp đổ là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học hiện đại, với dung lượng vừa phải, những câu chuyện gợi mở và lối văn chương đáng thưởng thức. Chỉ có một ngòi bút bậc thầy mới có thể hòa trộn sự phóng túng, châm biếm với những nét lãng mạn thuần khiết trong từng bức chân dung được mô tả sống động, mà vẫn làm nổi bật được tính khái quát và chiều sâu triết học. Những câu văn dài đầy nhịp điệu lôi cuốn người đọc vào nỗi buồn, nỗi cô đơn, cảm giác bất an... nhưng bên dưới là sự điềm tĩnh và niềm hi vọng.   Jérôme Ferrari sinh năm 1968 tại Paris, từng học tại Sorbonne và nhận bằng cử nhân triết học tại Đại học Paris 1 Panthéon-Sorbonne. Hiện ông là giáo viên triết học tại Abu Dhabi, thuộc Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Trước khi nhận giải Goncourt 2012 với La Mã sụp đổ, Jérôme Ferrari từng nhận giải thưởng Landerneau của France Télévisions cho tiểu thuyết Un dieu un animal, giải thưởng lớn Poncetton cho cuốn Où j’ai laissé mon âme. (*): La Mã sụp đổ, Jérôme Ferrari. Nguyễn Duy Bình dịch, Nhã Nam và NXB Văn Học ấn hành, tháng 1-2014. THANH VÂN Mời các bạn đón đọc La Mã Sụp Đổ của tác giả Jérôme Ferrari & Nguyễn Duy Bình (dịch).
Ba Phụ Nữ Can Đảm
Ba câu chuyện về trực diện đương đầu với cuộc đời này được viết ra không để tạo tâm trạng dễ chịu cho độc giả, vì cứ qua mỗi trang kế tiếp, sự cay nghiệt và tàn độc của cõi đời lại tăng thêm một mức nữa. Các hình dung ban đầu của độc giả còn kém xa những gì diễn tiến của hư cấu bày ra. Cuộc đời những người phụ nữ châu Phi có chút dính dáng với phương Tây, không bao giờ mang màu hồng, nhưng phải có cái nhìn thấu suốt, "từ bên trong". Như tác giả ba câu chuyện trong cuốn sách này thì toàn bộ sự thảm khốc mới được lột tả đầy đủ và cùng lúc là sức sống mãnh liệt của con người bị đẩy tới đường cùng. Cái nhìn ấy và sức mạnh ngôn từ đặc biệt ấy, Marie Ndiaye sở hữu với một dung lượng lớn đến kinh ngạc. *** Phải chăng, bằng một ngòi bút thấm đẫm nhân văn, Marie NDiaye – một phụ nữ da màu, muốn khắc sâu vào tâm tưởng của độc giả khắp thế giới hai tiếng ấy. Dù đã được “cảnh báo” trước về một cuốn tiểu thuyết không hề dễ đọc, một cuốn tiểu thuyết “lạ hóa”, nhưng “Ba phụ nữ can đảm” của Marie NDiaye vẫn khiến tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, suốt từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng. Bất ngờ không phải vì tình huống truyện, không phải bởi những cách thắt nút hay mở nút thông thường, mà bất ngờ bởi cách mà tác giả sử dụng để viết nên cuốn sách ấy. Cuốn sách tái hiện lại ba mảnh đời, tôi thích dùng từ “mảnh đời” hơn là “cuộc đời” bởi số phận của ba người phụ nữ được tái hiện trong trang sách đều không toàn vẹn. Nó chỉ như một lát cắt, một góc nhỏ, nhưng là cái góc cay nghiệt nhất, ai oán nhất, bi thương nhất. Ở đó, người ta thấy cái góc của Norah, nữ luật sư 38 tuổi gốc Phi, đang định cư tại Paris thì bỗng dưng được người bố ở Sénégal gọi về nhà vì tin cậu em trai đang phải ngồi tù vì tội giết người. Chỉ trong một tình huống ngắn ngủi ấy, nhưng gần như cả cuộc đời Norah đã được tái hiện lại: bố mẹ ly dị từ khi còn nhỏ; xây dựng gia đình với một cuộc hôn nhân chắp vá; mẹ tái hôn với người đàn ông khác, người bố chìm đắm trong mối quan hệ hoan lạc với những người phụ nữ đáng tuổi con mình, bỏ quên trách nhiệm của một người cha, thậm chí bắt con cái phải gánh chịu những tội lỗi do chính mình gây ra… Người ta cũng thấy cái góc của Fanta, một người phụ nữ gốc Phi khác theo chồng sang Pháp sinh sống với lời hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp. Nhưng trái với ước mong về cuộc sống màu hồng, cuộc hôn nhân của Fanta rơi vào trạng thái căng thẳng và nặng nề, chẳng khác nào địa ngục. Điều đặc biệt là câu chuyện của Fanta được kể lại dưới góc nhìn, góc tự sự của chồng cô – Rudy Descas. Và cái góc cuối cùng, cũng là chìa khóa làm rõ hơn cho chủ đề câu chuyện, là cái góc bi kịch của Khady Demba, một người phụ nữ góa chồng, bị gia đình nhà chồng hắt hủi, lưu lạc sang Châu Âu trong một hành trình đầy bất hạnh: bị bắt làm gái, bị bạo hành, bị ném ra đường làm kẻ ăn mày… và kết lại bằng cái chết đầy bi thảm. Ba mảnh đời chỉ liên kết với nhau bằng một sợi dây vô cùng mỏng mảnh, mà nếu không để ý thì độc giả cũng khó lòng nhận ra. Đó là chi tiết Khady trong câu chuyện cuối là người nấu ăn cho bố của Norah, lên đường đến Pháp để gặp cô chị họ Fanta. Ngoại trừ mối liên hệ mong manh ấy, thì dường như họ không có điểm nào chung. Thế nhưng ba cái “góc” của họ lại được xếp lại gần nhau, theo cấp độ tăng dần của tính bi kịch, và hoàn chỉnh trong một cuốn tiểu thuyết chứ không phải là một tập truyện ngắn như nhiều người nghĩ rằng nên như thế. Phải chăng, ngoài dụng ý tạo nên một cấu trúc khác lạ cho tác phẩm của mình, Marie NDiaye còn muốn nói, còn muốn khắc họa một điều gì hơn thế? Phải chăng, những Norah, Fanta hay Khady, rốt cuộc cũng chỉ là một cái tên để gọi, một biểu hiện nhạt nhòa của tính cá thể, ẩn sau đó là cả một thế giới tăm tối những bi kịch giống nhau của “Phụ - Nữ”. Phải chăng, bằng một ngòi bút thấm đẫm nhân văn, Marie NDiaye – một phụ nữ da màu, muốn khắc sâu vào tâm tưởng của độc giả khắp thế giới hai tiếng ấy. “Phụ - Nữ”, nguồn cảm hứng của nghệ thuật, nét đẹp của cuộc sống, cứu tinh của gia đình, thế nhưng cũng là nơi để người ta trút lên đủ mọi cơn thịnh nộ. Norah, Fanta hay Khady chỉ là ba trong rất nhiều, rất nhiều những cuộc đời khác, số phận khác, thậm chí còn bi kịch hơn, đang hàng ngày hàng giờ lặp đi lặp lại vai diễn tủi nhục của mình trong sân khấu cuộc đời. Đâu đó giữa biển người rộng lớn này, có những người phụ nữ vẫn hàng ngày lo toan cho cuộc sống gia đình để đêm đêm lui vào cái góc nhỏ của mình và khóc; có những người phụ nữ cả đời vì chồng vì con mà vẫn bị coi khinh; có những người phụ nữ bị bạo hành, bị chà đạp, bị biến thành công cụ để phục vụ cho lạc thú của đàn ông… “Ba phụ nữ can đảm” không phải là tuyên ngôn bảo vệ bình đẳng giới, bởi họ, những người phụ nữ Châu Phi ấy không hề đứng lên đòi quyền sống, cũng chẳng hề mở miệng rao giảng bất kỳ thứ triết lý nào. Họ chỉ như thế, nhẫn nhịn chịu đựng, nhưng không để bị dập vùi. Họ can đảm không phải bằng nắm tay giương cao, mà bằng tinh thần, như một viên ngọc vẫn tỏa sáng lấp lánh cho dù cuộc đời tăm tối. “Ba phụ nữ can đảm” là một cuốn sách về hiện thực, cay đắng và khắc nghiệt. Nhưng nó làm tôi thỏa mãn. Và tận sâu trong cái vực tăm rối và rữa nát những bi kịch ấy, tôi vẫn nhìn thấy một lối thoát nhỏ bé, đấy là khi Khady, cô cái của câu chuyện cuối, ra đi vào cõi vĩnh hằng. Hình ảnh cuối cùng mà cô nhìn thấy, không phải là những kẻ ăn xin rách rưới, không phải là đám lính tráng được trang bị súng ống, cũng không phải là hồi ức về cái nhà thổ bẩn thỉu, nơi đã vắt kiệt thể xác của cô, mà là nó – một con chim cánh dài màu xám. Cái con chim bay liệng trên bầu trời tự do ấy, cô tự nhủ, cũng chính là “mình – Khady Demba đây mà”. Và cô đã ra đi, hạnh phúc với cái phát hiện ấy, hạnh phúc với sự bay bổng của tự do vĩnh viễn, dù phải đánh đổi bằng cái chết. Cuộc đời đắng cay là thế, số phận ác nghiệt là thế, thể xác dù có thể bị dập vùi, bị chà đạp, nhưng tinh thần con người, chẳng ai có thể ngăn được, vẫn như cánh chim kia, bay lên trên mọi khổ đau tủi cực để hướng về phía có ánh nắng và khí trời. *** Và người đón chị hoặc tuồng như vô tình xuất hiện trên bậu cửa căn nhà lớn xây bằng bê tông, tắm mình trong một cường độ ánh sáng đột nhiên mạnh mẽ đến độ tựa hồ chính cơ thể vận đồ nhạt màu của ông ta phát tỏa luồng sáng ấy, người đàn ông đứng đó, thấp lùn, phục phịch, khuếch tán một quầng sáng trắng hệt một bóng đèn nê ông, người đàn ông ló ra trên bậc thềm căn nhà ngoại cỡ chẳng còn gì sót lại, Norah thốt lên trong lòng ngay khi ấy, của vẻ cao ngạo, của dáng bề thế, của sự tươi trẻ nơi ông ta vốn thường hằng một cách bí ẩn đến nỗi ngỡ như không thể lụi tàn. Ông ta đan hai tay vào nhau để trên bụng và đầu ngoẹo sang một bên, mái đầu lốm đốm bạc còn bụng thì trương lên và chảy sệ dưới lớp sơ mi trắng, bên trên cạp cái quần màu kem. Ông ta đứng đó, lút trong sự chói lọi lạnh lẽo, có lẽ từ cành một cây phượng vĩ trồng đâu đó trong vườn rớt xuống ngưỡng cửa căn nhà ngạo nghễ của mình bởi, Norah tự nhủ, trong lúc tiến lại gần căn nhà từ phía ngoài hàng rào chị vẫn chằm chằm nhìn cửa ra vào mà không thấy nó bật mở để hé lối ra cho bố chị - thế nhưng ông ta hiện ra trước chị trong ánh chiều tà, người đàn ông sáng lựng và bệ rạc dường như đã bị một nhát búa tạ hung hãn giáng xuống đầu, tán những tỉ lệ cân xứng hài hòa mà Norah vẫn nhớ thành ra một người cục mịch, cổ rụt, bắp chân to bè, lũn chũn. Đứng ngay đơ, ông ta ngó chị tiến lại gần, và tịnh không điều gì trong cái nhìn lần chần, hơi lờ vờ của ông ta để lộ rằng ông ta đang ngóng chị đến hay chính ông ta đã yêu cầu chị, có lúc còn nài xin chị (trong chừng mực, chị nghĩ, một người như ông ta vẫn còn khả năng khẩn cầu bất kỳ sự trợ giúp nào) đến thăm mình. Ông ta chỉ đơn giản là ở đó, có lẽ bằng một nhịp đập cánh đã rời cành chính của cây phượng vĩ tròa ánh vàng lên căn nhà nặng nề đậu xuống bậc thềm bê tông nứt nẻ, và cứ như chỉ vì run rủi mà lúc này bước chân Norah được dẫn về phía cổng. Và người đàn ông có khả năng biến mọi lời mình vật nài thành sự van vỉ hướng về phía mình ngó chị đẩy cánh cổng tiến vào vườn trong dáng điệu một ông chủ nhà bị rầy rà đang gắng gượng che lấp điều đó, tay khum lại trên mắt dẫu rằng nhập nhoạng đã phủ bóng rợp cái ngưỡng cửa được con người kỳ quặc, rực rỡ và phản quang của ông ta rọi sáng. - À, ra là con. Ông ta thốt lên giọng âm u, yếu ớt, thiếu tự tin bằng tiếng Pháp bất chấp khả năng làm chủ ngôn ngữ tuyệt vời, như thể sự e sợ trịch thượng ông ta hằng cảm thấy trước một vài lỗi khó tránh rốt cuộc đã khiến cho đến cả giọng ông ta cũng run rẩy. Norah không đáp. Chị ôm phớt ông ta, không ghì sát, chợt nhớ ra ông ta thậm ghét sự động chạm thân thể khi phần thịt nhèo nhẹo của cánh tay ông ta mơ hồ giật giật dưới các ngón tay chị. Chị như thoáng ngửi thấy một mùi ẩm mốc. Thứ mùi tỏa ra từ sự nở hoa ào ạt, hết mình của cây phượng vĩ vàng to sụ xòe cành bên trên ngôi nhà mái bằng và có lẽ người đàn ông âm thầm và tự phụ kia làm tổ trong các tán lá của nó, rình chờ, Norah e ngại nghĩ thầm, từng tiếng bước chân khẽ khàng nhất lại gần cánh cổng để lao vút lên rồi lóng ngóng đáp xuống bậc thềm ngôi nhà bề thế tường bê tông thô, hoặc bốc ra, cái mùi ấy, từ chính thân người hoặc áo quần bố chị, từ làn da lão hóa, nhăn nhúm, màu gio, chị không biết được, chị không thể gọi tên nó được. Cùng lắm chị cũng chỉ có thể khẳng định rằng hôm đó ông ta mặc, giờ này ông ta vẫn mặc chưa biết chừng, chị nghĩ, một chiếc sơ mi nhàu nhĩ, loang lổ vệt mồ hôi, rằng quần ông ta xanh lè, đầu gối nhẵn thín, phùng lên đầy dị hợm, hoặc là vì, như một con chim lặc lè, cứ chạm đất là ông ta khuỵu ngã, hoặc vì, Norah nghĩ trong nỗi chạnh lòng pha lẫn chán chường, cả ông ta nữa, sau rốt, cũng trở thành một lão già trễ nải, dửng dưng hoặc đui mù trước sự dơ dáy cho dù vẫn giữ các thông lệ lịch lãm quy ước, vẫn mặc màu trắng và bơ tươi thường trực khi xưa và không bao giờ xuất hiện dù là trước hiên ngôi nhà đang xây dở mà không chỉnh lại nút cà vạt, kể cả có chui ra từ phòng khách bụi bặm nào hay sà xuống từ cây phượng vĩ kiệt cùng vì nở hoa nào đi chăng nữa. Norah, từ sân bay đến, đã bắt taxi rồi đi bộ rất lâu dưới trời nắng nóng vì quên địa chỉ chính xác nhà bố chị và chỉ định vị được khi nhận ra ngôi nhà, cảm thấy mình nhớp nháp, bẩn thỉu, rã rời. Chị mặc một chiếc váy xanh lục không tay, điểm xuyết những bông hoa vàng li ti từa tựa những cánh phượng la liệt khắp hiên nhà, và đi một đôi xăng đan bệt màu lục nhạt. Mời các bạn đón đọc Ba Phụ Nữ Can Đảm của tác giả Marie NDiaye & Hồ Thanh Vân (dịch).
Sao Không Chờ Đợi Nhau
Ngày xưa Trời ở trên trời. Trời xui đằng ấy đến ngồi bên ta. Ngày xưa đằng ấy nhà xa. Tan trường mưa quá nên ta đưa về. Ngày xưa đằng ấy tóc thề. Ta thời tóc ngắn nên về tương tư. Ngày xưa ta viết phong thư. Đằng ấy nhận được hình như bằng lòng … Tình yêu tuôi học trò là đẹp nhât, cai tuôi mà ta lưu luyến mãi. Cái tuổi mà đã đem lại tình yêu cho Tử Khiêm và Đan Châu một tình yêu đẹp,dù có phải xa cách nhau nhưng họ vẫn hướng về nhau, vẫn chờ đợi nhau đến ngày cuối cùng để được sống với nhau bằng tất cả tình yêu mà họ đã trao cho nhau. Mời các bạn đón đọc Sao Không Chờ Đợi Nhau của tác giả Mèo Ttm (Võ Nghiêm Phương).
Các Hung Thần Lên Cơn Khát
Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, ông sinh ở Paris ngày 16 tháng 4 năm 1844, ngày 13 tháng 10 năm 1924 ở Tours, Indre-et-Loire, Pháp. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"… Đến năm 1922, sách của ông đã nằm trong danh sách cấm của Giáo Hội Công Giáo La Mã, bởi trước tác của ông chống lại sự mê hoặc tôn giáo, giáo điều chủ nghĩa; dưới ngòi bút châm biếm đả kích, trào lộng, A. France mỉa mai những luận điệu thần thánh, những thiết chế Nhà nước, những thối nát của nhà thờ cùng với sự đớn hèn của loài người. Các hung thần lên cơn khát là một thiên hùng ca bi tráng về thời kỳ Công xã Paris. Nhân vật chính của câu chuyện là Évariste Gamelin, một họa sĩ trẻ tràn trề sức sống và lý tưởng, một người con hiếu thảo sống cùng mẹ già nghèo khó, một người bạn vô hại dễ thương, một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với Cách mạng được bổ nhiệm làm hội thẩm của Tòa án Cách mạng Pháp. Tư tưởng cực đoan và sự sùng bái cá nhân của Gamelin đối với các nhà lãnh đạo công xã Robespierre, Marat,... và cơn ghen cuồng điên trong mối tình si chớm nở đã từng bước đưa anh từ một nghệ sĩ mộng mơ thành một tên giết người hàng loạt. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, và nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Điều gì sẽ đến khi lý tưởng trở thành ngọn hải đăng tỏa sáng dẫn đường, khi lý tưởng trở thành vị thần được tôn thờ mù quáng, khi lý tưởng được sùng bái một cách bất khả tư nghị? Và chuyện gì sẽ xảy ra khi con người trở thành nô lệ của dư luận, khi suy nghĩ bị dẫn dắt bởi đám đông. Đó là khi máy chém sẽ trở thành vị chủ tế, mạng sống và máu của con người được xem như vật hiến sinh, những buổi hành hình trở thành lễ hội náo nhiệt. Khi sự phi lý trở nên bình thường, khi quyền lực trao tay những kẻ vô tri, con người trở thành điên rồ và khát máu. Các hung thần lên cơn khát, một kiệt tác của A.France không chỉ là một tiểu thuyết lịch sử cách mạng. Dưới ngòi bút của một thiên tài, một xã hội thị dân Paris với đầy đủ các cung bậc cuộc sống, tình yêu, dục vọng, với ghen tuông được tái hiện. Các hung thần lên cơn khát còn là một bản trường ca về sự giao hòa giữa lý tưởng và tình người, về cách mạng và nhân văn, giữa duy tâm với duy vật, cả thánh thiện và tàn ác, về chiến thắng và chiến bại, về sự sống cùng cái chết, tất cả đã được Anatole France dệt thành một câu chuyện đa sắc sinh động. *** Anatole France (1844-1924) là một nhà văn vĩ đại của nước Pháp, thành viên Viện Hàn lâm và nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1921. Sự nghiệp văn chương của ông thực đồ sộ và mang dấu ấn những quan điểm của ông trong từng thời kỳ. Khi còn trẻ, với các tác phẩm “Sách của bạn tôi”, “Tội ác của Sylvestre Bonnard”, “Bông huệ đỏ”, “Khu vườn của Epicure”,… Anatole France nổi tiếng là một nghệ sĩ đơn thuần, một nhà nhân văn cá nhân chủ nghĩa ít quan tâm đến cuộc đời. Nhưng khi đã đứng tuổi, ông bắt đầu chú ý đến những vấn đề thời đại, những nỗi băn khoăn, lo lắng của con người. Ông tham gia bảo vệ Dreyfus, một sĩ quan Pháp bị kết án oan về tội làm gián điệp. Trong số các tác phẩm ông viết trong thời kỳ này ta có thể kể: “Chiếc vòng thạch anh xanh”, “Ông Bergerer ở Paris”,… Đặc biệt trong các cuốn “Thiên thần nổi loạn” và “Các hung thần lên cơn khát”, ông đã tố cáo bạo lực và chuyên chế, phản đối những hành động quá khích phát sinh từ cách mạng. Luôn luôn tranh đấu cho một xã hội công bằng và nhân đạo, Anatole France đứng vào hàng ngũ các chiến sĩ cực tả. Ông quan niệm tự do là tài sản quý nhất của con người, nhưng không thể có tự do khi một giai cấp còn bị một giai cấp khác nô dịch. Ông mơ ước một nhà nước thực sự dân chủ không vi phạm quyền của mỗi công dân và bảo đảm hạnh phúc cho từng cá nhân trong xã hội. Là người vô thần, ông phản đối cả cuồng tín tôn giáo lẫn cuồng tín chính trị; là nghệ sĩ, ông luôn luôn để lòng mình rung động xen lẫn xót xa trước những niềm vui mong manh, giúp ta trong giây phút quên đi nỗi đau đớn của thân phận con người. Tiểu thuyết “Các hung thần lên cơn khát” (1912) là một trong những tác phẩm hàng đầu của Anatole France. Câu chuyện xảy ra trong thời kỳ thứ ba của Cuộc cách mạng 1789 Pháp, “Thời kỳ chuyên chính Jacobin” bắt đầu từ tháng sáu năm 1793 đến hết tháng bảy năm 1794. Đó là thời kỳ cuộc cách mạng nằm trong tình thế thù trong giặc ngoài cực kỳ hiểm nghèo. Để đối phó, một mặt Quốc ước tung quân chống ngoại xâm, dẹp bạo loạn trong nước, mặt khác, bên cạnh những biện pháp nhằm ổn định đời sống, đã dùng Tòa án Cách mạng làm công cụ thực hiện quốc sách khủng bố các phe phái, cá nhân chống đối. Và vì bản thân phái Jacobin cũng phân hóa, khủng bố lan tràn vào ngay nội bộ những người cách mạng trung kiên nhất. Đó là thời kỳ rối ren nhất, đẫm máu nhất trong cuộc Cách mạng 1789. Có thể gọi “Các hung thần lên cơn khát” là một tiểu thuyết lịch sử: Một loạt sự kiện được mô tả khá đầy đủ, chính xác đến từng ngày, nhiều nhân vật lịch sử được nhắc đến trong đó một số lãnh đạo vĩ đại của Cách mạng, như Robespierre, như Marat, được phác họa bằng ngòi bút tài tình khiến người đọc có thể hình dung được cả hình dáng lẫn tâm hồn họ. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Anatole France đưa lên sân khấu cả một đám thị dân Paris bình thường, để cho họ sinh hoạt, yêu đương, chơi bời, hy vọng, đau khổ… cả bọn đục nước béo cò thời nào cũng có. Khi nói đến những con người bình thường, tính hoài nghi cố hữu của ông thường kết hợp với sự cảm thông sâu sắc với nỗi đau nhân thế. Và mỗi lần như vậy, bút pháp bình dị của ông tự nhiên sống động, ấm áp hẳn lên. Đó là nỗi khổ đau triền miên của bà cụ Gamelin sống giữa người con trai đã mất tính người và người con gái tội lỗi đang lẩn trốn; bà cụ sợ từng tiếng động nhỏ, “vì địa vị thấp kém,… coi hèn nhát là một nghĩa vụ.” Chúng ta phải buồn cười với cô Élodie đa tình quyết tâm “đi nửa quãng đường, hoặc hơn nữa” để chinh phục người yêu. Để mô tả tâm hồn trong trắng của một cô gái điếm, tác giả đã để cho “mặt trăng lên cao rọi vào gian phòng sát mái một tia bạc làm bừng sáng mớ tóc bồng bềnh, từng chiếc mi vàng, cái mũi thanh tú, cái miệng tròn và đỏ của Athénaïs đang ngủ ngon giấc, hai bàn tay nắm chặt.” Ông đã dùng những lời lẽ thực trang trọng, đầy xúc động khi nói đến Fortuné Trubert, người chiến sĩ được giao trọng trách không hề cảm thấy “sự nhỏ bé của các phương tiện sẵn có” vì “đời sống của anh hòa nhập với đời sống của một dân tộc vĩ đại”. Nhưng ông đã dành nhiều trang nhất để diễn tả hai nhân vật trung tâm, hai con người có cá tính thực đặc biệt. Một người là họa sĩ Évariste Gamelin, người con hiếu thảo, hội thẩm Tòa án Cách mạng. Anh là một công dân nhiệt tình yêu nước, một chiến sĩ tuyệt đối trung thành với cách mạng. Vì chế độ Cộng hòa, anh hy sinh không hối tiếc bao nhiêu sinh mạng, kể cả bạn bè, nếu cần, cả em gái mình để làm lễ dâng lên bàn thờ Tổ quốc. Anh nghĩ, mỉa mai thay, làm thế để mai đây “mọi người Pháp sẽ ôm hôn nhau trong hạnh phúc”. Người kia là ông già Brotteaux nguyên là nhà quý tộc, yêu thiên nhiên, luôn luôn xúc động trước cảnh đẹp, môn đệ của Épicure. Tác giả đặt ông vào bao nhiêu tình huống, cho ông gặp bao nhiêu con người để ông có dịp nêu lên những ý nghĩ, những tình cảm của mình, của một người vô thần nhưng không cuồng tín, chống mọi hình thức chuyên chế hay bạo lực. Những ý nghĩ, những tình cảm đó được bộc lộ đôi khi mơ mộng, thường thường nhẹ nhàng, châm biếm, có lúc lố bịch, che giấu một tấm lòng cực kỳ nhân hậu, nhạy cảm, vị tha. Thế là rõ, Anatole France đã gián tiếp nêu lên quan điểm của mình. Đó là một quan điểm và còn có những quan điểm khác: bao nhiêu sử gia và nhà nghiên cứu đã viết và còn viết để đánh giá cuộc cách mạng Pháp. Giới thiệu với bạn đọc cuốn tiểu thuyết này, chúng tôi cũng mong góp phần nhỏ bé kỷ niệm một cuộc cách mạng vĩ đại mà những lý tưởng vẫn luôn luôn thôi thúc loài người. Người dịch Trần Mai Châu ***   Sáng sớm hôm đó, Évariste Gamelin, họa sĩ, học trò của David*, thành viên phân khu Cầu mới, trước đây là phân khu Henri IV, đến nhà thờ dòng Barnabites. Từ ngày 21 tháng 5 năm 1790 cách đây ba năm, nhà thờ này được dùng làm trụ sở các đại hội của phân khu. Nó vươn cao trên một quảng trường hẹp và tối, gần hàng rào Tòa án. Mặt tiền nhà thờ có hai cây cột kiến trúc cổ điển với những công-xôn đảo ngược và bình lửa cháy đã dầu dãi với thời gian và bị con người xúc phạm. Người ta đã lấy búa đập các biểu tượng tôn giáo và thay bằng những châm ngôn Cộng hòa với dòng chữ đen tô đậm trên cửa chính: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái hay là Chết”. Évariste Gamelin bước vào gian giữa: các vòm nhà thờ trước kia bao lần vang lên lời ca của các tu sĩ bận áo thụng trắng thuộc giáo đoàn Saint Paul thì nay chứng kiến các công dân yêu nước đội mũ chụp đỏ hội họp bầu các thẩm phán của thành phố và thảo luận về công việc của phân khu. Các vị thánh đã bị lôi ra khỏi bệ; thay vào đó là tượng bán thân của Brutus, Jean-Jacques và Le Peltier. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền đặt sừng sững trên bàn thờ để trống. Jacques-Louis David (1748-1825): là họa sĩ thời cách mạng Pháp, đứng đầu trường phái Tân cổ điển. Chính tại gian giữa này, mỗi tuần hai lần, từ năm giờ chiều đến mười một giờ đêm, tiến hành các hội nghị công khai. Giảng đài có trang trí một lá quốc kì, được dùng làm diễn đàn kêu gọi quần chúng. Đối diện với giảng đài là một chiếc bục sơ sài làm bằng gỗ thô dành làm chỗ đứng cho đàn bà, trẻ con, thường đến khá đông, dự các buổi họp. Sáng hôm ấy, đứng trước một chiếc bàn kê ngay ở chân giảng đài là công dân Dupont-anh, mình mặc áo vét ngắn, đầu đội mũ chụp đỏ, làm nghề thợ mộc ở quảng trường Thionville, hiện là một trong mười hai ủy viên của ủy ban Giám sát. Trên bàn có bày một cái chai, mấy cái ly, một hộp bút và một quyển vở trong viết sẵn một kiến nghị đòi Hội đồng Quốc ước* trục xuất hai mươi hai đại biểu bất xứng. Hội đồng Quốc ước: là nghị viện cách mạng thay thế Quốc hội lập pháp từ ngày 21-9-1792 và cai trị nước Pháp cho đến ngày 26-10-1795. Évariste Gamelin cầm bút ký. “Tôi biết chắc, công dân Gamelin, cậu thế nào cũng ký, - ông ủy viên kiêm thợ thủ công nói. - Cậu là một phần tử trung kiên. Nhưng dân ở đây không nhiệt tình, lại thiếu đạo đức. Tôi đã đề nghị ban Thanh tra không cấp chứng chỉ ái quốc cho những người không ký.” “Tôi sẵn sàng dùng máu của mình ký vào kiến nghị đặt ra ngoài vòng pháp luật bọn phản quốc theo chủ nghĩa liên bang*. Họ đã muốn Marat* chết thì chính họ phải bị tiêu diệt.” Trong thời cách mạng Pháp, đây là những người chống lại những kẻ thù của tự do. Jean-Paul Marat (1743-1793): đại biểu phái Montagne trong Hội đồng Quốc ước, kịch liệt lên án và đòi chém đầu Louis XVI, bị một phụ nữ là Charlotte Corday ám sát năm 1793. “Điều nguy hiểm đối với ta chính là chủ nghĩa bàng quan. Phân khu này gồm chín trăm công dân có quyền bỏ phiếu nhưng chưa tới năm mươi người đi họp. Hôm qua lại chỉ có hai mươi tám người.” “Vậy phải bắt họ đến, nếu không thì nộp phạt.” “Này, này, - anh thợ mộc nhíu mày đáp, - nhưng nếu họ đến cả, công dân yêu nước chúng ta sẽ bị thiểu số… Công dân Gamelin, cậu có muốn làm một chén rượu chúc mừng những người cách mạng chân chính không?…” Trên tường nhà thờ, phía bên Phúc âm*, có những dòng chữ sau đây, kèm theo hình một bàn tay màu đen, ngón trỏ chỉ đường ra hành lang: Ủy ban dân sự, Ủy ban thanh tra, Ủy ban cứu trợ. Đi qua vài bước là cửa một phòng trước đây còn là gian nhà áo*, trên có ghi: Ủy ban quân sự. Gamelin đẩy cửa và thấy anh thư ký Ủy ban thanh tra đang ngồi viết trước một chiếc bàn bừa bộn sách vở, giấy tờ, thỏi thép, vỏ đạn và những mẩu đất chứa diêm tiêu. Côté de L’Évangile: Phía bên Phúc âm. Phía bên trái bàn thờ, đối với vị chủ tế. Nhà áo: là nơi các linh mục chuẩn bị trước khi làm lễ. “Công dân Trubert, chào cậu. Cậu khỏe không?” “Mình ấy à?… Mình rất khỏe…” Fortuné Robert trả lời những ai quan tâm đến sức khỏe của mình bằng một câu bất di bất dịch, muốn cho người ta biết về tình trạng của mình thì ít, mà muốn cắt đứt câu chuyện về đề tài đó thì nhiều. Anh ta mới hai mươi tám tuổi mà da đã khô, tóc thưa, gò má đỏ, lưng còng. Làm nghề bán kính ở bến Kim hoàn, anh là chủ nhân một tiệm có từ lâu đời, nhưng năm 1791 anh đã nhượng lại cho một viên thầy ký già để có thể toàn tâm làm nhiệm vụ của anh trong thành phố. Mẹ anh, một phụ nữ duyên dáng, chết lúc hai mươi tuổi mà các cụ già trong khu phố vẫn còn nhớ lại những kỷ niệm xúc động, đã để lại cho anh đôi mắt dịu dàng, đắm đuối, nước da xanh xao, tính tình rụt rè, nhút nhát. Còn tính chính xác, cần cù thì anh đã kế thừa của cha anh, kỹ sư quang học, người cung cấp vật dụng cho hoàng gia, qua đời cùng một căn bệnh khi chưa đầy ba mươi tuổi. Vẫn tiếp tục làm việc, anh hỏi: “Còn cậu, công dân, cậu thế nào?” “Tớ khỏe. Có gì mới không cậu?” “Không, không có gì mới. Cậu thấy đấy: Ở đây, tất cả đều yên tĩnh.” “Thế còn tình hình?” “Tình hình vẫn thế.” Tình hình thực khủng khiếp. Đạo quân tinh nhuệ nhất của nền Cộng hòa phải đưa vào cố thủ Mayence; Valenciennes bị bao vây; dân Vendée* chiếm Fontenay; Lyon làm loạn; Cévennes nổi dậy, biên giới với Tây Ban Nha bỏ trống; hai phần ba các quận bị xâm lăng hay nổi dậy; còn Paris không tiền bạc, thiếu cả bánh mì thì nằm trong tầm đại bác của bọn Áo. Một số dân vùng Vendée và những nơi khác chống lại cách mạng vì chính sách dân sự hóa Giáo hội và bắt lính hàng loạt của chính quyền cách mạng. Fortuné Trubert vẫn yên lặng ngồi viết, chiếu theo quyết định của Công xã* giao cho các phân khu trách nhiệm động viên mười hai nghìn người để cứu viện Vendée, anh đang thảo các chỉ thị về việc tuyển quân và cung cấp vũ khí thuộc phạm vi phân khu Cầu Mới. Tất cả súng trường sẽ được giao cho những người được trưng dụng. Đội Vệ quốc của phân khu chỉ còn súng săn và giáo mác. Công xã: là chính quyền thành phố Paris thời kỳ Cách mạng. Từ ngày 10-8-1792, công xã áp dụng chính sách khủng bố. Gamelin nói: “Mình mang lại cho cậu báo cáo về tình trạng các quả chuông phải gửi đi Luxembourg để đúc đại bác.” Mặc dầu không có một xu trong túi, Évariste Gamelin vẫn được ghi vào danh sách những thành viên tích cực của phân khu: luật chỉ ban đặc quyền đó cho các công dân tương đối giàu, đã đóng góp số tiền bằng ba ngày lao động; và muốn là ứng cử viên thì phải đóng góp mười ngày. Nhưng muốn phát huy quyền bình đẳng và giữ vững tính tự trị, phân khu Cầu Mới cho phép các công dân nào chịu bỏ tiền túi sắm đồng phục Vệ quốc được quyền bầu cử và ứng cử. Đó là trường hợp Gamelin, công dân tích cực, thành viên ủy ban quân sự. Trubert đặt bút xuống nói: “Công dân Évariste, cậu hãy qua bên Quốc ước đề nghị họ gửi cho chúng ta chỉ thị đào xới các hang động, lọc đất đá để sản xuất diêm tiêu. Có đại bác đâu đã đủ, còn cần thuốc súng nữa.” Một chàng gù bé nhỏ, bút giắt tai, tay cầm giấy tờ, bước vào. Đó là công dân Beauvisage, trong ban Thanh tra. Anh ta nói: “Này các công dân, chúng ta vừa nhận được tin xấu. Custine đã rút khỏi Landau.” “Custine là tên phản bội!” Gamelin thét lên. “Phải chém cổ hắn,” Beauvisage nói. Bằng một giọng hơi hổn hển, Trubert bình tĩnh phát biểu: “Quốc ước đâu có thành lập ủy ban cứu quốc để chơi. Hành động của Custine sẽ được đem ra xét xử. Bất lực hay phản bội, cũng phải thay y bằng một vị tướng có quyết tâm chiến thắng. Rồi sẽ ổn cả thôi!” Anh lật các giấy tờ và đọc lướt bằng cặp mắt mệt mỏi: “Muốn cho binh sĩ của ta hoàn thành nhiệm vụ, không rối loạn, không chùn bước, cần làm cho anh em hiểu rằng đời sống những người thân của họ được bảo đảm. Nếu cậu đồng ý, công dân Gamelin, trong phiên họp tới, cậu sẽ cùng mình đề nghị ủy ban cứu trợ phối hợp với bên quân sự giúp đỡ những gia đình khó khăn có con em tại ngũ.” Anh mỉm cười và ngân nga: “Sẽ ổn cả! Ổn cả!…” Như vậy là làm việc từ mười hai đến mười bốn giờ mỗi ngày trước một chiếc bàn mộc, để bảo vệ Tổ quốc lâm nguy, viên thư ký tầm thường của một ban trong phân khu không hề cảm thấy sự chênh lệch giữa mức độ to lớn của nhiệm vụ và sự nhỏ bé của phương tiện: anh cảm thấy sức mình hòa với nỗ lực chung của các công dân yêu nước, anh và đất nước là một, đời sống của anh hòa nhập vào đời sống của một dân tộc vĩ đại. Anh thuộc hạng người nhiệt tình và kiên nhẫn, sau mỗi thất bại lại chuẩn bị cho chiến thắng dường như không thể có được nhưng lại chắc chắn vô cùng. Họ phải thắng! Những con người chẳng là gì cả đó, những người đã đạp đổ vương quyền, cái anh Trubert, kỹ sư quang học tầm thường, cái anh Gamelin, họa sĩ vô danh, không thể chờ đợi sự khoan dung của kẻ thù. Họ chỉ có thể lựa chọn giữa chiến thắng và chết. Do đó họ đầy nhiệt tình và cũng vô cùng thanh thản.   Mời các bạn đón đọc Các Hung Thần Lên Cơn Khát của tác giả Anatole France & Trần Mai Châu (dịch).