Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Chúc Sơn

Mới hạ tuần tháng chín, trời chưa hẳn sang đông mà đã giá căm căm. Trên mặt sông lạnh tanh từ sáng đến trưa, con đò ngang mới chở được vài ba chuyến, mỗi chuyến lèo tèo dăm sáu người. Cảnh ngược xuôi tấp nập trên đường đê rộng thênh thang lượn dài theo con sông Đáy cũng không còn nữa. Trong túp lều tranh nhỏ xíu dựng nép bên đường, bà hàng tóc bạc phơ buồn bã ngó con đê vắng ngắt, giòng sông lạnh lẽo với con đò bơ vơ. Ngồi co ro trong tấm áo bông cánh còn mới, bà cụ chít lại chiếc khăn vuông nâu cho thật kín và nhớ lại những ngày đông vui đã qua. Nào mấy bà người làng te tái từ dưới bến lên vào uống bát nước chè tươi cho ấm bụng, nào mấy ông khách buôn, tay nải khoác chĩu một bên vai, sà xuống ghế làm một cút 1 rượu nhắm với đĩa lòng béo ngậy… Bà cụ nhớ cả những tiếng dép da trâu lẹp kẹp trên mặt đường, những tiếng nói chuyện ồn ào của những ông lái, bà lái không bao giờ ghé vào trong quán. Họ phải gồng gánh nặng và luôn luôn phải chạy gằn từng thôi 2 thẳng cho kịp giờ họp chợ. Nhớ cả đám trẻ con nô đùa dức lác… Chỉ có nghịch, chỉ có phá, nhưng mà vui. Còn bây giờ, nguyên cả một nồi chè đậu đãi chưa ai động đến với già nữa chõ xôi ngon thật là ngon. Cứ cái cung cách này chắc tối nay cả nhà phải ăn xôi chè trừ bữa… Có tiếng vang lên cùng với tiếng chân người bước tới. - Có nắng rồi !... Cũng sắp có đò nữa ! Hai người đàn ông hăm hở bước vào trong quán. Cả hai cùng cao lớn, vạm vỡ. Nét mặt và cử chỉ cùng lanh lợi. Và họ cùng đảo mắt xoi mói khắp nơi trong quán hẹp trước khi bóc mấy tấm bánh nếp ra ăn. Họ chỉ đưa mắt cho nhau chứ không nói chuyện bằng lời và chỉ ậm ự khi bà hàng đon đả mời họ dùng thêm thứ này thứ khác. Dưới sông, con đò đã gần sang tới bến. Họ trả tiền, đứng dậy. Mấy chiếc lá gói bánh bay lào xào, đuổi nhau trên mặt đê. Bà hàng ngước mặt lên nhìn khách : - Hai ông sang đò ? - Phải ! Đó là tiếng nói độc nhất mà một trong hai người đã miễn cưỡng buông ra trong quán nước. Y có một bộ râu quai nón khá đẹp. Họ bước xuống con đường dốc. Một tên ngoái lại nhìn thấy có ba người từ phía nam đi tới sắp bước vào trong quán. Bà hàng vồn vã : - Mời ba ông vào nghỉ chân sơi nước. Nắng xiên khoai chiếu vào đầy quán. Cả chủ lẫn khách khoan khoái ngâm mình trong ánh vàng ấm áp. Bà hàng một tay vươn ra lật ngửa mấy chiếc bát ở sát mép chõng, một tay ngoái ra đàng sau cầm cái gáo dài múc nước chè tươi rót cho khách. Hình ảnh ngộ nghĩnh y như một người đang quờ quạng bơi trong nắng. Bà suýt soa : - Mới tháng chín mà trời đã rét ngọt ! Đi đường lúc này chắc vất vả lắm, thưa ba ông ? - Phải !... Hàng có gì ăn không, bà cụ ? Ông khách có gương mặt nho nhã nhất lên tiếng hỏi. Bà hàng ân cần đáp, vẻ mừng hiện rõ trên đôi môi ăn trầu cắn chỉ 3 : - Thưa có ạ. Xôi lạc ngon lắm. Cả chè đậu đãi nữa. Xôi tôi để nguyên trong chõ, nóng hôi hổi. Để tôi cơi 4 ra đĩa, ba ông sơi thử. Người cao lớn nhất ngồi ngoài cùng cười nói oang oang : - Thôi, bà cụ cơi cho ông thầy tôi đây một đĩa xôi và hai chén chè là đủ. Còn bao nhiêu bà cụ cứ để đấy, hai anh em tôi lo cho. Hai người lực lưỡng như hai ông hộ pháp ăn như rồng cuốn nước trước sự ngạc nhiên và mừng rỡ của bà hàng. Tuy nhiên, những gì xẩy ra chung quanh cũng không qua được tai mắt họ. Dưới bến, chiếc đò ngang đã tới. Cô lái, người cao dong dỏng, cắm chiếc sào dài xuống đất cho thuyền ghé sát bờ. Khách quá giang ngưng bặt câu chuyện đang nói dở khi họ thấy hai người bịt khăn tùm hụp từ mặt đê xuống tới nơi. Họ lên bờ, lặng lẽ. Tên có hàm râu quai nón nhẩy tót xuống thuyền, nhẹ như chiếc lá. Mặt y lầm lì trong khi gã bạn đồng hành nhe hàm răng trắng nhởn cười nham nhở và làm bộ quờ quạng nắm cổ tay trắng nõn của cô lái như phải có một điểm tựa mới bước được lên thuyền. Sợ hãi, người con gái vội rụt tay lại và kéo theo luôn cả con sào. Mũi thuyền quay ngang hắt tên vô lễ lăn tòm xuống nước. Tiếng cười khoái trá vang trên mặt đê. Cười lớn nhất là hai ông khách ăn mạnh như hùm trong quán. Ông khách nho nhã vuốt chòm râu đen nhánh khen : - Hà hà ! Cô bé cũng là tay đáo để đấy chứ, phải không hai chú ? - Dạ. Thân thủ 5 khá lắm. Người thứ hai tiếp lời : - Còn phải nói ! Con gái Chúc Sơn mà ! - Ờ, trông cách cô bé gỡ tay rồi bước xéo chân khiến cho con thuyền tạt ngang, êm cứ như ru, cũng biết cô bé có nghệ chân truyền. - Vâng. Ngón nghề cô bé vào hạng cừ khôi đó, thưa thầy. Bà hàng bỗng thấy cao hứng, tươi cười nói xen vô : - Con gái họ Hoàng mà, thưa ba ông. Lúc thường thì ăn nói dịu dàng, dễ thương hết sức. Nhưng lúc cần dụng võ thì, nói ba ông bỏ lỗi, con trai lực điền cũng không bằng. Ông khách ngồi ngoài cùng ngó xuống mé sông, thích chí cười ha hả : - Chả thế mà hai tên kia biết thân phải ngồi yên một phép ! - Rét mướt thế này mà tên kia ướt như chuột lột… Kìa, cu cậu phải ngồi thu hình vào một xó cho đỡ lạnh, trông thảm hại chưa ! - Cho thế mới đáng đời ! - Hai đứa cũng là tay võ nghệ, sao chúng không gây sự nhỉ ? Bà hàng tươi cười giải thích : - Chúng nó không dám đâu ông ơi ! Một thằng là người làng làm chó săn cho giặc. Tôi nhận ra ngay khi nó mới bước chân vào trong quán. Còn thằng kia là Tầu. Đánh nhau trên bộ không biết sao, chứ giở giỏi ra trên thuyền thì chết với cô gái. - À, ra thế ! Có phải cô ấy là cô Sơn Ca không bà cụ ? Bà hàng ngạc nhiên : - Phải. Mà sao ông biết ? - Chúng tôi nghe người ta đồn. Bà hàng nhỉ, sao từ nẫy đến giờ, không thấy cô ta hát ? Nở một nụ cười cởi mở khi thấy hai ông hộ pháp đã ăn sạch nhẵn cả chõ xôi lẫn nồi chè, bà hàng kể rành rọt : - “Sơn Ca” không phải là tên thật cô ấy đâu, ông thầy ạ. Tên thật cô bé ấy là Mai, con ông Hương trưởng Tùng. Ngày nhỏ, nó hay hát, hát véo von suốt ngày nên người làng gọi đùa là con Sơn Ca, lâu dần thành tên. Nhớn lên, thấy nước nhà hoạn nạn, giặc lại hay sục sạo làm điều càn rỡ, bọn con gái biết lo không cười đùa ca hát nữa. Họ theo gót cha anh tập võ. Cụ Cử Chúc Sơn khen con bé Sơn Ca giỏi vào hạng nhất nhì làng tôi đấy. Ba thầy trò chưa kịp gợi chuyện thêm, bà cụ đã ướm lời hỏi trước : - Tôi già nua lẫn cẫn hỏi thế này khí không phải, ba ông bỏ lỗi cho nhé. Nghe nói ở đường trong, Bình Định Vương đã đánh đến Tây Đô 6 chả biết đến bao giờ Người mới dẹp được Đông Quan 7 để cho con dân được yên ổn làm ăn ? Ông khách nho nhã cười khiêm tốn đỡ lời : - Ấy chết ! Sao cụ lại hỏi chúng tôi điều ấy ? Chúng tôi cũng là con nhà làm ăn buôn bán như cụ, biết đâu được những việc xa xôi. - Các ông giấu già này cũng chả được. Nhác trông một cái già biết liền. Có điều già muốn nói ra hay không nói ra mà thôi. Này nhé, ba ông là người ngoài ta nhưng ở lâu trong ấy, giọng đã hơi nặng, tinh ý một chút là nhận ra ngay. Bàn tay của ông thầy trông xa cũng thấy là bàn tay cầm bút. Còn hai ông đây đúng là hai ông hổ tướng. Đố ai dám bảo các ông là người buôn bán hay làm việc thổ mộc 8 ! Một người tấm tắc khen : - Bà cụ vậy mà cũng biết xem tướng nữa cơ đấy ! - Chẳng qua là thói quen đấy thôi, các ông ạ. Chả là tôi bán quán đã lâu, khách cũng đông, mỗi người một vẻ, chả ai giống ai, mà tôi nhận xét ít khi lầm lẫn. *** Chân Phương là tác giả, nhà thơ, hiện sống tại Hoa Kỳ. Tác phẩm đã in (dưới bút hiệu Phương Sinh): Chú thích cho những ngày câm nín (1992), Bản án cho các vĩ cầm (1992), Nghĩa đen (1993), Bổ túc lý lịch cho loài di dân (1994) và Biển là một tờ kinh (1996). Mời các bạn đón đọc Cô Gái Chúc Sơn của tác giả Chân Phương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vùng Cách Ly
Trước khi bước vào thiên niên kỷ mới, có lẽ loài người đã không hình dung được mình sẽ phải đối mặt với những nỗi kinh hoàng mới có quy mô toàn cầu: nỗi sợ khủng bố sau vụ 11/9/2001, nỗi sợ các đại dịch mới sau dịch cúm gia cầm cũng trong năm ấy và sau đó là dịch SARS năm 2002, rồi đến nỗi sợ khủng hoảng kinh tế… Virus, biến đổi gen, dịch cúm đã trở thành những từ xuất hiện với tần suất ngày càng thường xuyên hơn, và đôi lúc đằng sau một loại virus đột biến gen chính là những thế lực mờ ám mà tay phải thì nghiên cứu virus để khắc chế chúng nhưng tay trái lại tìm cách tạo ra chúng để tung ra xã hội, gieo rắc nỗi sợ và sau đó là thu lợi. Năm 2002, SARS được phát hiện lần đầu ở Việt Nam, một loạt các bệnh viện đã bị đặt trong vùng cách ly. Nhờ nỗ lực của các cơ quan y tế, nhờ sự tận tâm và thậm chí là hy sinh tính mạng của các bác sĩ và cán bộ y tế mà nạn dịch đã được kiểm soát kịp thời. Nhưng cơn ác mộng này dù diễn ra không lâu cũng đã kịp khiến cả thế giới lo lắng và gây ra một loạt hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Vùng Cách Ly đưa người đọc vào bên trong Bệnh viện Việt Pháp, sống trong “Vùng cách ly”, sống với những số phận lo âu trong lòng Hà Nội những năm tháng kinh hoàng đó, rồi mở rộng đến những vùng đất khác, những số phận khác, những vấn đề khác. Để cùng khám phá ra rằng mỗi cuộc đời đều chịu một sự cách ly, đều luôn chờ đợi sẽ xảy ra một điều gì đó không lường trước được, rằng trong mỗi con người đều có một đốm lửa thiện, đôi khi chỉ còn le lói dưới đống tro tàn mà những lỗi lầm trên đường đời chất lên ngày càng dày, nhưng đốm lửa ấy vẫn chờ đến một thời điểm, một hoàn cảnh, một ngưỡng chín muồi của lương tâm để lại bùng lên. *** TỪ “ĐỊNH MỆNH” ĐẾN “ĐỜI MÌNH” Tôi vẫn nhớ ngày mà “định mệnh” đã “chạm” vào cuộc sống của mình... Định mệnh, cũng giống như niềm hy vọng hay sự tuyệt vọng, đột ngột “đổ ập” xuống khi ta không ngờ đến, sau sự tĩnh lặng, hay cũng có khi đến sau những đêm đen giông bão. Trước bình minh luôn là đêm tối, nhưng định mệnh xuất hiện không báo trước, dường như không mang tính quy luật, và “lật” cuộc đời của ta sang một trang mới. Dường như càng trải nghiệm, chúng ta càng vô tình cảm nhận được sự tồn tại của một “sợi dây vô hình” nào đó xâu chuỗi mọi thứ, hay một “bàn tay vô hình” khéo léo sắp xếp mọi chuyện như nó nên như vậy. Để rồi, tất cả những chuyện xảy ra với ta đều là những chuyện thật hợp lý, tất cả những người mà ta gặp đều là đúng những người cần phải gặp. Dù không thể chứng minh, hay nắm bắt được cái “vô hình” đó, thì ta cũng không thể chứng minh nó không tồn tại. Nếu như bạn tin tưởng, hay còn hoài nghi về định mệnh, đây vẫn là cuốn sách bạn nên tìm đọc. Cuốn sách này được viết bởi một cô gái đã có đủ dũng khí để vươn đến giấc mơ, nắm giữ tình yêu, và “chạm” vào định mệnh của mình. Còn gì thú vị bằng điều đó? Khi cảm nhận cái “vô hình” qua từng trang sách, để được truyền cảm hứng, và một ngày nào đó chính bạn cũng sẽ nắm bắt được vận mệnh của mình. Dù bạn là người khởi nghiệp, mẹ bỉm sửa, những sinh viên đang hoang mang trên giảng đường đại học, hay đơn giản là những người đàn ông, phụ nữ chỉ có một mong muốn giản dị là được hạnh phúc, có thể bạn sẽ phần nào tìm thấy trong cuốn sách này một “mảnh ghép” cần thiết cho câu trả lời mà bạn vẫn hằng theo đuổi. Chạm vào định mệnh hàm chứa một chủ đề sâu sắc, được truyền tải bởi những câu chuyện và chia sẻ giản dị, đời thường của chính tác giả. Những chi tiết có vẻ nhỏ nhặt trong cuộc sống đời thường, lại hàm chứa những ẩn ý và bài học, như một phần của kế hoạch mang tên “định mệnh”. Chính bạn chứ không ai khác là người phải sống cuộc đời của mình. Từ định mệnh đến đời mình là như vậy. Đây là một cuốn sách đáng đọc, đáng ghi nhớ, và đáng để chia sẻ. Tôi lại nhớ câu nói trong bộ phim mà tôi yêu thích, đã từng chia sẻ với tác giả cuốn sách này: “Định mệnh là cây cầu ta xây đến bên người ta yêu thương” (My Sassy Girl). Định mệnh, hay Duyên số, nếu nó có thật, vẫn cần sự Chủ động, Hành động và Nghị lực của ta. Vì Ông Trời nếu có, chỉ giúp ta 50٪ mà thôi, 50٪ còn lại ta phải tự tìm lấy, bởi Ông Trời cũng sẽ không thụ hưởng vinh quang hay hạnh phúc thay ta, ta cần phải chứng minh là mình xứng đáng với tất cả những điều đó. Tất cả chúng ta đều là những người “học trò” đang thực hiện những bài “kiểm tra”, để xứng đáng với thành công hay hạnh phúc ẩn chứa trong đó. Hãy là những người học chủ động, kiên trì và sáng tạo. Hãy sáng tạo ra định mệnh của mình, đó là cách để bạn “chạm” vào định mệnh! TẠ MINH TUẤN Chủ tịch, TMT Group Forbes 30 under 30 Asia *** CHẠM VÀO ĐỊNH MỆNH "Định mệnh” là niềm tin mọi thứ đã được định trước, được sắp đặt bởi năng lực quyền năng nào đó. Tưởng như mọi thứ diễn ra theo đúng như nó, thuộc về nó và không thể thay đổi được. Nhưng kỳ diệu thay, bằng những cách thức khác nhau mỗi người đã, đang và sẽ chạm vào định mệnh để rồi tạo ra một cuộc đời cho riêng mình. Bằng sự cố gắng, nỗ lực và trải nghiệm sống không biết mệt mỏi, mỗi chúng ta đang dần thấu hiểu ý nghĩa và ngọn nguồn của mọi sự vận động sống quanh mình. Để từ đó tác động và thay đổi những suy niệm từ bản thân mình đến môi trường xung quanh theo hướng tích cực hơn. Định mệnh là thứ đã được sắp đặt, làm sao có thể thay đổi được? Những gì diễn ra đều là định mệnh, chúng ta không phải đã, đang và sẽ chạm vào nó từng ngày hay sao? Tôi thì không phó mặc cuộc đời mình cho những thứ đã định sẵn, là học tốt, là công việc ổn định, là lấy chồng sinh con và có cuộc sống nhẹ nhàng như bao người khác. Tôi muốn tự tạo ra định mệnh cuộc đời mình bằng cách chạm vào nó, bằng cách định một sứ mệnh cho cuộc đời mình, thứ sẽ dẫn tôi đi tới hoàn thiện cuộc đời mình và tương tác với thế giới một cách trọn vẹn. Chạm vào định mệnh, để tạo ra cho mình một cuộc đời mà lấy hạnh phúc làm người dẫn đường, lấy độc lập tự chủ làm tôn chỉ, lấy tình yêu thương làm hành trang để vững vàng tiến về tương lai phía trước. Chạm vào định mệnh, để tạo nên phiên bản tốt nhất cho chính mình và để nhận ra, sau tất cả biết yêu thương và được yêu thương là thứ quý giá nhất cuộc đời này. Với cuốn sách này, tôi mong sẻ chia được một vài điều nhỏ nhoi nào đó. Biết đâu đấy, nó lại có thể giúp bạn quyết định cho mình một cuộc sống tự do hơn, không khổ sở, không tổn thương bởi những tác động ngoại cảnh của cuộc đời. Biết đâu đấy, bạn sẽ thay đổi công việc ổn định, có khi còn nhàm chán, hiện tại để theo đuổi đam mê của mình. Để rồi bạn cảm thấy hạnh phúc khi được làm công việc mình yêu thích, được sống trọn vẹn với định mệnh từ chính mình tạo nên. Hoặc bạn lựa chọn sẽ yêu thương bản thân mình nhiều hơn, sống đúng với bản thân, không phải sống khác đi với con người thật của mình, tìm được tình yêu, để tình yêu làm gia tăng hạnh phúc chứ không chỉ mang lại niềm vui đơn thuần. Nếu bạn thích trẻ con, nghĩ dần đi nhé, biết đâu đấy đứa trẻ sau này bạn sinh ra lại đúng như hình ảnh đứa trẻ bạn luôn nghĩ về, sau đó trở thành điều tuyệt vời nhất. Sẽ luôn có những diệu kỳ như thế xảy ra trong cuộc đời này. Cuộc sống này là của bạn, việc lựa chọn sống như thế nào là ở chính con người bạn. Tôi hy vọng bạn không phải hối tiếc điều gì, rằng bạn đã sống một đời sống ý nghĩa và làm tất cả những điều bạn mong muốn. Còn tất cả những trang viết này tôi dành cho bạn, người sẽ chạm vào và tạo ra định mệnh cuộc đời mình. Mời các bạn đón đọc Vùng Cách Ly của tác giả Lorenzo Angelon.
Giã Từ Mùa Đông
Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú sinh ngày 25 tháng 12 năm 1942 tại Hà Nội. Bà từng là giáo viên cấp 2 tại Sơn Tây, sau đó đi học khóa I Trường Viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam. Những năm 1965-1967, bà trở thành phóng viên báo Vùng Mỏ thuộc tỉnh Quảng Ninh. Sau đó, Nguyễn Thị Ngọc Tú về làm phóng viên, biên tập viên của tuần báo Văn Nghệ rồi làm Tổng Biên tập tạp chí Tác phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam.[4] Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú có một ái nữ là nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ. Sách Giã Từ Mùa Đông xuất bản năm 1989. Nội dung câu chuyện viết về những con người Việt Nam sinh sống và làm việc tại Liên Xô. *** – Anh muốn gì ở em? Em mang lại gì cho anh? – Ngân nói nhỏ như thì thầm rồi ngước đôi mắt buồn bã ngờ vực, nhìn Hoàng. Anh ta ngồi đó, bên lò sưởi, dáng mệt mỏi, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, rít từng hơi thuốc lá. Căn phòng nhỏ phủ thảm kín bưng xanh ngét khói thuốc. Bên ngoài, trời màu xám tro. Tuyết bay lất phất. Những bông tuyết nhỏ và mảnh như kim dính vào nhau rơi nghiêng xuống. – Quên. Em giúp anh quên. – Hoàng đáp hờ hững. – Quên cái gì? – Sự mệt mỏi căng thẳng luôn bao vây anh. – Luôn luôn à? – Ừ, thường xuyên. – Thế thì khó quá! – Ngân thở dài, im nín, hai vai rũ xuống – Sao anh không tìm cách thoát ra? Sao anh không thay đổi? Sao anh không sống như người khác? – Sống như thế nào? – Suốt ngày lo mua nồi hầm, máy mài, bàn là, bếp điện. Lúc nào cũng bận rộn, vất vả nhưng vui. Phải không nào? – Trước đây anh cũng đã từng sống như thế. Sống như thế mãi rồi. Anh đã từng bươn bả chuyển từ chuyến mê-trô(1) này sang mê-trô khác để mua được một hộp dây mai-so, mấy cục cắm điện ba chấu, cái ấm điện. – Hoàng rít thuốc lá, giơ tay quệt đám râu đẫm nước, nhìn bọt bia đang reo sôi trong cốc – Đó là những ngày xa xưa, còn bây giờ thì... – Bây giờ thì anh dửng dưng với tất cả chứ gì? – Mặc dù anh biết những thứ đó vẫn được giá. – Thế bây giờ anh muốn gì? – Ngân hỏi và đổ nốt chai bia vào cốc vại lớn trước mặt Hoàng. – Em cho anh uống say để dễ khai thác hả? – Hoàng cười và lại nhìn ra ngoài cửa sổ. Vài cánh chim lao vút qua trong trời chiều xám – Nói chung, anh cũng là con người, anh cũng có những ham muốn như mọi người, những niềm vui bình thường như mọi người... – Ai chẳng có thể như mọi người? – Trừ anh. Hoặc giả những người như anh. – Một nỗi giận dữ bất chợt trào lên trong người Hoàng. Ngân nhận thấy ẩn sâu dưới hàng mi rậm là một đôi mắt đang long lên và vầng trán nhợt nhạt. Ngân ngồi xuống nép vào một góc ghế, kéo cái chăn len phủ lên chân. Một nỗi sợ hãi mơ hồ chợt đến. Đây không phải lần thứ nhất cô tìm cách bước chân vào tâm hồn kín bưng ấy. Mỗi lần thế, không những chẳng ích gì mà hình như khoảng cách, sự xa lạ giữa hai người lại như kéo căng ra thêm nữa. Chợt Hoàng đứng lên, lại gần Ngân, đặt tay lên vai cô, kéo lại gần. – Đi tắm đi, em! – Không. Hôm nay em lạnh. – Nước nóng sẽ làm em ấm lên. – Ấm xong lại lạnh hơn. – Ngân nói và kéo cao cổ áo, xích lại gần lò sưởi. Hoàng đứng lên: – Nào, anh sẽ giúp em. Anh mở cửa buồng tắm, vặn van đỏ. Một vùng nước nóng rực tỏa ra, màu trắng sáng lên. Hoàng giơ tay cho Ngân: – Hôm nay em làm sao thế? Ngân lặng thinh. Cô không thể nói được rằng cô đang chán nản bực bội và nghi ngờ. Trong căn phòng lạ, mặc dù Hoàng nói cô hoàn toàn là chủ trong thời gian nghỉ phép ở đây, nhưng cứ có cái gì đó không phải như thế. Không khí ngột ngạt. Trần thấp, thảm vây kín. Căn phòng giống một cái tủ. Cũng không hẳn vì thế. Ở ký túc xá của cô, ba đứa chung một buồng hơn mười mét, đồ đạc chật ních, mùi thức ăn cứ rộn vậy sao mà dễ chịu, thoải mái. Còn ở đây, cứ thế nào ấy. – Nào, nhanh lên, nước đầy rồi! – Hoàng giục và đứng quay mặt vào tường. Biết là không thể cưỡng lại được, khi Hoàng đã muốn, Ngân đứng vào góc nhà rụt rè nhìn cái lưng to khỏe, cuộn săn những thớ thịt trẻ trung và đổ xuống đó là cái đầu tóc bù rậm đen nhức đang dán mắt vào cửa kính, cởi quần áo. Bất thần, Hoàng quay lại. Ngân chỉ kịp kêu một tiếng “á” đã thấy được nhấc bổng lên và cô bỗng thấy người chìm ngập trong một vùng hơi ấm nóng rực. Cảm giác khoan khoái chiếm lĩnh. Ngân té nước và cười khanh khách khi nước lượt khỏi những cụm tóc rậm dày của Hoàng, từng dòng chảy ràn rụa xuống mặt anh. – Anh ướt hết rồi! – Ngân kêu lên thích thú.   Mời các bạn đón đọc Giã Từ Mùa Đông của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Tú.
Tôi Không Phải Phan Kim Liên
Thật thật – giả giả giữa cuộc đời! Đôi khi sự thật giả ấy khiến người ta quá mệt mỏi, không thể tin tưởng vào con người được nữa mà phải tin vào một… con bò. Đây là câu chuyện về chốn quan trường đầy rắc rối và về cuộc sống của một người phụ nữ thôn quê quật cường chỉ vì muốn chứng minh cuộc ly hôn của mình năm ấy là giả và mình không phải là Phan Kim Liên. Câu chuyện bắt đầu khi cô không cẩn thận có thai lần hai, nên giả ly hôn với chồng để tránh luật sinh đẻ có kế hoạch, nào ngờ sau khi ly hôn, người chồng thay lòng cưới vợ khác. Cô đến nói lý lẽ còn bị hắn ta chửi là Phan Kim Liên. Để chứng minh vụ ly hôn đó là giả, đồng thời càng muốn chứng minh mình không phải Phan Kim Liên, mà suốt hai chục năm cô đi kiện cáo. Kiện từ thị trấn lên huyện, rồi thành phố, thậm chí đến tận Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc tại Bắc Kinh, nhưng không những không thể làm rõ vụ ly hôn đó là giả, không thể thanh minh mình không phải Phan Kim Liên, còn khiến cho một loạt quan viên cấp cao bị cách chức. Từ đó suốt hai chục năm, mỗi lần tới Đại hội, tỉnh thành phố cô ở đều phải ngăn chặn, vây bắt, truy lùng cô, không để cô tiếp tục làm loạn một lần nữa… Giọng văn của tác giả tưng tửng, châm biếm sâu cay khiến người đọc vừa cảm nhận được sự thâm thúy, sắc sảo của ngòi bút, vừa phải bật cười với những tình huống rất thật trong truyện. *** Lưu Chấn Vân sinh tháng 5/1958, quê quán ở huyện Diên Tân, tỉnh Hà Nam. Hiện là ủy viên BCH Hội nhà văn TQ, ủy viên đoàn thanh niên thành phố BK, được xếp hạng nhà văn hàng đầu Trung Quốc. Ông sáng tác từ năm 1982. Một số tác phẩm được giải thưởng, được chuyển thể thành phim, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Được đánh giá là nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ, trí tuệ hóm hỉnh, phong cách độc đáo, giàu tính hài hước, đầy triết lý. Các tác phẩm tiêu biểu: - Tôi là Lưu Nhảy Vọt - Hoa vàng cố hương - Đóa hoa và mặt cố hương - Lưu Chấn Vân, tuyển tập văn Lưu Chấn Vân (4 tập) - Lời thừa - Đơn vị - Binh liên mới - Điện thoại di động - Lông gà khắp đất - Đời là như thế - Tôi không phải Phan Kim Liên - Tưởng nhớ 1942 *** Đọc tiểu thuyết này tôi liền nghĩ tới bộ phim Thu Cúc đi kiện, cũng một người đàn bà nông thôn vác đơn đi kiện khắp nơi không mỏi mệt không chùn bước chỉ vì muốn một lời xin lỗi của trưởng thôn vì đã đá chồng chị ta một cái vào chỗ hiểm. Còn ở đây là Lý Tuyết Liên, cũng vác đơn đi kiện làm náo động cả thị trấn, tới thành phố, tới tỉnh rồi tới tận Bắc Kinh. Lý Tuyết Liên kiện chồng, rồi kiện hết thảy những người liên quan đến vụ việc ấy từ các vị quan tòa thị trấn, các lãnh đạo thành phố, tỉnh… làm mọi thứ rối bung bét cả lên. Cuối cùng chỉ muốn là rõ một điều rằng lần ấy li hôn là giả và quan trọng hơn là để cho chồng của chị ta biết “tôi không phải Phan Kim Liên”.          Mọi chuyện nói đơn giản thì là đơn giản, nói phức tạp thì là phức tạp, nhưng cuối cùng bao nhiêu năm không giải quyết được, định giày vò người khác ai dè lại thành giày vò chính bản thân mình. Câu chuyện bắt đầu khi Lý Tuyết Liên phải giả li hôn với chồng khi mang bầu đứa con thứ hai, nào ngờ trong thời gian ấy chồng cô đã kịp lấy một người vợ khác. Thế là Lý Tuyết Liên liền đến để nói phải trái đúng sai, vốn định nói cho hả giận rồi bắt chồng li hôn với người đàn bà kia nhưng lại bị chồng bồi cho một câu đau đớn. Tần Ngọc Hà, chồng của Lý Tuyết Liên nói: Rồi lại bồi thêm: “Cô có phải Lý Tuyết Liên không nhỉ. Tôi thấy cô đích thị là Phan Kim Liên mới phải?” Lý Tuyết Liên tức lồng lộn lên cuối cùng chỉ vì câu nói này. “Thật giả không quan trọng! Quan trọng là Tôi không phải Phan Kim Liên!”, Lý Tuyết Liên như gào lên với Tần Ngọc Hà như vậy. Với ngòi bút sắc sảo và châm biếm, Lưu Chấn Vân đã dựng lên một câu chuyện chân thật và sinh động. Mọi thứ xoay quanh một người đàn bà có thể nói là rất cố chấp, cả một bộ máy chính quyền cuống cuồng tìm cách đối phó mỗi khi đến kì đại hội, chỉ sợ Lý Tuyết Liên lại lẻn được vào Đại lễ đường thì mọi việc hỏng hết. Trong hai mươi năm ấy đã nghĩ ra bao nhiêu cách để ngăn chặn Lý Tuyết Liên, từ cho người canh chừng, theo dõi, chặn xe dọc đường, đến cả cách tìm cho cô ta một người chồng… Nhưng tất cả đều xôi hỏng bỏng không, kiện vẫn hoàn kiện. Lý Tuyết Liên không bỏ cuộc, không phải không mệt mỏi, không phải không có lúc chán nản, nhưng chính sự cản trở của họ bắt Lý Tuyết Liên kiện tiếp. Kiện không được cũng phải kiện, đi không được cũng phải đi. Cảm giác của Lý Tuyết Liên chính là cảm giác oan ức, cảm giác người ta không tin mình, chuyện li hôn năm ấy là chuyện giả mà họ cứ coi là thật. Bên cạnh đó Lý Tuyết Liên còn cảm thấy mình bị lừa, bị chồng là Tần Ngọc Hà lừa, bị những người trong chính quyền địa phương lừa. Họ dùng lời ngon ngọt dụ dỗ chỉ cốt để cô không đi kiện làm ảnh hưởng tới cái ghế của họ chứ họ đâu có tin, đâu cáo đồng cảm với cô. Bao nhiêu chuyện bi hài, nhiều lúc khiến chúng ta phải bật cười, nhưng đằng sau đó chứa đựng một câu hỏi có phần đau đớn. Rút cục thì kiện cáo bao nhiêu năm để làm gì? Có nên vì một chuyện không thể làm lại mà phá hỏng cả tương lai phía trước không?. Liệu Lý Tuyết Liên cố chấp hay chồng cũ của cô ta cố chấp, chỉ nói một lời xin lỗi là mọi chuyện đều có thể cho qua sao không nói?…           Thật thật giả giả quay đi quay lại đã hết đời người, đi kiện là muốn phá cuộc sống của chồng nhưng cuối cùng lại thành hủy hoại cuộc sống của chính bản thân mình. Trong khi đó Tần Ngọc Hà, cái gã đã bắt đầu câu chuyện này dường như là người ngoài cuộc chẳng ảnh hưởng gì bởi sự kiện cáo ấy.           Hai mươi năm trôi qua trong chớp mắt, cuối cùng thì Tần Ngọc Hà chết, không còn ai để khiếu kiện nữa, lúc này Lý Tuyết Liên cảm thấy trống rỗng, cô bật khóc, không phải khóc Tần Ngọc Hà mà khóc chính bản thân mình.           Lý Tuyết Liên cả đời đi kiện, tự giày vò bản thân, tự làm cho mình đau khổ, cuối cùng tất cả những điều ấy có đáng hay không? Không ai có thể trả lời được câu hỏi ấy. Cuộc đời này giữa thật và giả, trắng và đen không phải lúc nào cũng có thể nói cho rõ ràng được. Đọc xong câu chuyện tôi cảm thấy Lý Tuyết Liên đã quá cố chấp, nhưng nếu không có một người đàn bà cố chấp như vậy thì đã không có câu chuyện này. Trần Huệ Lương Review   Mời các bạn đón đọc Tôi Không Phải Phan Kim Liên của tác giả Lưu Chấn Vân.
Ta Thuộc Về Nhau
Ta thuộc về nhau là câu chuyện tự thuật của Alan & Irene Brogan. Alan Brogan sinh năm 1952 tại vùng East End, Sunderland, nước Anh trong một gia đình có bốn người con trai. Năm Alan lên bốn, mẹ ông qua đời. Chính quyền đại phương cho rằng người cha không thể nuôi nổi bốn người con nên bốn anh em ông bị đưa vào trại trẻ. Cũng chính từ đấy cuộc đời ông thay đổi. Irene Brogan sinh năm 1950 tại Deptford, Sunderland, nước Anh. Bà là con út trong một gia đình có bốn người con gái. Khi Irene hai tuổi, mẹ bà qua đời do căn bệnh lao. Quá đau lòng vì cái chết của người vợ, cha bà chìm đắm trong men rượu nên phải gửi chị em bà đến nhà họ hàng. Nhưng rồi nhanh chóng sau đó Irene cũng bị đưa đến trại trẻ Rennie Road. Tại đấy bà đã gặp Alan. Irene đã viết: “Ngay lúc đó, tôi quyết định mình sẽ không bao giờ hẹn hò với ai khác nữa. Phải là Alan hoặc không ai cả. Nếu tôi không tìm thấy cậu ấy, ít nhất tôi vẫn còn có gia đình. Nhưng nếu tôi muốn gắn bó với ai đó thì tôi biết người đó phải là Alan”. Còn với Alan thì: “Được, tôi sẽ chờ. Tôi sẽ chờ dù cho có mất bao lâu đi chăng nữa. Và nếu tôi gặp cô ấy một lần, lần sau tôi có thể sẽ gặp lại cô ấy. Tôi chỉ cầu nguyện cho lần sau mau đến và khi đó tôi sẽ không để mất cô ấy như năm năm trước.” *** Chân thực, xúc động, mạnh mẽ, cuốn hồi ký về câu chuyện có thật của Irene và Alan Brogan đã chứng minh sự tồn tại vĩnh hằng của tình yêu. Alan và Irene sinh ra và lớn lên tại Anh quốc, sau Thế chiến thứ hai. Hai đứa bé mồ côi mẹ tình cờ gặp gỡ ở trại trẻ mồ côi Rennie, khi đó, cậu bảy tuổi và nàng lên chín. Ngay từ lần đầu tiên chạm mặt, chúng đã dành cho nhau những xúc cảm kỳ lạ và sự tin tưởng tuyệt đối. Alan và Irene mau chóng thân thiết. Chúng cùng nắm tay nhau vượt qua những tháng ngày thiếu thốn khó khăn, những kìm kẹp cả về thể xác và tâm hồn. Cuộc sống khắc nghiệt trong trại trẻ mồ côi bỗng chốc trở nên dịu dàng và yên bình biết mấy. Alan Brogan đã miêu tả về những hồi ức đẹp đẽ ấy: “Trên đường đi bộ quay về Rennie Road, chúng tôi nhìn qua những ô cửa sổ các ngôi nhà trên phố, thấy những ngọn lửa ấm áp, những tấm thiệp sinh nhật trên mặt lò sưởi, và chứng kiến lũ trẻ nô đùa. Chúng tôi thấy những bà mẹ của chúng trao cho chúng những cái ôm, những nụ hôn và những nụ cười. Chúng tôi tự hỏi mình: “Tại sao chúng tôi không được như thế?” Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn có nhau. Một hôm, đang ngồi trên ngọn đồi ngắm những người nhảy dù, tôi nói với Irene rằng khi chúng tôi lớn lên, tôi sẽ cưới nàng. Nàng suy nghĩ một lúc rồi trả lời rằng nàng cũng muốn cưới tôi. Chúng tôi cùng bắt tay nhau thay cho lời nguyện ước.” Tuy nhiên, quy định ở đây không cho phép con trai và con gái chơi chung, vậy nên Alan và Irene chỉ có thể lén lút nắm tay nhau trên đoạn đường giữa trại trẻ và trường học. Nhưng rồi một người làm việc tại đó đã nhìn thấy Alan và Irene trêu đùa nhau. Bí mật bị phanh phui, Alan bị đuổi đi ngay lập tức. Cậu không kịp chào từ biệt Irene, để lại trong cô nỗi nhớ khôn nguôi: “Ghế chỗ Alan ngồi trống không, lũ trẻ chỉ nhìn về phía đó một thoáng rồi lập tức quay phắt đi, như thể nếu chúng nhìn vào nơi ấy quá lâu, sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra với chúng... Người tôi cứ hết nóng, lạnh rồi lại ốm, lúc nào cũng thế. Alan đã đi rồi.” Cô luôn tự nhắc nhở bản thân về việc kiếm tình người tri kỷ của mình: “Tôi tự hứa với lòng rằng vào mùa hè sang năm, nếu chúng tôi được đưa về Whitby để nghỉ hè, tô sẽ đi tìm anh ấy. Cái ý tưởng đó ăn sâu bén rễ và là điều duy nhất khiến tôi tiếp tục sống. Tôi sẽ đi tìm Alan, và cùng nhau chúng tôi sẽ cùng chạy ra bãi biển, cảm nhận ánh mặt trời mơn man trên mặt chúng tôi. Và chúng tôi sẽ lại được hạnh phúc bên nhau.” Với Alan, nỗi đau khi mất đi người thân duy nhất cũng ám ảnh cậu hằng đêm: “Đêm ấy, tôi nằm trên chiếc giường ngủ mới và nỗi đau chợt đến. Tôi đã nghĩ đến Irene. Tôi sẽ lại đi tìm cô ấy. Tôi phải tìm cô ấy." Và họ đã thật sự bước vào cuộc hành trình tìm kiếm đối phương, không ai ngờ rằng nó sẽ kéo dài diễn ra suốt gần 50 năm. Quãng thời gian ấy là tháng ngày dài nối tiếp trong sự cô độc và tổn thương, những nỗi đau tâm hồn không thể bù đắp được. Nhưng số phận vẫn chưa dừng trò chơi của mình lại ở đó, khi gần cuối đời, Alan và Irene lại được gặp nhau trong một hoàn cảnh trớ trêu. Khi ấy, Irene vừa trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, bà li dị chồng dù đã có hai đứa con. Alan cũng đã chia tay người vợ cũ nhưng đang ở trong một mối quan hệ mới. Cuộc gặp họ đã chờ đợi suốt gần năm mươi năm lại khiến cả hai trở nên bế tắc. Giữa những bộn bề giằng xé, cuối cùng, Alan lại một lần nữa quyết định ra đi, để lại cho Irene bao câu hỏi không lời giải đáp. Sau cùng, khi nhận ra mình không thể sống thiếu Irene, Alan quyết định quay trở về. Việc tìm lại Irene vẫn chẳng hề đơn giản, nhưng lần này, trái tim cả hai người đều chủ động đợi chờ đối phương. Số phận cuối cùng đã mỉm cười với cả hai. Họ đã nhận ra nhau tại một ngã tư đường phố đông người, từ đó, Alan và Irene quyết định mãi mãi không rời xa nhau một phút giây nào nữa. Ta thuộc về nhau (tên gốc: Not without you) không đơn thuần là câu chuyện về tình yêu đôi lứa. Đó còn là bản tình ca xúc động về tình thân, là tiếng hát của sự đồng điệu giữa những tâm hồn. Tất cả được tái hiện giữa khung cảnh khốc liệt của một đất nước vừa bước ra từ chiến tranh. Tất cả tạo nên bức tranh cuộc sống chân thực với những gam màu trầm day dứt và ám ảnh. Ở đó, tình yêu là nguồn sáng duy nhất xoa dịu mọi nỗi đau, cứu rỗi tâm hồn con người. *** Đó là một ngày trời lạnh và xám xịt. Tôi ngồi trên bậu cửa sổ trong phòng sinh hoạt chung, nhìn ra bên ngoài. Con đường vắng tanh và những cánh đồng ở phía xa. Tôi bảy tuổi, mồ côi mẹ, không biết bố và các anh trai mình ở đâu, hay liệu tôi có thể gặp lại họ hay không. Tôi đã bị mắc kẹt ở nơi này, nơi có vô số những luật lệ phải tuân theo và chẳng có ai tỏ ra thân thiện. Vừa lúc đó, một chiếc xe hơi lớn màu đen rẽ vào khúc quanh và dừng lại trước cửa ngôi nhà. Một người đàn ông bước ra, và sau đó là một cô bé. Cô ấy nhỏ hơn tôi, mái tóc đỏ cắt ngắn vuông vắn, mặc một chiếc áo không tay màu xám đám con gái vẫn mặc, đi đôi giày cao cổ nhỏ màu đen. Tôi nhìn cô ấy đi theo người đàn ông bước đến cửa trước. Chợt có gì đó vụt lên trong lòng tôi. Tôi biết cô ấy! Tôi không rõ ở đâu hay như thế nào. Chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau, nhưng tôi biết cô ấy. Như thể mọi thứ bừng sáng và tôi cảm tưởng mình có thể chạy hàng dặm cùng cô mà không bao giờ mỏi mệt. Khoảnh khắc ấy tôi hiểu rằng mình sẽ không còn cô đơn nữa. Tôi rời bậu cửa sổ và chạy tới mở cửa… *** Có một ngày khi đi ngang qua cửa hàng du lịch, chúng tôi nhìn thấy thông báo quảng cáo một chuyến du lịch tới Tunisia trong vòng 7 ngày. Giá cả khá hợp lý. Vì vậy chúng tôi dùng số tiền đã tiết kiệm được khi không mua nhà mới mà ở nhà Irene để đăng kí tham gia chuyến đi. Đó là một kì nghỉ hoàn hảo. Khách sạn rất đáng yêu và phòng chúng tôi cũng vậy. Trong phòng có cửa dẫn ra mái hiên nằm ngay trên một vườn cam và chà là. Con đường qua vườn sẽ đi qua hồ bơi, cuối đường là những đụn cát dẫn tới một bãi biển cát sáng lấp lánh. Chúng tôi đã có một tuần vui thú, ngằm cảnh và đắm mình trong không khí ấm áp thân thiện. Trong lúc đó tôi cũng lên kế hoạch. Tôi biết chính xác mình muốn làm gì, và tôi chắc chắn tất cả các bạn mới của chúng tôi ở khách sạn cũng biết, chỉ có Irene là không. Bình mình ló rạng, và ngày cuối cùng của kì nghỉ đã đến. Tôi biết phải là bây giờ, hoặc là không bao giờ. Tôi rủ Irene đi dạo biển lần cuối, và chúng tôi đi qua những đụn cát xuống bãi biển lấp lánh. Ánh nắng chiếu trên mặt biển khiến chúng lôi bị lóa mắt. Trong suốt thời gian ở đây, ngày nào chúng tôi cũng đi dạo trên bãi biển, nhặt những mảnh gốm màu xanh nhạt đã được sóng biển rửa sạch. Chúng tôi định mang chúng về nhà cùng với đám vỏ ốc mút, để Irene làm thành một ốc đảo Tunisian của riêng chúng tôi. Irene muốn chơi chèo thuyền. Cô ấy chạy xuống nước, đứng trong mực nước ngập cỡ đến đầu gối, vùng vẫy đập nước tung tóe và cười vang. Cô ấy bắt tôi phải chơi cùng. Nhưng trong đầu tôi còn suy nghĩ những chuyện khác. Tôi quay lại bờ biển, đợi cô ấy lên và tôi hơi lo lắng một chút. Chính là khi ấy: thời khắc của tôi đã đến. Cả hai chúng tôi đều biết chúng tôi muốn ở bên nhau, nhưng tôi vẫn có rất lo lắng khi chuẩn bị cầu hôn. Có lẽ những người sắp trở thành chú rể đều như vậy. Cô ấy chạy lên khỏi mặt nước, hướng về bãi biển, và chúng tôi cùng đi bộ, tay trong tay. Khi đã đi cách xa mép nước một đoạn, tôi quay sang cô ấy, sau đó quỳ một chân xuống, “Irene, anh yêu em. Em có đồng ý cưới anh không?” Cô ấy ngạc nhiên đến nỗi trong một thoáng đã đứng sững. Sau đó cô ấy trả lời, “Có chứ, có, đương nhiên em sẽ đồng ý”. Tôi đứng dậy, đeo vào tay cô ấy một chiến nhẫn đính hôn đơn giản bằng vàng mà tôi đã chọn, rồi chúng tôi ôm và hôn nhau, cả hai đều cười tới suýt chảy nước mắt. Sau đó, thật đúng lúc, chàng trai bồi bàn thân thiện ở khách sạn - người tôi đã giới thiệu ngắn gọn phía trên - xuất hiện trên bãi cát với một chiếc máy ảnh, chụp lại khoảng khắc đó. Chúng tôi về lại khách sạn, và khi chúng tôi về tới bể bơi, đám đông những người khách đã đang chờ chúng tôi. Mọi người đã rỉ tai nhau và đều đã biết chuyện đó, tất cả đều muốn tham gia vào bữa tiệc chúc mừng. “Cô ấy đồng ý chứ?” - một trong số họ hét lên. Tôi đã định trêu họ và giả vờ như cô ấy đã nói “Không”, nhưng tôi đã không thể làm được. Tôi không thể che giấu nụ cười rạng ngời trên mặt mình. Irene cười và trả lời “Cô ấy đồng ý!” và những nút sâm panh bật mở, hoa xuất hiện và tất cả mọi người chúng mừng chúng tôi. Tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm và hạnh phúc. Mọi thứ đã đúng như tôi mong muốn. Có sắp đặt một chút - nhưng đó là một kết cục đáng nhớ, vui vẻ và cảm động ở một kì nghỉ tuyệt vời. Hôm sau chúng tôi về nhà trong tư cách đã kết hôn và ngập sàn vui sướng. Irene Khi bạn tôi - Dawn - đăng ký cho tôi tham gia vào một cuộc thi Cô dâu của năm do đài phát thanh địa phương tổ chức, tôi đã nói với cô ấy rằng cô ấy bị điên rồi. Nhưng cô ấy nói cô ấy nghĩ câu chuyện của chúng tôi là câu chuyện lãng mạn nhất cô ấy từng được nghe, và rằng những người khác cũng sẽ nghĩ thế. Tôi chỉ cười và nói cô ấy cứ làm nếu cô muốn, nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ giành chiến thắng. Vì thế tôi rất bất ngờ khi khoảng một, hai tuần sau đó, đài phát thanh gọi tới nói tôi đã chiến thắng. Giải thưởng là một chiếc váy cưới, hoa, bánh ngọt, xe hơi và cả váy phù dâu, và còn có một kì nghỉ trăng mật ở nước ngoài. Đó là lần đầu tiên tôi giành được chiến thắng gì đó! Alan và tôi run lên vì sung sướng, và tôi đã gửi hoa và sô-cô-la tới cho Dawn để cảm ơn cô ấy. Việc chiến thắng ở cuộc thi khiến chúng tôi có thể có khả năng tổ chức một lễ cưới lớn hơn dự tính ban đầu. Tôi đề nghị Joanne làm phù dâu chính cho tôi và cháu gái tôi - Faye và Dawn sẽ làm phù dâu. Tôi đã chọn một chiếc váy quây màu trắng xinh đẹp đi kèm với cả voan đội đầu. Và tới lúc chọn màu váy phù dâu, tôi đã biết chính xác màu mình muốn: Nó phải là một sắc xanh đặc biệt - màu xanh của hoa chuông. Buồn là tôi không còn liên lạc với con trai tôi - Michael nữa, vì thế chúng tôi không thể mời thằng bé. Alan đã đề nghị được chồng Joane sẽ là phù rể và cháu trai tôi - Lion sẽ là người đi cùng tôi vào nhà thờ. Chuyện đó khiến tôi rất tự hào vì tất cả những thành viên trong gia đình tôi đều đã chấp nhận Alan là người trong gia đình tôi và chính Alan cũng cảm thấy như thế. Alan Tính đến ngày tổ chức lễ cưới, tôi và Irene đã ở bên nhau được 3 năm - và đó là 3 năm ngập tràn hạnh phúc thiên đường. Chúng tôi đều sung sướng khi được ở cùng nhau, và tận hưởng từng khoảnh khắc. Chúng tôi hầu như chưa từng bất đồng về bất cứ điều gì, và nếu chúng tôi có những ý kiến khác nhau về chuyện gì đó, cuối cùng chúng tôi sẽ chỉ thấy thật buồn cười. Sau tất cả những gì đã trải qua, chúng tôi đều biết mình chẳng bao giờ muốn buồn bã dù chỉ một ngày. Và có quá nhiều thứ phải cảm tạ trời đất, đến nỗi ngày nào với chúng tôi cũng như một ngày cần chúc mừng. Chiến thắng trong cuộc thi thực sự là phần thưởng hấp dẫn theo đúng nghĩa đen. Điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể mời nhiều người tới dự lễ cưới hơn, và cuối cùng danh sách khách mời của chúng tôi đã gần chạm tới con số 100. Chúng tôi đã tìm thấy nhau vào ngày mùng 10 tháng 5, và chúng tôi muốn cưới đúng ngày đó. Chúng tôi đã đi hỏi toàn bộ địa điểm có thể, nhưng không nơi nào còn trống lịch vào ngày đó, do vậy cuối cùng chúng tôi quyết định tổ chức ngày 12 tháng 5 năm 2007, ở Mobray Sui nằm trong trung tâm hành chính Sunderland. Đám cưới của chúng tôi là kết quả của tình yêu chúng tôi đã luôn dành cho nhau và đó là ngày đặc biệt nhất trong đời tôi và Irene. Dường như niềm hạnh phúc của chúng tôi như có sức lan tỏa. Từ khi Irene chiến thắng trong cuộc thi đó, tất cả các tờ báo địa phương đều quan tâm và câu chuyện của chúng tôi lan rộng. Vì thế khi Irene đến lễ cưới trong một chiếc xe cổ màu trắng rất đẹp, gần như một đám đông đã tụ tập ở đó sẵn. Trong lúc đó tôi đang hồi hộp chờ đợi trong căn phòng chật kín những vị khách. Irene bước vào trong tiếng nhạc bài hát chúng tôi đã cùng chọn “At last” của Norah Jones. Không bài hát nào khác có thể đúng với chúng tôi đến thế. Irene của tôi trông thật xinh đẹp. Tôi nín thở, và khoảnh khắc đó cả thế giới như đứng lại và tôi như nghe thấy người con gái tóc đỏ của tôi nói “Có” trên đồi Bunny năm nào, 47 năm về trước. Mời các bạn đón đọc Ta Thuộc Về Nhau của tác giả Alan & Irene Brogan.