Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bầu Trời Sụp Đổ - Sidney Sheldon

Audiobook Bầu Trời Sụp Đổ   Winthrop là một gia đình quý tộc Mỹ, và trung tâm của nó là Gary Winthrop đầy hấp dẫn, lôi cuốn. Khi người đàn ông này đang trên đà để trở thành ngôi sao mới sáng nhất của Thượng nghị viện, thì bị giết trong ngôi nhà của mình - sự kiện mới nhất trong một loạt các vụ việc đã giết hại năm thành viên của gia đình chỉ trong vòng một năm. Một trong những người cuối cùng nhìn thấy Gary Winthrop còn sống là Dana Evans. Cô đã điều tra vụ này như những thảm kịch ngẫu nhiên, và nhận ra rằng cuộc điều tra này sẽ dẫn dắt cô qua nhiều châu lục, những nơi mà cô và cậu con trai bé bỏng của mình sẽ sống trong những mối nguy hiểm nghiêm trọng, để rồi cuối cùng nó dẫn cô đến một sự thật làm sửng sốt cả thế giới. *** "Nắm lấy cái thìa... một bát đầy hơi nước quyến rũ, sex và bốc hơi nghi ngút." - People "Một chuyến hành trình gấp gáp và bí ẩn... Sidney Sheldon là người biết cách chuyển tải sự kỳ bí... cùng lối kể chuyển đầy hồi hộp... và những tình tiết của ông được gắn kết, biến động và gây ngạc nhiên." - New York Post *** Sidney Sheldon là một tiểu thuyết gia người Mỹ, đoạt giải của Viện Hàn Lâm nghệ thuật Mỹ, ông còn là một kịch tác gia và một người viết kịch bản phim và chương trình truyền hình chuyên nghiệp. Sheldon sinh tại Chicago, Illinois, với tên khai sinh là Sidney Schechtel, có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Các bộ tiểu thuyết của Sidney Sheldon: The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi (Tên khác: Người Đàn Bà Quỷ Quyệt) If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Kí ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) *** Nàng sải những bước dài vội vã trên đại lộ Pennsylvania cách Nhà Trắng một khu phố, run rẩy trong cơn gió lạnh lẽo của tháng mười hai, tai ù đặc vì tiếng oanh tạc và sau đó là tiếng các máy bay ném bom vần vũ trên đầu, sẵn sàng trút hết mớ hàng hoá của tử thần xuống mặt đất. Nàng đứng lại, toàn thân cứng đờ, chìm sâu vào màn sương đỏ rực của sự kinh hoàng. Bỗng nhiên nàng thấy mình trở lại Sarajevo, và nàng nghe thấy tiếng bom rơi rít lên đến chói tai. Nàng nhắm nghiền mắt lại nhưng hành động đó không thể xua đi hình ảnh về những gì đang diễn ra quanh nàng. Bầu trời sáng rực lên, tiếng pháo, tiếng động cơ máy bay ì ầm, tiếng đạn súng cối và nhiều loại súng khác - tất cả họ lẫn vào nhau tạo thành một thứ âm thanh quái dị làm cho tai nàng điếc đặc. Gần đó, những toà cao ốc bị hất tung lên thành những đám bụi mù với xi măng, gạch đá và cát. Đám đông hoảng loạn chạy tứ tán về mọi hướng, cố trốn tránh cái chết. Từ xa, rất xa, một giọng đàn ông vang lên: - Cô không sao chứ? Một cách thận trọng, nàng từ từ mở mắt ra. Nàng đã lại đứng trên đại lộ Pennsylvania, trong ánh nắng mùa đông ảm đạm, lắng nghe tiếng máy bay phản lực và tiếng chuông báo động đang nhỏ dần đi trong trí nhớ của mình. - Thưa cô… cô không sao chứ? Nàng cố ép mình trở về với thực tại: - Không, tôi… tôi không sao, cám ơn ông. Anh ta ngó sững nàng. - Khoan đã? Cô là Dana Evans. Tôi là một fan 1 lớn của cô đây. Đêm nào tôi cũng xem cô trên WTN, và tôi còn xem đầy đủ các tin tức của cô từ Nam Tư nữa cơ. - Giọng anh ta tràn đầy sự ngưỡng mộ. - Việc đó với cô thật hấp dẫn, theo dõi cuộc chiến ấy, phải không? - Vâng. - Cổ họng Dana Evans khô khốc. Hấp dẫn khi thấy người ta nổ tung thành từng mảnh, xác các em bé bị tung lên trời, những mẩu thịt người trôi vật vờ trong dòng sông đỏ lòm. Đột nhiên nàng thấy đau bụng. - Xin lỗi! - Nàng quay ngoắt lại và bỏ đi thật nhanh. Daná Evans mới từ Nam Tư về được ba tháng. Những gì trong ký ức nàng hầu như còn nguyên vẹn. Có cái gì đó không thật khi được bước đi thong dong trên đường phố, dưới ánh sáng ban ngày mà không một chút phập phồng lo sợ, thoải mái nghe chim hót, nghe mọi người xung quanh cười nói. Ở Sarajevo không hể có tiếng cười, chỉ có tiếng bom đạn đì đùng và tiếng khóc than thảm thiết mà thôi. John Donne nói đúng, Dana nghĩ. Không ai là một hòn đảo cả. Chuyện xảy ra cho một người, cũng là chuyện xảy ra cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đều được tạo ra từ đất sét và phép màu của Thượng Đế. Chúng ta chia sẻ cùng một khoảnh khắc của thời gian. Cánh tay kia của tạo hoá bắt đầu lạnh lùng quét qua một phút tiếp theo. Ở Santiago, một bé gái mười tuổi đang bị bố đẻ cưỡng hiếp. Ở New York, một đôi tình nhân đang hôn nhau dưới ánh nến lung linh… Ở Flanders, một cô gái mười bảy tuổi đang sinh hạ một em bé… Ở Chicago, một người lính cứu hoả đang liều mạng cứu một con mèo khỏi toà nhà đang cháy… Ở Sao Paolo, hàng trăm cổ động viên đang giày xéo nhau đến chết khi hàng rào bị đổ trong một trận bóng đá. Ở Pisa, một bà mẹ bật khóc vì hạnh phúc khi chứng kiến đứa con mình chập chững bước những bước đầu tiên trong đời… Và còn biết bao chuyện khác diễn ra trong vũ trụ trong vòng sáu mươi giây, Dana nghĩ thầm. Thời gian cứ tiếp tục trôi cho đến khi nó ngùng lại và đưa tất cả chúng ta cùng sang một cõi vĩnh hằng huyền bí nào đó. Dana Evans hai mươi bảy tuổi, vẻ ưa nhìn, thân hình mảnh dẻ, mái tóc đen xoã ngang vai, có cặp mắt xám thông minh, khuôn mặt hình quả tim và nụ cười ấm áp. Con một đại tá quân đội, Dana lớn lên như một đứa bé lang thang, theo bố đi từ căn cứ này sang căn cứ khác và cuộc sống này đã cho nàng nếm đủ mọi mùi vị của những cuộc phiêu lưu. Nàng vừa yếu ớt lại vừa can đảm và chính nét tương phản này đã mang lại cho nàng sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong suốt một năm Dana làm phóng viên mặt trận tại Nam Tư, khán giả khắp thế giới đã bị hấp dẫn bởi một người phụ nữ trẻ, đẹp, tận tuỵ tường thuật lại tình hình nóng hổi nhất ngay giữa lòng cuộc chiến, mạo hiểm cả tính mạng mình để đánh đổi lấy những tin tức mới nhất về những sự kiện đầy chết chóc đang diễn ra xung quanh. Và bây giờ, dù đi đến bất kỳ nơi nào nàng cũng dễ dàng bị mọi người nhận ra. Dana Evans thậm chí còn phát xấu hổ vì sự nổi tiếng của mình. Bước nhanh trên đại lộ Pennsylvania, rảo bước qua Nhà Trắng, Dana nhìn đồng hồ và nghĩ thầm, mình lại đến muộn mất thôi. Tập đoàn viễn thông Washington Tribune chiếm hết toàn bộ khu nhà lớn của đường NW số 6 với 4 toà nhà riêng biệt: ban quản trị, xưởng in ấn báo chí, bộ phận văn phòng, và khu truyền thông tổng hợp. Các studio của WTN toạ lạc trên tầng sáu của toà nhà thứ tư. Không khí làm việc ở đây lúc nào cũng căng như dây đàn với những nhân viên luôn dán mắt vào máy tính. Chính tại đây Dana đã gặp Jeff Connors. Anh từng là một ngôi sao bóng chày cho đến khi bị thương ở cánh tay do gặp tai nạn khi đang trượt tuyết, còn bây giờ Jeff là phóng viên thể thao cho WTN và thêm cả việc trình bày báo cho Nghiệp đoàn cung cấp báo chí Washington. Anh ngoài ba mươi tuổi, gầy, rắn rỏi, vẻ ngoài trẻ trung và dễ dãi, hấp dẫn mọi người bằng phong thái ung dung, điềm đạm. Jeff và Dana yêu nhau và họ đã bắt đầu tính đến chuyện hôn nhân. Ba tháng sau ngày Dana trở về từ Sarajevo, ở Washington không có sự kiện gì nổi bật. Leslie Stewart, bà chủ cũ của Tập đoàn viễn thông Washington Tribune đã bán tống bán tháo nó đi rồi biến mất, và chủ mới giờ đây là Elliot Cromwell, một ông trùm truyền thông quốc tế. Cuộc họp vào buổi sáng với Matt Baker và Elliot Cromwell có vẻ như đã bắt đầu. Khi Dana đến nơi, Abbe Lasmann, cô thư ký tóc đỏ quyến rũ của Matt bước ra chào nàng. - Mọi người đang đợi cô, - Abbe nói. - Cám ơn, Abbe. - Dana bước vào phòng họp. - Matt… Elliot… - Cô đến trễ, - Matt Baker càu nhàu. Đây là một người đàn ông lùn tè, tóc xám, vừa bước qua tuổi năm mươi, bộ dạng cộc cằn nóng nảy nhưng bù lại có đầu óc năng động và vô cùng sáng suốt. Bộ đồ vest của Matt trông nhàu nhĩ như thể ông ta đã mặc nó đi ngủ, và Dana ngờ rằng đó hoàn toàn là chuyện có thật. Ông ta điều hành WTN, bộ phận truyền hình của Diễn đàn doanh nghiệp Washington. Elliot Cromwell đã ngoài sáu mươi, vẻ thân thiện cởi mở với nụ cười thường trực trên môi. Đó là tỷ phú, và có đến hàng tá các bài khác nhau miêu tả việc ông ta đã có được số tài sản khổng lồ đó như thế nào. Trong lĩnh vực kinh doanh truyền thông, nơi mà mục đích chính là truyền bá thông tin, Elliot Cromwell vẫn là một con người bí ẩn. Ông ta nhìn Dana và nói: - Matt bảo rằng chúng ta đang giã cho các đối thủ nhừ tử. Hiệu suất làm việc của chúng ta vẫn tiếp tục tăng cao. - Tôi rất vui khi biết tin này, Elliot. - Dana, tối nào tôi cũng xem nhiều bản tin khác nhau, nhưng của cô bao giờ cũng có sự khác biệt lớn so với những cái kia. Tôi không biết rõ tại sao, nhưng tôi thích điều này. Dana có thể cho Elliot Cromwell biết nguyên nhân. Những bản tin kia chỉ đơn giản là - thông báo tin tức cho hàng triệu khán thính giả. Còn Dana thì quyết định biến nó thành một cái gì đấy riêng tư hơn. Trong tâm trí nàng, đêm nay, nàng sẽ nói với một quả phụ cô đơn, đêm mai, với một người bệnh nằm bất lực trên giường, đêm mốt, với một người bán hàng đang sống cách xa gia đình. Bản tin của nàng bao giờ cũng toát lên giọng điệu thân tình và ngầm chia sẻ, vì vậy người ta yêu thích chúng và hưởng ứng chúng một cách nhiệt tình. - Tôi biết đêm nay cô sẽ phỏng vấn một vị khách đặc biệt thú vị, - Matt Baker nói. Dana gật đầu. - Là Gary Winthrop. Gary Winthrop là vị hoàng tử quyến rũ đối với toàn thể Mỹ quốc, thành viên của một trong những dòng họ xuất sắc nhất đất nước. Anh ta còn trẻ, đẹp trai và hết sức lôi cuốn. - Winthrop không thích công khai về đời tư, - Cromwell lên tiếng. - Làm sao mà cô lại thuyết phục được anh ta? - Chúng tôi có cùng một sở thích, - Dana trả lời. Cromwellcau mày. - Thật không? - Thật. - Dana mỉm cười. - Tôi thích xem tranh của Monets và Van Goghs, còn anh ta thì thích mua chúng. Thành thật mà nói, trước đây tôi đã phỏng vấn anh ta, và từ đó chúng tôi trở nên thân thiết. Chúng ta sẽ cho phát cuốn băng có những tin tức mới về anh ta, rồi sau đó là cuộc phỏng vấn của tôi. - Tuyệt vời, - Cromwell cười rạng rỡ. Họ dành một tiếng đồng hồ tiếp theo để bàn bạc về chương trình mới của đài, có tên là Đường dây tội ác.Mục đích của chương trình này là sửa chữa sự bất công đã phán xét và nhắc lại những vụ án nổi tiếng đã được khám phá. - Hiện nay đang có rất nhiều chương trình thực tế trên đài, - Matt cảnh cáo, - vì thế chúng ta phải tỏ ra nổi trội hơn họ. Tôi muốn ta hãy bắt đầu bằng một sự tình cờ. Có thể chuyện này sẽ thu hút được sự chú ý của khán giả và… Hệ thống liên lạc nội bộ reo lên. Matt Baker nhấn một nút. - Tôi đã bảo cô rồi, không nhận một cú điện thoại nào cơ mà. Sao lại… Giọng của Abbe vang lên. - Tôi xin lỗi. Đây là của cô Evans. Trường học của Kemal gọi tới. Có vẻ khẩn cấp lắm. Matt Baker nhìn Dana. - Đường dây số một. Dana nhấc ống nghe, tim đập mạnh. - Alô… Kemal không sao chứ ạ?. - Nàng nghe một lát. - Tôi hiểu… tôi hiểu… Vâng, tôi sẽ đến ngay. - Nàng dập máy. - Chuyện gì vậy? - Matt hỏi. Dana trả lời. - Họ muốn tôi đến đón Kemal về. Elliot Cromwell cau mày. - Đứa bé mà cô mang từ Sarajevo về à? - Vâng. - Cả một câu chuyện dài đây. - Vâng. - Dana miễn cưỡng trả lời. - Có phải cô tìm nó, còn sống, trong một khu đất hoang. - Đúng vậy, - Dana trả lời. - Nó có bệnh tật gì hay sao? - Không. - Dana trả lời một cách cứng nhắc, vẻ như không muốn nói về những ngày tháng đó. - Kemal bị mất một cánh tay. Do bom gây ra. - Và… Cô nhận nó làm con nuôi?! - Không hẳn là vậy, Elliot. Tôi chỉ sắp sửa làm thế thôi. Còn bây giờ, tôi là người bảo trợ của nó. - Được, vậy cô cứ đi đi. Chúng ta sẽ bàn bạc về Đường dây tội ác sau. Khi Dana đến trường trung học Theodore Roosevelt, nàng đi ngay vào văn phòng gặp trợ lý hiệu trưởng, Vera Kostoff, ngoài năm mươi, tóc xám, điệu bộ hấp tấp, vẻ mặt lo lắng đang ngồi phía sau bàn làm việc. Đối diện với bà ta là Kemal. Trông nó có vẻ nhỏ hơn tuổi mười hai của mình, gầy gò và xanh xao, mớ tóc vàng bù xù và cái eằm bướng bỉnh. Nơi cánh tay phải là một ống tay áo trống khống. Thân hình mỏng mảnh của nó dường như đã bị căn phòng làm cho bé lại. Lúc Dana bước vào, không khí trong phòng đang rất nặng nề. - Chào bà Kostoff, - Dana nhẹ nhàng lên tiếng. - Kemal. Kemal nhìn chằm chằm vào đôi giày của nó. - Tôi được biết có chuyện gì đó đã xảy ra. - Dana tiếp tục. - Vâng, chính xác là như thế, cô Evans. - Bà ta trao cho nàng một mảnh giấy. Dana nhìn nó, bối rối. Trên đó viết: Vodja, Pizda, zbosti, fukati, nezakonski otrok, umreti, tepec. Nàng ngước lên. - Tôi… tôi không hiểu. Đây là tiếng Serbi, phải không? Bà Kostoff sin sít trả lời: - Vâng, đúng thế. Thật không may cho Kemal là tôi cũng là người Serbi. Đó là những từ mà em đã nói trong trường. - Mặt bà ta đỏ bừng. - Ngay cả cánh lái xe tải người Serbi cũng không nói thế, cô Evans, và tôi không thể tưởng tượng những lời lẽ như vậy lại được thốt ra từ mồm của đứa trẻ này. Kemal gọi tôi là một pizda. Dana nhắc lại: - Một pi… - Tôi hiểu rằng Kemal còn xa lạ với đất nước chúng ta, và tôi cũng đã rất chiếu cố đến điều này, nhưng… biểu hiện của nó thật đáng bị khiển trách. Nó thường xuyên tham gia các vụ đánh lộn và khi tôi trách phạt nó, vào sáng nay, nó đã… lăng mạ tôi. Như thế là quá lắm rồi. Dana khéo léo đáp. - Tôi chắc rằng bà hiểu hoàn cảnh khó khăn của nó, bà Kostoff, và… - Tôi đã nói rồi, tôi luôn chiếu cố, nhưng hình như nó đang định thử thách sự nhẫn nại của tôi. - Tôi hiểu. - Dana nhìn sang Kemal. Nó vẫn nhìn xuống đất, mặt mũi sưng sỉa. - Tôi hy vọng đây sẽ là vụ rắc rối cuối cùng, - bà Kostoff nói. - Tôi cũng vậy. - Dana đứng lên. - Đây là bảng thành tích học tập của Kemal. - Bà Kostoff mở ngăn kéo, lấy một tờ giấy ra và đưa cho Dana. - Cám ơn. - Dana nói. Trên đường về nhà, Kemal hoàn toàn yên lặng. - Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Dana hỏi, - Tại sao cháu cứ thích đánh nhau, và tại sao cháu lại nói những từ như thế chứ? - Cháu không biết là bà ta nói được tiếng Serbi. Khi cả hai về đến căn hộ của Dana, nàng nói: - Cô phải trở về phòng thu, Kemal. Cháu ở nhà một mình, được chứ? - Word. Lần đầu tiên Kemal nói thế với nàng, Dana tưởng rằng nó không hiểu ý mình, nhưng nàng nhanh chóng nhận ra đây là một kiểu tiếng lóng của bọn trẻ. Word có nghĩa là "vâng, phải" dùng để chỉ người thuộc giới tính kia… Dana lôi bảng kết quả học tập mà bà Kostoff đưa ra xem. Môi nàng mín lại, Lịch sử: D, Tiếng Anh: D. Khoa học tự nhiên: D. Khoa học xã hội: F. Toán: A. Nhìn bảng kết quả, Dana nghĩ, ồ, Chúa ơi, Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Chúng ta sẽ bàn chuyện này vào lúc khác, - nàng nói - Cô trễ giờ rồi. Đối với Dana, Kemal vẫn luôn là một điều bí ẩn. Khi ở bên nàng, nó cư xử rất có lễ phép, còn tỏ ra dễ thương, chu đáo và quan tâm. Vào các ngày cuối tuần, Dana và Jeff đưa nó đi chơi khắp Washington. Họ đến Vườn thú quốc gia, nơi có vô vàn các loại thú hoang quý hiếm, say sưa quan sát những con gấu trúc khổng lồ độc đáo. Họ tham quan Viện bảo tàng không gian và vũ trụ quốc gia, và Kemal được trông thấy chiếc máy bay đầu tiên của anh em Wright đung đưa trên trần nhà, rồi họ đi qua khu Skylab để sờ vào những hòn đá mang từ mặt trăng về. Họ đến trung tâm Kennedy và sân khấu Arena. Hai người giới thiệu với Kemal món pizza ở quán Tom Tom, món tacos ở quán Mextec, món gà rán phương Nam ở Georgetowns. Kemal yêu quý quá từng giây phút vui vẻ đó. Nó thật sự hạnh phúc khi có Dana và Jeff ở bên. Nhưng… mỗi khi Dana phải đi làm, Kemal trở thành một người khác hẳn. Nó tỏ ra chống đối và thù địch với tất cả. Dana cũng không tiện giao nó cho những người đến giúp việc, và những người đến trông đã kể những câu chuyện ghê gớm về những buổi tối ở cùng Kemal. Jeff và Dana đã cố giải thích khuyên bảo nó, nhưng vô hiệu. Có lẽ nó cần một sự trợ giúp đặc biệt, Dana nghĩ. Nàng không biết gì về những nỗi sợ hãi kinh khủng luôn bám riết lấy Kemal. Bản tin tối của WTN đã bắt đầu. Richard Melton, đồng sự bảnh bao của Dana và Jeff Connors ngồi phía sau nàng. Dana Evans đang nói: "… theo các tin tức quốc tế, Anh và Pháp vẫn đang gặp nhiều khó khăn với căn bệnh bò điên… đây là những thông tin của René Linaud từ Reims". Trong phòng điều khiển, đạo diễn Anastasia Mann ra lệnh: - Chuyển cảnh. Trên màn hình giờ là cảnh nông thôn nước Pháp. Cửa phòng thu bật mở và một nhóm người bước vào. Mọi người ngước nhìn lên. Tom Hawkins, một đạo diễn trẻ nhiều tham vọng của mục tin tức buổi chiều lên tiếng: - Dana, cô quen Gary Winthrop à? - Dĩ nhiên. Ở ngoài, Gary Winthrop còn đẹp trai hơn trong ảnh nhiều. Anh ta trạc tuổi bốn mươi, cặp mắt xanh sáng, nụ cười ấm áp và có sức quyến rũ kỳ lạ. - Chúng ta lại gặp nhau, Dana. Cám ơn vì đã mời tôi. - Hoan nghênh sự có mặt của anh. Dana nhìn quanh. Nửa tá thư ký bỗng nhiên tìm được lý do đột xuất để có mặt trong phòng thu. Gary Winthrop hẳn là đã quen với cảnh này rồi. Dana nghĩ, chợt cảm thấy vui vui. - Vài phút nữa là đến phần của anh rồi. Tại sao không ngồi xuống đây, cạnh tôi nhỉ? Đây là Richard Melton. Hai người đàn ông bắt tay nhau. - Anh biết Jeff Connors rồi, phải không? - Dĩ nhiên. - Rồi Gary đùa luôn. - Anh nên ra ngoài làm việc đi, Jeff, đừng có ngồi tào lao mãi. - Vâng, tôi cũng đang định làm như vậy đấy. Cảnh quay về nước Pháp đã kết thúc và tiếp theo là chương trình quảng cáo. Gary Winthrop lặng lẽ ngồi xem cho đến hết. Từ phòng điều khiển, Anastasia Mann nói: - Chuẩn bị, chúng ta sẽ phát cuốn băng. - Bà ta lặng lẽ đếm ngược bằng các ngón tay của mình. - Ba… hai… một… Trên màn hình giờ đây là quang cảnh bên ngoài của Bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Một phóng viên đang cầm chắc lấy chiếc microphone, bất chấp cơn gió lạnh buốt. "Chúng tôi đang đứng trước bảo tàng nghệ thuật Georgetown, nơi ông Gary Winthrop đang tổ chức trao một món quà trị giá năm mươi triệu đôla cho viện bảo tàng. Nào, chúng ta hãy cùng vào trong". Bây giờ là cảnh nội thất tráng lệ của viện bảo tàng. Vô số quan chức, nhân viên cấp cao và phóng viên đang vây chặt lấy Gary Winthrop. Ông giám đốc bảo tàng, Morgan Ormond trao cho anh ta một tấm bằng lớn. - Ông Winthrop, thay mặt cho viện bảo tàng, cho hàng triệu khách tham quan đến đây, và cho ban quản trị viện, chúng tôi xin chân thành cám ơn sự đóng góp vô cùng to lớn này của ông. Đèn flash thi nhau loé sáng. Gary Winthrop trả lời: - Tôi hy vọng việc này sẽ giúp các hoạ sĩ trẻ nước Mỹ có cơ hội tốt hơn để không chỉ thể hiện bản thân mà còn giới thiệu được tài năng của họ ra toàn thế giới. Tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Phóng viên trong cuốn băng nói: - Đây là Bill Toland, tại bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Trở về phòng thu chứ, Dana? Đèn đỏ của camera bật sáng. - Cảm ơn Bill. Chúng ta thật may mắn vì đã mời được ông Gary Winthrop đến đây cùng nói chuyện về món quà tuyệt vời của ông. Máy quay lia một cú rộng và hình Gary Winthrop ngồi trong phòng thu đã xuất hiện trên màn hình. Dana lên tiếng: - Món tiền năm mươi triệu đôla này, ông Winthrop, sẽ được dùng để mua tranh cho viện bảo tàng chứ? - Không. Đây là một sự bảo trợ mới dành cho những hoạ sĩ trẻ người Mỹ, những người không thể, hay nói một cách khác là không có cơ hội được thể hiện những gì mà họ có. Một phần của số tiền sẽ được dùng để hỗ trợ những em học sinh có năng khiếu ở các thành phố thuộc bang. Có rất nhiều em nhỏ lớn lên mà không có chút kiến thức nào về nền nghệ thuật của nước mình. Chúng có thể biết đến trường phái ấn tượng Pháp, nhưng tôi muốn chúng nhận thức rõ hơn về những di sản của chính chúng, với những hoạ sĩ Mỹ như Sargent, Homer và Remington. Nói tóm lại, số tiền này dùng để cổ động các hoạ sĩ trẻ phát huy hết tài năng của họ cũng như dành cho tất cả những bạn trẻ nào có hứng thú với nghệ thuật. - Có tin đồn rằng ông đang dự tính chạy đua vào Nghị viện, ông Winthrop. Đây có phải là sự thật không? - Dana hỏi. Gary Winthrop mỉm cười: - Tôi đang nắn gân mọi người đấy. - Thật là thú vị. Theo kết quả bỏ phiếu thử mà chúng tôi đã xem qua, thì ông đang dẫn đầu. Gary Winthrop gật đầu. - Gia đình tôi đã có một bảng thành tích dài về việc phục vụ chính phủ rồi. Nếu như tôi có được chút hữu dụng nào với đất nước thì, tôi xin làm bất cứ việc gì mà Chính phủ yêu cầu. - Xin cảm ơn sự có mặt của ông, ông Winthrop. - Cảm ơn. Gary Winthrop chào tạm biệt và rời phòng thu trong lúc phát quảng cáo. Jeff Connors, ngồi cạnh Dana nói: - Chúng ta cần nhiều người như anh ta ở trong Quốc hội hơn! - Chúa ơi. - Chúng ta có thể nhân bản anh ta. À mà… Kemal sao rồi? Dana nhăn mặt. - Jeff… làm ơn đừng bỏ cả Kemal và nhân bản vào cùng một rọ. Em không chịu nổi đâu. - Vẫn còn bị ảnh hưởng bởi chuyện sáng nay à? - Ừ, nhưng chỉ hôm nay thôi. Ngày mai sẽ… Anastasia Mann nói: - Trở lại nào. Ba… hai… một… Đèn đỏ bật sáng. Dana nhìn về phía ống kính. "Sau đây là phát thanh viên Jeff Connors với phần tin thể thao". Jeff nhìn vào ống kính và bắt đầu nói: "Hôm nay, trận bóng rổ giữa hai đội…" Vào lúc hai giờ sáng, trong căn nhà của Gary Winthrop ở khu tây bắc Washington, hai người đàn ông đang gỡ những bức tranh trên tường phòng khách xuống. Một người đeo mặt nạ, Lone Ranger, còn người kia là đại uý Midnite. Họ làm với vẻ ung dung hết mức, lôi từng tờ tranh khỏi khung kính và nhét vào chiếc bao bố to sụ. Lone Ranger nói: - Mấy giờ thì xe tuần mới quay lại? Đại uý Midnite trả lời: - Bốn giờ. - Họ thật tốt bụng khi hẹn đầy đủ giờ giấc với chúng ta, nhỉ? Đại uý Midnite nhấc một bức tranh trên tường và đập nó xuống nền nhà lát gỗ sồi, gây ra một tiếng động lớn. Hai người dừng lại một lát và nghe ngóng. Yên lặng. Lone Ranger nói: - Lại lần nữa. Đập mạnh vào. Đại uý Midnite lấy một bức tranh khác và ném mạnh xuống sàn. - Nào, xem chuyện gì xảy ra nhé. Trên giường ngủ ở tầng trên, Gary Winthrop bị tiếng ồn làm thức giấc. Anh ta ngồi hẳn lên. Mình đã nghe thấy tiếng động, hay chỉ là mơ thấy nó? Anh ta lắng nghe một hồi lâu. Vẫn yên lặng. Không chắc lắm, anh ta đứng dậy, bước ra hành lang và bật đèn. Hành lang vẫn tối om. - Này. Có ai ở dưới đó không? - Không có tiếng trả lời. Đi xuống lầu, anh ta bước dọc theo hành lang cho đến cửa phòng khách. Anh ta dừng lại và ngó sững hai người đàn ông đeo mặt nạ với vẻ hoài nghi. - Các anh làm cái quái gì ở đây thế này? Lone Ranger quay sang anh ta và nói: - Chào Gary. - Xin lỗi vì đã đánh thức ông dậy. Hãy đi ngủ tiếp đi. Không một tiếng động, khẩu Beretta xuất hiện trên tay hắn. Hắn đẩy cò hai lần và một màu đỏ lòm bắn tung toé ra từ ngực Gary. Lone Ranger và đại uý Midnite nhìn cái xác của Gary Winthrop đổ ập xuống nền nhà. Hài lòng, chúng quay lưng và tiếp tục hoàn thành nốt việc lấy đi các bức tranh. ... Mời các bạn đón đọc Bầu Trời Sụp Đổ của tác giả Sidney Sheldon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sắc Đẹp Chết Người
Chính xác hơn là từ một cú tông xe từ chiếc Buick dù người lái xe còn là một ẩn số thì ý định giết người đã quá rõ ràng. Sau tất cả mọi chuyện, người chồng cũ của Blair và cộng sự là cô vợ giết người của anh ta hiện đang còn trong nhà tù. Và thậm chí cả Wyatt Bloodsworth, thám tử cảnh sát người-sắp-thành-chú-rể, cũng không tin cô đang là mục tiêu tấn công một lần nữa. Mọi điều khiến Blair tự hỏi có phải vụ suýt chết của cô chỉ đơn giản là một tai nạn rủi ro hay không. Nhưng sự ngạc nhiên đó không còn tồn tại khi cô thoát khỏi tay thần chết lần nữa trong một tai nạn tưởng chừng như vô tình. Blair trải qua hai vụ việc đó mới làm cô tin rằng cô đang bị kẻ khác đe dọa. Và đáng ngại hơn là Wyatt vẫn còn nghi ngờ cô. Có nghĩa là tại thời điểm này, không một đối tượng nào được xem là tình nghi theo dõi Blair. Cô lên kế hoạch tóm lấy kẻ đang muốn ám sát cô – trước khi bất kỳ một ai khác làm cô gục xuống. *** Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. Linda Howard nói rằng từ lâu sách đã đóng một vai trò to lớn trong cuộc đời bà, dù là để đọc hay viết. Tác giả tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên bà đọc là Margaret Mitchen và kể từ đó trở đi bà đọc rất nhiều với tất cả đam mê. Trong những năm gần đây, mối quan tâm của bà tập trung chủ yếu vào dòng tiểu thuyết lãng mạn, bởi bà “dễ dàng thấy chán chuyện giết người, bạo lực và chính trị”. Sau hai mươi mốt năm viết truyện chỉ để mua vui cho mình, rốt cuộc Howard đã gom đủ dũng cảm để gửi một tiểu thuyết tới nhà xuất bản - và lập tức thành công. Nhà văn gốc Alabama giờ đã trở thành người nhiều lần xuất hiện trong danh sách tác giả sách bán chạy nhất của tờ New york Times. Tác phẩm của Linda Howard gồm có: Against The Rules (Tiếng Việt) Almost Forever (Tiếng Việt) An Independent Wife (Tiếng Việt) Angel Creek (Tiếng Việt) Băng Đá Bluebird Winter (Tiếng Việt) Cầu Vồng Lúc Nửa Đêm Con Gái Của Sarah Con Trai Của Bình Minh Đêm Định Mệnh Đừng Nói Mãi Mãi Duncan's Bride (Tiếng Việt) Đường Về Nhà Giã Từ Nước Mắt Hẹn Hò Theo Kiểu Của Em Kill And Tell (Tiếng Việt) Lời Dối Gian Chân Thật Người Vợ Độc Lập Những Điều Hào Nhoáng Núi Tình Quý Bà Miền Tây Quý Ông Hoàn Hảo Sắc Đẹp Chết Người Sắc Màu Hoàng Hôn The Cutting Edge (Tiếng Việt) Thiên Sứ Tử Thần Thiêu Hủy Tội Ác Trong Mơ Trăng Xanh Tưởng Chừng Mãi Mãi Vịnh Kim Cương ... *** Tên tôi là Blair Mallory, và tôi chuẩn bị kết hôn, nhưng Ba vị thần mệnh chẳng thèm hợp tác… Tôi ghét cay ghét đắng họ, hử? Chẳng qua cũng chỉ là những mụ già phản trắc vô tri vô giác câm lặng mà thôi. Tôi ngồi tại bàn ăn, mắt nhìn chằm chằm vào cuốn lịch, kiểm tra tất cả các ngày rảnh rỗi còn lại không vướng vào các ngày có hẹn nào trong xấp giấy xếp lịch làm việc giăng đầy trên bàn: của tôi, của Wyatt, của bố mẹ, của các cô em, của mẹ Wyatt, của chị gái Wyatt, của các con và chồng chị ấy… nhiều đến nỗi chẳng thấy hồi kết thúc. Không hề có ngày nào rảnh cho tất cả trừ ngàysau lễ Giáng Sinh mà rõ ràng không thể nào là ngày cưới của tôi được. Nếu chúng tôi cưới vào ngày sau Giáng sinh thì các ngày lễ kỷ niệm sau này của tôi sẽ tẻ ngắt đến chết mất,, vì hẳn Wyatt sẽ tặng cho tôi bất cứ thứ gì mà anh có thể nghĩ ra. Không đời nào. Tôi không phá hỏng bản thân mình đâu. ‘Em đang phùng mang trợn mắt đấy.” Wyatt quan sát mà không thèm rời mắt khỏi bản báo cáo anh đang đọc. Tôi cho đó là một loại báo cáo nào đó của cảnh sát, vì anh là trung úy của lực lượng cảnh sát địa phương, nhưng tôi không thèm mở miệng hỏi lấymột câu. Tôi sẽ đợi cho đến lúc anh rời khỏi phòng để đọc tập giấy ấy, điều đó cho thấy nó có liên quan đến một người tôi quenbiết. Bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên về những việc một số người sẽ làm, những người mà bạn sẽ không thể nghĩ được trong cả triệu năm nữa sẽ tạo ra nhiều phiền toái; tôi dứt khoát là đã được mở mắt từ khi tôi hẹn hò với Wyatt – ờ, đúng ra là từ khi tôi đọc được các bản báo cáo của anh, thử nghĩ đi, dầu sao đi chăng nữa cũng là trước cuộc hẹn hò của chúng tôi. Cặp kè với một cảnh sát thật có nhiều ích lợi, đặc biệt là với một người có chức vụ khá cao. “Anh cũng sẽ phùng mang trợn mắt nếu phải cố mà xử lý cho xong cái đống lịch công việc chồng chéo này thay vì chỉ việc ngồi đó mà đọc thôi.” “Anh đang làm việc,” anh vặn lại, thú nhận rằng anh thực đang đọc một loại báo cáo nào đó ; Tôi chỉ hy vọng là nó hay ho, vàrằng nó sẽ bị để quên đấy khi anh đi vào phòng tắm hay vào đâu đó. “Em sẽ không gặp bất kỳ rắc rối nào với những tờ giấy ấy nếu như em làm theo gợi ý của anh.” Gợi ý của anh là tổ chức ở Gatlinburg, một tiệc cưới giản dị và chả cần đồ đạc váy xống gì nhiều. Giải quyết vụ tiệc cưới thì dễthôi, nhưng đã từng trải qua công cuộc khăn gói cho một sự kiện quan trọng, tôi đã học được một bài học đắt giá: bạn luôn có cái để mà quên. Tôi không muốn trong ngày cưới của mình phải chạy loanh quanh cố tìm thứ thay thế cho vật mà tôi lỡ quên béng đi mất. “Hay chúng ta tổ chức cưới ngay tại trụ sở tòa án ở đây?” Anh đề nghị. Đàn ông thật chẳng có nổi một cái xương sườn lãng mạn trong người, mà thật ra thì tốt thôi, vì tôi cũng không lãng mạn cho lắm, ướt át quá chỉ tổ làm tăng thêm trạng thái kích động mà thôi. HƠn nữa, tôi thừa biết tiến trình Giải Quyết Mọi Chuyện Thế Nào,và tôi muốn có những bức ảnh để còn khoe mẽ với đám con cháu sau này. Và tôi cần phải nhấn mạnh thêm, sinh nhật lần thứ ba mươi mốt của tôi đã đến và đã qua, đưa tôi đến rất gần với phương pháp chọc ối (khi sinh con). Bất kỳ em bé nào mà tôi sinh ra, tôi muốn sinh chúng trước khi bước vào thời kỳ mà bác sỹ sản khoa nào cũng tự động chỉ định phương pháp chọc ối để bảo toàn mạng sống và tránh nỗi sợ bị kiện tụng sau này.Tôi không muốn bị một cái kim dài ngoẵng chọc vào trong bụng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nó đụng vào mắt hay bất kỳ phần thân thể nào của con tôi?Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cái pitton (gây mê) đâm vào cột sống của tôi? Trong truyện Peter Pan, con cá sấu nuốt nguyên một cái đồng hồ và bạn có thể kể rằng con cá sấu đó càng tiến lại gần thì tiếng tích tắc trong bụng nó càng rõ? Cái đồng hồ sinh học trong tôi đang kêu tích tắc giống y như con cá sấu chết tiệt đó đấy. Hoặc nó là một con cá sấu Mỹ. Chả vấn đề gì. Thay vì kêu “tick-tock” thì nó chuyển thành “Amnio” (từ này hoàn toàn chẳng hợp với nhịp “tick-tock” chút nào.) và tôi đang gặp ác mộng vì chuyện này. * Amnio: Viết tắt của Amniocentesis (phương pháp chọc ối). Ở đây ngụ ý thay vì cái đồng hồ kêu tích tắc thì đồng hồ sinh học của Blair kêu “Chọc ối, chọc ối”, nghe ác mộng thật rồi. Tôi phải cưới thật nhanh, để quẳng cho hết cái đống thuốc tránh thai của mình đi. Còn Wyatt chỉ việc ngồi kia mà đọc bản báo cáo chết tiệt của anh trong khi tôi gần như khủng hoảng đến mức thét lác loạn cả lên. Anh thậm chí còn không cố làm tôi vui bằng cách nói cho tôi biết có gì trong đó vì thế tôi nảy ra một ý tưởng hay ho là liệusau đó tôi có cần phải nghiên cứu để biết thêm chi tiết hay không– anh chưa từng để tôi làm thế. Anh là một gã tham lam tuyệt đốikhi dính dáng đến công việc có liên quan đến nghề nghiệp cảnh sát của mình, giữ tất cả làm của riêng. ‘Em bắt đầu cho là điều này sẽ chẳng bao giờ xảy ra, chúng ta sẽ không lấy được nhau.” Tôi rầu rĩ nói, quăng cái bút xuống mặt bàn. Mời các bạn đón đọc Sắc Đẹp Chết Người của tác giả Linda Howard.
Án Mạng Trên Sân Golf
Một bức thư kêu cứu kéo thám tử Hercule Poirot tới Pháp. Nhưng anh đến quá trễ. Khách hàng của anh đã chết. Cái xác bị đâm dã man giờ nằm sấp mặt trong một cái hố nông trong sân golf đang xây. Nhưng vì sao người chết lại mặc một chiếc áo choàng quá khổ? Và bức thư tình ngọt ngào trong túi áo khoác viết cho ai? Trước khi Poirot kịp trả lời những nghi vấn này thì vụ án bị lật ngược khi cái xác thứ hai được phát hiện, cách thức giết người y như lần đầu. *** Review Phong: Vị thám tử nhỏ bé người Bỉ Hercule Poirot nhận được một bức thư cầu cứu từ ông triệu phú Renauld đang sinh sống tại Pháp, ông ta đề cập đến việc mình đang giữ một bí mật và có người muốn mưu sát ông để bí mật đó mãi mãi được giữ im lặng. Nhưng khi Poirot cùng người bạn đồng hành là đại úy Hastings đến ngôi biệt thự nơi Renauld đang sinh sống thì hay tin ông ta đã bị đâm chết sáng hôm đó. Cảnh sát điều tra tìm thấy một bức thư tình đề tên người gửi là Bella trong túi áo khoác của Renauld, cùng một mẩu ngân phiếu có tên Duveen trong phòng làm việc của ông ta. Khi Poirot lên đường đi Paris để tìm những thông tin liên quan đến vụ án thì lúc về ông được Hastings cho hay lại có thêm một cái xác bị đâm tại khuôn viên trong biệt thự của ông Renauld. Khác với lần trước, nạn nhân thứ hai này là một người hoàn toàn xa lạ mà không ai nhận diện được người này là ai. Cuộc điều tra càng kịch tính hơn với màn đấu trí giữa Hercule Poirot - người quan tâm đến bản chất vụ án để tìm ra lời giải thích cuối cùng, và ông thám tử người Pháp Girauld - người quan tâm đến những bằng chứng hữu hình để tìm ra thủ phạm. Cuốn này là một bằng chứng rõ ràng cho nhận định: “Tiểu thuyết cổ điển thường dài dòng, chậm rãi và khiến người đọc mệt mỏi, nhưng vượt qua được giai đoạn đó rồi thì phần còn lại sẽ rất hay”. Mạch truyện khá từ từ, nhưng tác giả vẫn rất công bằng khi gieo rắc những chi tiết tưởng chừng nhỏ khiến người đọc không chú ý đến nhưng lại liên quan mật thiết đến vụ án. Thông thường, phần phá án trong các truyện của Agatha diễn ra ở 20 - 30 trang cuối, nhưng cuốn này lại khá đặc biệt: Đến trang 230, bạn có thể thấy toàn bộ vụ án đã được giải quyết rất thuyết phục rồi, nhưng khoảng 40 trang cuối những diễn biến mới liên tục được đưa vào và khiến kết quả quay ngoắt 360 độ, chắc chắn sẽ khiến bạn ngạc nhiên và thầm thán phục tài năng tạo twist của nữ hoàng truyện trinh thám. Khi bạn tưởng như mình đã nắm mọi thứ trong tay, thì Agatha tuyên bố: “Cưng nghĩ cưng bắt bài được motif truyện của chị? Còn khuya!” Điều mình không thích nhất trong truyện là dàn nhân vật có phần mờ nhạt và chưa tạo được điểm nhấn riêng. Và mình không thể ưa nổi thủ phạm của vụ này: quyết đoán, nhanh nhẹn và hơn hết là quá ác. “Án mạng trên sông Nile” có kiểu thủ phạm với tính cách tương tự như cuốn này nhưng mình lại thích thủ phạm trong truyện đó hơn nhiều. Đây là một cuốn không hề dễ đọc dành cho các bạn mới đọc truyện của Agatha, vì như mình đã nói, diễn biến phần lớn truyện tiến triển khá chậm, nhưng vẫn là một cuốn hay và đáng đọc, các fan của Agatha thì chắc chắn không thể bỏ qua. Nếu đây là cuốn đầu tiên của Agatha mà mình đọc thì mình thấy nó rất hay, nhưng do đã đọc được một số truyện của bà rồi nên tất nhiên không tránh khỏi có sự so sánh giữa các cuốn với nhau. Về độ hay mình nghĩ nó ngang ngửa với “Chuỗi án mạng ABC”, nhưng vì một số lý do mà mình lại có cảm tình với “Chuỗi án mạng ABC” hơn, vì lẽ đó mà mình chỉ có thể chấm “Án mạng trên sân golf” 3 sao trên obook thôi, nhưng nhìn chung vẫn cảm thấy hài lòng với khoảng thời gian 2 ngày đọc nó. Đánh giá: 3,5/5 *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Có một giai thoại kể rằng, một nhà văn trẻ quyết tâm làm cho câu chuyện của mình thật độc đáo nhằm thu hút sự chú ý của ngay cả những biên tập viên hờ hững nhất, đã mở đầu bằng câu: “Kệ thây! nữ công tước thốt lên.” Thật lạ đời, câu chuyện của tôi cũng bắt đầu gần đúng như thế. Chỉ có điều cô nàng thốt lên cái câu ấy chẳng phải nữ công tước. Đó là một ngày đầu tháng Sáu. Tôi vừa giải quyết xong vài việc ở Paris và bắt chuyến tàu sớm trở về London, nơi tôi vẫn đang sống cùng người bạn lâu năm là cựu thám tử người Bỉ – Hercule Poirot. Hôm ấy chuyến tàu tốc hành Calais trống vắng khác thường, cả khoang tàu này chỉ có tôi và một người nữa. Do rời khách sạn tương đối vội vã nên lúc tàu khởi hành, tôi còn bận kiểm tra mớ đồ đạc xem có quên gì không. Cho tới lúc đó, tôi gần như không để ý tới người đồng hành, nhưng bây giờ thì tôi buộc phải nhận ra sự có mặt của cô ta. Bởi vì cô ta vừa nhảy dựng lên khỏi ghế, hạ cửa sổ xuống, thò đầu ra ngoài rồi lập tức lại thụt vào và kêu lên: “Kệ thây!” Là tuýp người cổ điển nên với tôi, phụ nữ là phải thùy mị. Tôi chẳng ưa nổi những cô gái hiện đại loạn thần kinh cứ nhảy nhót suốt từ sáng đến tối, hút thuốc như ống bễ, còn nói năng thì đến cả mấy bà hàng cá ở Billingsgate cũng phải đỏ mặt. Tôi khẽ cau mày ngước lên. Trước mắt tôi là gương mặt vừa xinh xắn vừa xấc xược của một cô gái đội chiếc mũ đỏ ngang tàng, với những lọn tóc đen dày che khuất hai tai. Tôi đoán chừng cô ta chỉ mới hơn mười bảy tuổi, nhưng mặt thì đầy phấn còn môi thì đỏ chót. Cô gái đón nhận cái nhìn của tôi chẳng chút thẹn thùng, lại còn nhăn mặt tình tứ. “Cưng ơi, tụi mình làm quý ngài đây choáng rồi!” cô ta vờ như đang nói với một người khác. “Tôi xin lỗi vì cách ăn nói của mình. Chẳng đoan trang gì cả, nhưng… thật tình… tôi có lý do mà. Ngài có biết rằng tôi vừa lạc mất người em gái duy nhất của mình không?” “Vậy sao?” tôi nhã nhặn đáp. “Bất hạnh thật.” “Ông ấy mỉa mai cơ đấy!” cô nàng nhấm nhẳng. “Ông ấy mỉa mai, cả tôi lẫn em tôi. Mà thế thì thật bất công bởi vì ông ấy thậm chí còn chưa gặp con bé!” Tôi toan cất tiếng nhưng cô gái chặn ngay: “Đừng nói nữa! Chẳng ai thương tôi cả! Tôi sẽ ra vườn mà mổ sâu thôi! Hu hu. Đời tôi thế là tiêu rồi!” Nói đoạn cô ta núp luôn sau tờ báo biếm họa tiếng Pháp khổ lớn. Mấy phút sau, tôi thấy ánh mắt len lén nhìn mình qua tờ báo, khiến tôi chẳng thể nhịn cười. Và thế là cô gái lập tức đặt tờ báo xuống, bật cười giòn tan. “Tôi biết ngài không ngốc như vẻ bề ngoài mà!” Tiếng cười của cô nàng dễ lây tới nỗi tôi liền bị cuốn theo, dù chẳng bận tâm lắm tới từ ngốc. “Đấy! Giờ chúng ta là bạn rồi nhé!” cô gái ranh mãnh tuyên bố. “Hãy nói là ông rất tiếc vì chuyện em gái tôi đi…” “Tôi quả rất buồn lòng!” “Thế mới ngoan chứ!” “Để tôi nói nốt đã. Tôi đang định thêm rằng, dù rất buồn lòng, tôi sẵn sàng chịu đựng sự vắng mặt của cô đấy.” Tôi khẽ cúi đầu. Nhưng cái cô nàng kỳ quặc nhất trên đời ấy nổi giận và lắc đầu lia lịa. “Thôi ngay đi. Tôi thích cái trò ‘chê bai cao quý’ hơn đấy. Ôi trời, trông mặt ông kìa! Tỏ đúng cái thái độ ‘Không thuộc tầng lớp chúng ta’. Và chuyện đó thì ông đúng đấy - nhưng, xin nhắc ông rằng, ngày nay thì cũng khó mà nói được lắm. Không phải ai cũng phân biệt được một cô ả với một nữ bá tước đâu. Đấy, chắc tôi lại làm ông choáng nữa! Chắc người ta vừa mới khai quật được ông ở một chốn xa xôi hẻo lánh nào đấy, chắc chắn thế. Tôi thì chẳng để ý chuyện đó. Loại các ông có nhiều thêm một tí thì chúng tôi vẫn chịu được. Tôi chỉ không ưa nổi mấy gã thô bỉ bẩn thỉu thôi. Cái tính đó khiến tôi phát điên.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Lúc phát điên thì cô sẽ thế nào?” tôi mỉm cười hỏi. “Một con quỷ nhỏ điển hình! Không quan tâm mình nói gì, hay làm gì! Có lần suýt nữa tôi đã xử luôn một gã. Vâng, thật đấy. Gã cũng đáng bị thế lắm.” Mời các bạn đón đọc Án Mạng Trên Sân Golf của tác giả Agatha Christie.
Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu
Ngôi trường nữ học danh giá nhất nước Anh xảy ra liên tiếp nhiều vụ án mạng. Với nhiều học sinh xuất thân từ hoàng tộc và gia đình giàu có, liệu nhà trường có liên quan đếm âm mưu nào lớn hơn? Giữa những nữ sinh và giáo viên nữ hiền lành, kẻ sát thủ giấu mặt như con mèo rơi vào giữa đàn bồ câu. *** Review Phong: Trước khi lên đường ra nước ngoài nhằm tránh khỏi cuộc cách mạng của phe nổi dậy, vị Quốc vương của Ramat là Ali Yusuf đã tin tưởng giao số đá quý trị giá bảy trăm năm mươi ngàn bảng cho viên phi công riêng là Bob Rawlinson. Sau khi cân nhắc, Bob đã tìm đến chị gái Sutcliffe của anh đang nghỉ dưỡng tại một khách sạn của Ramat. Nhưng khi đến nơi thì người chị gái đã đi ra ngoài, không có thời gian chờ đợi vì cuộc cách mạng có thể diễn ra bất cứ lúc nào, bằng cách nào đó Bob đã đưa được số đá quý vào hành lý trong phòng người chị kèm theo một lời nhắn. Sau này, con gái của Sutcliffe là Jennifer được nhận vào học tại Meadowbank, trường nữ sinh danh giá nhất của nước Anh, cùng nhập học với cô bé còn có cái tên đáng chú ý: Công nương Shaista, em họ của Quốc vương Ali Yusuf. Cũng kể từ đây, liên tiếp những vụ giết người với đối tượng hướng đến là các cô giáo trong trường đã khiến danh tiếng của Meadowbank gần như hoàn toàn sụp đổ chỉ sau vài tuần bắt đầu kì học mới. Cuốn thứ 7 của tác giả Agatha Christie mà mình đọc. So với những cuốn rất hay của bà mình đọc gần đây thì cuốn này chỉ dừng ở mức đọc được, bà viết cuốn này khi đã 69 tuổi nên mình thấy thế là được rồi. Vụ án không hấp dẫn, có nhiều hơn một cái chết nhưng tình tiết rất bình thường chứ không nhanh và hấp dẫn như những cuốn mình đọc trước đây như “Ngôi nhà quái dị”, “Án mạng trên sông Nile” hay “Tận cùng là cái chết”. Phần phá án của Hercule Poirot có lẽ là phần mình thấy thú vị duy nhất trong truyện. Mình thích truyện kết thúc ở chương 24 hơn, đúng với phong cách những điều bất ngờ dồn dập đến ở khoảng 20 trang cuối của bà. Chương 25 giúp giải quyết toàn bộ vấn đề còn lại được đưa ra, mình đọc thấy hơi dài dòng và cũng không hứng thú lắm nhưng mình tôn trọng toàn bộ dụng ý mà bà đưa ra trong truyện. Cuốn này thực sự là một thảm họa về khâu biên tập, xứng đáng là cuốn sách đáng xấu hổ nhất của Trẻ mà mình hiện có. Trẻ là một NXB lớn, nắm bản quyền các tác phẩm của Agatha Christie nhưng tại sao họ có thể phát hành một cuốn sách đầy lỗi thế này thì mình không biết, những cuốn trước cuốn nào không ít thì nhiều cũng có lỗi, nhưng dày đặc thế này thì mình mới thấy lần đầu. Mình có kiểm tra lại lời nói đầu, thì đúng là họ cam kết đem đến những bản dịch tốt, hình thức đẹp chứ không nói gì đến việc biên tập kĩ lưỡng. Khi mình đề cập vấn đề này với admin fanpage NXB Trẻ thì nhận được phản hồi như hình dưới. Vậy hóa ra mỗi lần tái bản NXB chỉ in lại chứ không hề rà soát lỗi biên tập, trong khi việc này đã phải làm kĩ ngay khi phát hành. Không nói ra thì không chịu được vì sách của tác giả mình yêu thích lại không được quan tâm biên tập cho đúng mực, mà nói ra rồi lại thấy ức hơn vì giờ phải đọc lại toàn bộ sách, ghi chú lỗi lại với hy vọng ở lần tái bản sau, cuốn sách này sẽ được chăm chút tốt hơn. Tương lai nào cho những đứa con tinh thần của Agatha Christie khi được xuất bản tại Việt Nam … *** Review Lucy:   Tại Ramat sắp có cuộc bạo động và quốc vương nước này được sắp xếp tẩu thoát ra nước ngoài. Ông đưa cho bạn thân đồng thời là phi công một chiếc túi chứa đầy kim cương dặn dò tìm cách đưa số kim cương này thoát ra khỏi Ramat. Bởi quốc vương nhận thấy cuộc tẩu thoát lành ít dữ nhiều và ông không muốn kẻ thù nhặt lấy nó từ xác của mình. Chàng phi công đã lén nhét vào hành lí của cô cháu gái Jennifer vì cô sắp về Anh để đi học. Đúng như dự đoán. Máy bay bị gài bom phát nổ, quốc vương và phi công lao vào núi rồi chết. Số kim cương cùng cô cháu gái đến trường Meadowbank một ngôi trường nữ sinh danh giá nhất nước Anh. Tại đây xảy ra hàng loạt vụ bắt cóc, giết người nhằm mục đích chiếm đoạt số kim cương mà Jennifer vẫn không hay biết mình đang giữ. Chương mở đầu khá là rối vì giới thiệu một loạt nhân vật giáo viên, công nhân viên, học sinh, phụ huynh. Các nhân vật nối tiếp nhau xuất hiện khiến người đọc không nắm bắt kịp. Chương mở đầu không cung cấp manh mối gì nhiều chủ yếu dùng để phô chất riêng của tác giả. Nhưng cũng đừng lo vì chương sau đó sẽ tóm tắt lại các nhân vật chính và vai trò chủ chốt. Có nhiều tình tiết khá là dài dòng như chuyện cô Bulstrode dự định nghĩ hưu lặp lại suốt, đọc ngán luôn.Nhân vật ấn tượng nhất cũng là cô Bulstrode, một người hiệu trưởng thực sự có bản lĩnh và luôn ghét từ "tẻ nhạt" Mình chấm tác phẩm này 6/10 điểm. Cảm thấy bình thường, không quá thất vọng nhưng cũng không được như kỳ vọng *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Hôm ấy là ngày khai giảng kì học hè ở trường Meadowbank. Ánh chiều tà đổ xuống con đường lát sỏi rộng thênh trước tòa học xá. Cửa trước rộng mở vui đón khách, và ngay ở cửa, tương xứng một cách đáng ngưỡng mộ theo đúng tỉ lệ kiến trúc thời Georgia của tòa nhà là cô giáo Vansittart, tóc gọn gàng, áo khoác và váy được cắt may không chê vào đâu được. Một số bậc phụ huynh không biết rõ đã nhầm bà với bà Bulstrode, mà đâu hay bà Bulstrode có lệ rút lui vào cấm cung, ở đấy chỉ số ít bậc phụ huynh chọn lọc được hưởng đặc quyền mới được đón tiếp. Đứng cạnh cô Vansittart, đang điều hành ở một mức độ hơi khác là bà Chadwick, với vẻ tự tin, hiểu biết, và ở Meadowbank này bà đóng một vai trò lớn đến độ thật khó tưởng tượng trường Meadowbank lại không có bà. Chưa bao giờ ngôi trường này thiếu vắng bà. Bà Bulstrode và bà Chadwick đã cùng nhau khởi lập Meadowbank. Bà Chadwick đeo kính không gọng, đầu hơi cúi, ăn mặc không mấy cầu kỳ, giọng nói hòa nhã, và tình cờ thay lại là một nhà toán học xuất sắc. Những lời chào đón ân cần của cô Vansittart ân cần vang khắp tòa nhà. “Bà có khỏe không, thưa bà Arnold? Ồ, Lydia, chuyến đi tàu Hellenic của em có vui không? Thật là một cơ hội tuyệt vời! Em có chụp được nhiều ảnh đẹp không? “Vâng, thưa bà Garnett, bà Bulstrode đã nhận được thư của bà về Lớp Nghệ thuật, tất cả đã được thu xếp rồi. “Bà khỏe không, thưa bà Bird?… Ô? Tôi nghĩ hôm nay bà Bulstrode không có thời gian để bàn bạc chuyện này. Cô Rowan ở đây, bà có muốn nói chuyện với cô ấy về vấn đề này không? “Chúng tôi đã chuyển phòng ngủ của em rồi, Pamela ạ. Em giờ ở chái nhà phía xa, cạnh cây táo… “Vâng, quả vậy, thưa bà Violet, từ đầu mùa xuân tới giờ thời tiết thật kinh khủng. Cháu bé nhất nhà bà đây phải không? Tên cháu gì nhỉ? Hector hả? Cháu có máy bay đẹp thế, Hector. “Très heureuse de vous voir, Madame. Ah, je regrette, ce ne serait pas possible, cette après-midi. Mademoiselle Bulstrode est tellement occupée.Rất vui được gặp bà, thưa bà. Ồ, tôi rất tiếc chiều nay thì không thể rồi. Bà Bulstrode rất bận. “Xin chào giáo sư. Ngài có khám phá thêm được điều gì thú vị không?” Trong căn phòng nhỏ ở tầng một, Ann Shapland, thư ký của bà Bulstrode, đang đánh máy thoăn thoắt và chính xác. Ann năm nay ba lăm tuổi, vẻ ưa nhìn, mái tóc vừa vặn như chiếc mũ sa-tanh đen đội lên đầu. Nếu muốn, cô có thể trông quyến rũ hơn, nhưng cuộc đời đã dạy cô rằng năng lực và hiệu quả thường được trả công cao hơn vẻ ngoài, lại tránh được những phiền toái bực mình. Ở thời điểm này, cô đang tập trung vào tất cả mọi công việc mà một người thư ký hiệu trưởng của một trường nữ sinh nổi tiếng cần làm. Thỉnh thoảng, khi đặt một tờ giấy vào máy chữ, cô lại nhìn ra cửa sổ và lộ rõ niềm thích thú về những vị khách mới đến. ‘Trời đất ơi!’ Ann tự nhủ, vẻ ngưỡng mộ, ‘Mình không biết ở nước Anh vẫn còn nhiều tài xế riêng đến vậy!’ Rồi cô bất giác mỉm cười, khi một chiếc xe Rolls uy nghi chạy đi và một chiếc xe Austin nhỏ xíu, cũ mèm và méo mó tiến vào. Một ông bố vẻ lo lắng từ xe bước ra, cùng cô con gái trông bình tĩnh hơn nhiều so với ông bố. Khi ông dừng lại chừng như sắp ngã đến nơi, thì cô Vansittart từ trong nhà bước ra và làm chủ tình huống. “Thiếu tá Hargreaves phải không ạ? Đây hẳn là Alison rồi? Xin mời vào trong nhà. Mong ngài vào xem phòng của Alison…” Ann nhếch mép cười rồi tiếp tục đánh máy. ‘Ôi đúng là Vansittart, người đóng thế vinh quang,’ cô tự nhủ. ‘Cô ta có thể học theo mọi mánh lới của bà Bulstrode. Quả thật, cô ta rất thuộc bài!’ Một chiếc xe Cadillac to lớn và xa hoa đến khó tin, sơn hai tông màu, đỏ mâm xôi và xanh dương, rẽ vào (hơi khó khăn do chiều dài của nó) và đỗ phía sau chiếc xe cũ của Thiếu tá Alistair Hargreaves. Tài xế bật mở cửa, một người da sẫm, bộ râu dày, mặc áo choàng aba là lượt bước ra, theo sau là một tín đồ thời trang Pari và sau đó nữa là một cô bé mỏng mảnh, da sẫm. ‘Đấy chắc hẳn là Công nương… tên là gì ấy nhỉ,’ Ann nghĩ. ‘Không thể tưởng tượng nổi cô bé ấy mặc đồng phục, nhưng mình cho rằng điều thần kỳ sẽ xuất hiện ngày mai…’ Lần này cả cô Vansittart và bà Chadwick đều xuất hiện. ‘Họ sẽ được đưa vào danh sách diện kiến,’ Ann quả quyết. Rồi cô nghĩ, cũng khá lạ, rằng người ta không thích đùa cợt về bà Bulstrode. Bà Bulstrode là Người Ai Cũng Biết. ‘Tốt hơn nên tập trung vào chuyên môn đi,’ cô tự nhủ, ‘và gõ xong mấy bức thư này không sai lỗi thì hơn.’ Ann không phải là người hay phạm lỗi lầm. Cô đủ giỏi để có quyền chọn việc như ý. Cô từng là trợ lý riêng cho tổng giám đốc một công ty dầu mỏ, thư ký riêng cho ngài Mervyn Todhunter, nổi tiếng về sự uyên bác, thói cáu bẳn và chữ viết tay khó đọc. Trong số những người thuê cô làm việc, có hai người là Chủ tịch Nội các và một vị công chức quan trọng trong cơ quan chính phủ. Nhưng nhìn chung, công việc của cô luôn là giữa đám đàn ông. Cô băn khoăn mình sẽ thế nào, như cách nói của cô, khi hoàn toàn giữa đám phụ nữ. Ờ - thì đằng nào cũng là những trải nghiệm thôi. Và dù thế nào cũng có Dennis! Dennis thủy chung từ Malaya, từ Burma, từ nhiều nơi trên thế giới trở về, và vẫn như xưa, vẫn tận tình, và hỏi cưới cô lần nữa. Dennis thân thương! Nhưng thật là tẻ nhạt lắm mới đi cưới Dennis. Trong tương lai sắp tới, cô sẽ nhớ đến thời gian được làm việc cùng nam giới. Tất cả những giáo viên ở đây - không có lấy một mống đàn ông nào cả, ngoại trừ lão làm vườn đã tám chục tuổi. Nhưng đến đây Ann bỗng ngạc nhiên. Nhìn ra cửa sổ, cô thấy một người đàn ông đang xén hàng rào ngay phía bên kia lối đi dành cho ô tô - rõ ràng là một người làm vườn nhưng mà còn lâu mới tám chục tuổi. Trẻ, tóc đen, và điển trai. Ann ngẫm ngợi, hình như người ta có nhắc đến chuyện thuê người phụ việc, nhưng người này đâu phải dân quê mùa. À thì, ngày nay người ta làm đủ thứ việc. Một số thanh niên đang cố tích góp tiền cho dự định này nọ trong tương lai, hay chỉ kiếm đủ sống qua ngày. Nhưng anh ta đang xén hàng rào theo cách rất chuyên nghiệp. Chắc hẳn anh ta là một người làm vườn thực thụ. Mời các bạn đón đọc Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu của tác giả Agatha Christie.  
Chuyến Tàu Định Mệnh
Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.