Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khởi Nghiệp Tinh Gọn

Cuốn sách "Khởi nghiệp Tinh gọn" (The Lean Startup) trình bày một mô hình khởi nghiệp vang danh toàn cầu, giúp thay đổi toàn bộ cách thức xây dựng công ty và tung ra sản phẩm mới trên thị trường. “Khởi nghiệp” - hai tiếng đơn giản đó có sức hút mạnh mẽ với bất kỳ ai, không chỉ đối với những người đang ấp ủ một dự án kinh doanh, mà ngay cả những ông chủ đang muốn tìm kiếm một sản phẩm hay một ý tưởng mới để “tái khởi nghiệp”, nói cách khác là tái tạo lại mô hình kinh doanh của mình. Tuy nhiên, từ ý tưởng đến thành công là điều không dễ! Nhiều dự án khởi nghiệp thất bại không phải vì ý tưởng không tốt, chiến lược kém hay tầm nhìn sai, mà cốt lõi của mọi vấn đề nằm ở chỗ chúng ta không có được một mô hình và phương pháp để khởi nghiệp thành công. Vì khởi nghiệp không giống với thành lập và điều hành một công ty theo dạng truyền thống, nên nó cần một mô hình và phương pháp quản trị riêng. Trong quản trị kinh doanh, việc khởi tạo một doanh nghiệp mới hay tái tạo một mô hình kinh doanh cũ luôn có những bài học mà nếu không trả giá thì không thể học được, thậm chí là phải trả giá nhiều lần, trả giá đắt, rất đắt thì mới có thể học được. Tuy nhiên, cũng có những bài học mà không cần phải trả giá vẫn có thể học được. Vậy tại sao không học để bớt phải trả giá? Những bài học đắt giá đó nằm trong cuốn sách đặc biệt này. “Khởi nghiệp Tinh gọn” không chỉ cung cấp những kiến thức nền tảng về phương pháp đã được áp dụng bởi rất nhiều tên tuổi lẫy lừng trong lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo này; mà còn trang bị những phương pháp giúp tăng khả năng thành công, đồng thời cũng giảm thiểu tối đa rủi ro trên hành trình khởi nghiệp hoặc phát triển sản phẩm mới, tái tạo doanh nghiệp của các doanh nhân. Đặc biệt, cách tư duy và những phương pháp trong cuốn sách này không chỉ áp dụng cho những siêu tập đoàn toàn cầu, mà còn áp dụng rất phù hợp cho những doanh nghiệp nhỏ, hay siêu nhỏ. Dù ở quy mô nào hay đang ở đâu trên hành trình kinh doanh, đã đến lúc chúng ta cần phải tư duy một cách TINH GỌN! *** TÓM TẮT Khởi nghiệp tinh gọn (2011) giúp những nhà khởi nghiệp và các công ty công nghệ phát triển những mô hình kinh doanh bền vững. Cuốn sách khích lệ việc nhanh chóng đưa ra các mẫu sản phẩm mới, và chú tâm vào các dữ liệu phản hồi từ khách hàng. Phương pháp được dựa trên các khái niệm về sản xuất tinh gọn và phát triển linh hoạt, và hiệu quả của nó được minh chứng qua phân tích các tình huống trong vài thập kỷ gần đây. NHỮNG AI NÊN ĐỌC NHỮNG “CÁI CHỚP MẮT” NÀY? Bất kỳ ai quan tâm đến khởi nghiệp và/hoặc đang khởi sự một công ty riêng Bất kỳ ai hứng thú với việc phát triển sản phẩm một cách nhanh chóng, và kiểm thử Những người sáng lập, quản lý và nhân viên các công ty công nghệ VỀ TÁC GIẢ CUỐN SÁCH Eric Ries là một nhà khởi nghiệp thành đạt – đồng sáng lập IMVU, một mạng xã hội sử dụng những hình đại diện 3D. Hiện nay, ông là một diễn giả và một nhà tư vấn được mọi người săn đón. CÁCH QUẢN TRỊ CÁC START-UP CẦN PHẢI RẤT KHÁC SO VỚI CÁC CÔNG TY LÂU ĐỜI. Trong 3 đoạn “chớp mắt” đầu tiên, bạn sẽ khám phát ra điều gì mới là mục đích chính các start-up nên theo đuổi. Phương pháp quản trị truyền thống bao gồm hai thành phần: phát triển các kế hoạch và giám sát những người thực thi chúng. Một nhà quản trị tạo ra một kế hoạch, thiết lập các cột mốc, giao phó công việc cho các nhân viên, hướng dẫn họ để đảm bảo hoàn thành các cột mốc kịp thời. Chiến lược quản trị này sẽ hiệu quả trong những công ty lâu năm đến mức họ hiểu rõ phương pháp nào đã có tác dụng trong quá khứ và suy ra cái nào sẽ có tác dụng ở tương lai. Khởi nghiệp thì khác: Họ không thể dự đoán được tương lai bởi họ không có quá khứ, không biết khách hàng muốn gì, và không biết cách tiếp cận nào là tốt nhất để tìm kiếm khách hàng hay xây dựng việc kinh doanh bền vững. Để tìm ra điều gì có thể có tác dụng, họ phải duy trì tính linh hoạt. Việc theo đuổi những kế hoạch với các cột mốc định sẵn hoặc phụ thuộc vào các dự đoán thị trường trong dài hạn là hành động tự lừa gạt mình. Dẫu sao, nhiều nhà sáng lập vẫn sử dụng những công cụ quãn trị hãng/công ty như là “các kế hoạch cột mốc” hay “dự đoán thị trường dài hạn”. Họ hành xử như thể đang chuẩn bị phóng tên lửa, mày mò với nó trong nhiều năm ròng và chỉ “phóng” tại thời điểm mà họ nghĩ là hoàn hảo.Thực tế, quản trị một start-up giống với việc lái một chiếc xe jeep băng qua địa hình mấp mô không bằng phẳng hơn, nơi các nhà sáng lập phải liên tục đổi hướng và khẩn trương phản ứng với các rào cản và ngõ cụt ngoài mong đợi. Tuy nhiên, các nhà khởi nghiệp cũng không nên từ bỏ hoàn toàn việc lập kế hoạch để mang một tâm thế “cứ làm đi” hỗn độn. Việc đấy sẽ chẳng đưa bạn đến đâu cả; ai đó phải điều khiển bánh lái để đưa ra các quyết định khôn ngoan về con đường nào phải đi. Một đội quản trị khởi nghiệp nên cố gắng duy trì một cái nhìn toàn cảnh về tình huống của họ và giữ cho công ty tiếp tục nhấn ga về mục đích chung. Nên, họ cần tìm các thông số đúng đắn để đo đếm xem hành trình của họ có đang dẫn họ đi đúng hướng. Cách quản trị các start-up cần phải rất khác so với các công ty lâu đời. MỤC ĐÍCH CỦA MỘT START-UP LÀ TÌM RA MỘT MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG. Mục tiêu chính của bất kỳ start-up nào là tìm ra một mô hình kinh doanh mang lại lợi nhuận và bền vững. Kế hoạch cột mốc tinh tế và chi tiết nhất, công tác thực thi các kế hoạch đó sao cho hiệu quả nhất, hay thậm chí, sự quan tâm tuyệt đối của báo chí chẳng có chút ích lợi gì nếu họ không có mô hình kinh doanh bền vững đó. Nếu bạn muốn công ty bạn không chỉ là một dự án cưng tạm thời, mà trước sau gì cũng dặt dẹo và chết đi, bạn phải tìm cách để chiếm được khách hàng và kiếm tiền bằng cách phục vụ họ. Giả dụ bạn muốn kinh doanh quanh bằng nghề hướng dẫn đan váy Scotland qua mạng: Hãy tự hỏi, có ai muốn những hướng dẫn này không? Có cách nào kiếm tiền từ họ không? Nếu câu trả lời trong cả hai trường hợp là không, hãy đi tìm việc khác, việc mà người ta muốn và sẵn lòng trả tiền. Do đó, mục đích đầu tiên và duy nhất cho khởi nghiệp của bạn là tìm mô hình kinh doanh bền vững,thứ sẽ có ích hôm nay và cũng hiệu quả kể cả trong tương lai. Trong thực tế, điều này nghĩa là bạn phải tìm ra sản phẩm nào khách hàng tiềm năng muốn và bằng cách nào chuyển đổi nhu cầu đó thành doanh thu liên tục. Trách nhiệm chính của ban quản trị start-up nên tập trung vào toàn thể công ty, bao gồm mọi thứ đang được thực thi mỗi ngày, để vươn tới mục đích duy nhất này. Start-up càng nhanh tìm ra mô hình kinh doanh bền vững, họ càng tiến gần hơn tới thành công. Mục đích của một start-up là tìm ra một mô hình kinh doanh bền vững. TÌM MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG CỦA BẠN BẰNG CÁCH HỌC TẬP QUA KIỂM CHỨNG. Để tìm được một mô hình kinh doanh bền vững, các nhà khởi nghiệp cần phải khám phá khách hàng của họ muốn gì và làm sao kiếm được tiền từ đó. Họ phải tìm đúng sản phẩm cho đúng người và tìm hiểu cách bán hàng phù hợp. Điều này không có nghĩa cần đưa ra một kế hoạch tuyệt vời ngay từ khởi đầu. Đúng hơn, nó đòi hỏi một quá trình học tập không ngừng: phương pháp học tập qua kiểm chứng lý tưởng, nghĩa là học tập thông qua cách tiếp cận khoa học. Để bắt đầu quá trình học tập qua kiểm chứng, bạn phải đưa ra các giả thuyết về việc có thể nào và bằng cách nào một sản phẩm nhất định sẽ thành công trong thị trường đã cho. Ví dụ, “Khách hàng Mỹ sẽ sẵn lòng mua giày qua mạng.” Những giả thuyết ban đầu này cần được kiểm thử,  và chỉ khi nó được chứng nghiệm qua việc đối thoại với khách hàng thì start-up mới biết rằng nó có đi đúng hướng trong việc tìm ra mô hình kinh doanh bền vững hay không. Tuy nhiên, cũng đừng sử dụng các bảng hỏi hay khách hàng hư cấu; thay vào đó, hãy nói chuyện với khách hàng thực sự trong một môi trường thực tế. Cách đáng tin cậy nhất để biết người ta có mua sản phẩm của bạn không là đề nghị họ sử dụng nó và quan sát phản hồi của họ. Hãy xem câu chuyện thành công của Zappos: Khởi đầu với một giả thuyết rằng người ta sẽ muốn mua giày qua mạng. Để kiểm thử ý tưởng này, công ty chụp những bức ảnh giày trong của hàng và trưng bày chúng trên một của hàng web giả mạo. Khi người ta thực sự đã cố mua giày qua mạng, Zappos coi giả thuyết của họ đã được chứng nghiệm. Qua cách tiếp cận này, nền tảng đã được phơi bày cho một trong những mô hình kinh doanh thành công nhất thập kỷ qua. Tìm mô hình kinh doanh bền vững của bạn bằng cách học tập qua kiểm chứng. NHỮNG GIẢ ĐỊNH “CÚ NHẢY NIỀM TIN”: HÃY KIỂM THỬ CÁC GIẢ THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ VÀ TĂNG TRƯỞNG. Một phần của việc phát triển sản phẩm là “cú nhảy niềm tin”: Một nhà sáng lập tin vào sự thành công trong tương lai của sản phẩm mà cô muốn tạo ra, dù chưa có bằng chứng nào cả. Để nhanh chóng xoá bỏ khoảng cách giữa “tin” và “biết”, mỗi nhà sáng lập nên công thức hóa và kiểm thử hai giả định cơ bản: Giả thuyết về giá trị giả định rằng một sản phẩm sẽ mang đến giá trị cho khách hàng của nó – có nghĩa là – những người sớm chấp nhận sẽ đi lùng mua và sử dụng sản phẩm Giả thuyết về tăng trưởng chỉ ra rằng sản phẩm sẽ không chỉ hấp dẫn một nhóm đối tượng nhỏ sớm chấp nhận, mà nó sẽ sớm tìm ra một thị trường lớn hơn. Cả hai giả định trên đều cần được kiểm thử càng sớm càng tốt. Chỉ khi chúng được chứng nghiệm thì sản phẩm mới đáng giá để đầu tư thời gian và nỗ lực. Hãy nhìn vào Facebook: Họ đã thành công trong việc chứng nghiệm cả hai giả thuyết giá trị và tăng trưởng từ những bước đầu tiên khi mạng xã hội chỉ được một vài người sử dụng. Ban đầu, những người dùng đã đăng ký tỏ ra rất năng động trên mạng. Hơn một nửa đã đăng nhập ít nhất một lần mỗi ngày – bằng chứng ấn tượng cho giả thuyết giá trị. Thứ hai, Facebook có một tỉ lệ người dùng kích hoạt đáng kinh ngạc, nghĩa là nó xâm nhâp thị trường rất nhanh chóng. Tại những trường đại học nơi Facebook được giới thiệu, ba phần tư số sinh viên đăng ký chỉ trong vòng một tháng – mà công ty chẳng cần tiêu một đồng nào cho marketing. Bởi thế, giả thuyết tăng trưởng cũng đồng thời được chứng minh. Những con số ấn tượng đó đã thuyết phục các nhà đầu tư tin vào thành công trong tương lai của mạng xã hội mới mẻ này, khiến họ không ngần ngại đầu tư hàng triệu đô ngay từ giai đoạn đầu. Những giả định “cú nhảy niềm tin”: hãy kiểm thử các giả thuyết về giá trị và tăng trưởng HÃY PHÁT TRIỂN MỘT SẢN PHẨM KHẢ DỤNG TỐI THIỂU ĐỂ KIỂM THỬ Nhiều nhà sáng lập tập trung quá nhiều thời gian vào bản thân sản phẩm, trong khi không hề biết liệu có khách hàng nào thật sự sử dụng sản phẩm đó. Nếu bạn muốn tạo dựng công việc kinh doanh bền vững, bạn phải tìm hiểu xem khách hàng có nhu cầu về sản phẩm của bạn không, càng sớm càng tốt. Cách nhanh chóng và dễ dàng nhất để nhận được phản hồi chân thực về ý tưởng của bạn là tạo ra một phiên bản tối giản của sản phẩm. Sản phẩm khả dụng tối thiểu (minimal viable product – MVP)này nên đơn giản hết mức có thể, và chỉ chứa những gì cần thiết để cung cấp cho khách hàng trải nghiệm thực tế về cách mà sản phẩm hoạt động – vừa đủ để thu được phản hồi từ họ. MVP có thể là một mẫu thử nghiệm hết sức cơ bản của sản phẩm, hoặc thậm chí là kiểm thử nhu cầu: vờ như rao bán một sản phẩm giả mạo. Đăng ảnh giày lên một trang web bán hàng, dù bạn chưa có đôi nào để bán, là một ví dụ điển hình. Hãy xem những người sáng lập Dropbox. Họ biết rằng việc phát triển từ ý tưởng thành sản phẩm sẽ tiêu tốn rất nhiều thời gian, vì thế, để kiểm chứng giả thuyết rằng mọi người đang có nhu cầu về một dịch vụ đồng bộ hoá dữ liệu mới mẻ và thân thiện với người dùng, họ chọn một cách đơn giản và sáng tạo: dựng một đoạn video trình bày ý tưởng. Các nhà sáng lập giả định rằng thị trường đang có nhu cầu, và họ đã đúng: trong vòng một đêm, 75,000 người đã đăng ký vào danh sách chờ, và nhóm Dropbox kết luận rằng họ đã đi đúng hướng. Như vậy, họ có thể tự tin bắt đầu phát triển sản phẩm chính thức. Tương tự, trước hết mỗi start-up nên tìm hiểu xem thị trường có thực sự có nhu cầu về sản phẩm của mình hay không, trước khi bắt đầu xây dựng nó. Phát triển sản phẩm khả dụng tối thiểu để kiểm thử ý tưởng của bạn trên thị trường. HÃY XÂY DỰNG, ĐÁNH GIÁ, HỌC HỎI – CÀNG NHANH CHÓNG VÀ THƯỜNG XUYÊN CÀNG TỐT. Trong việc tìm kiếm một mô hình kinh doanh bền vững, ưu tiên cao nhất là học hỏi: mỗi start-up phải học được nên xây dựng sản phẩm nào và làm sao để kiếm tiền từ chúng. Việc này không thể thực hiện nếu bạn tách rời thực tế. Bạn cần phải lộ diện, trưng bày sản phẩm cho khách hàng, nhận phản hồi của họ và học tập từ đó. Để tạo điều kiện cho quá trình trên, hãy thiết lập cái gọi là vòng BML. BML là chu trình xây dựng-đánh giá-học hỏi (build-measure-learn): Trước tiên, bạn xây dựng một phiên bản đơn giản của sản phẩm, như mẫu thử nghiệm hoặc thử nghiệm nhu cầu. Thứ hai, bạn đưa sản phẩm này ra thị trường thực tế và thu về phản hồi khách hàng. Bằng cách thu thập dữ liệu định lượng từ thí nghiệm này, bạn đánh giá mức độ ưa thích với sản phẩm; chẳng hạn, có bao nhiêu người bấm vào nút mua hàng và cố gắng mua giày từ trang web giả của bạn. Khi đánh giá, hãy chắc chắn bạn không chỉ nhìn vào dữ liệu mà còn nói chuyện với khách hàng. Nếu muốn hiểu được dữ liệu, bạn cũng nên tìm hiểu về ấn tượng cá nhân và ý kiến của khách hàng. Những gì bạn học được sau một chu trình sau đó nên được sử dụng để lên ý tưởng và xây dựng một sản phẩm mới, được tối ưu hoá, là thứ đưa bạn tới chu trình BML tiếp theo. Sau đó quá trình này được lặp đi lặp lại tới khi bạn tìm được mô hình kinh doanh bền vững. Điều quan trọng ở đây là tốc độ. Mỗi vòng BML giúp bạn cải thiện sản phẩm và cung cấp cho bạn những hiểu biết quý giá về những gì khách hàng mong muốn. Càng trải qua nhiều vòng, càng nhiều khả năng bạn sẽ tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững của mình. Xây dựng, đánh giá, học hỏi – càng nhanh và thường xuyên càng tốt. SỬ DỤNG KIỂM THỬ PHÂN CHIA ĐỂ TỐI ƯU HOÁ SẢN PHẨM. Khi phát triển và cải thiện một sản phẩm, các start-up cần phân biệt giữa giá trị và phế phẩm: họ phải tìm ra những tính năng nào có giá trị và những tính năng nào không, đối với người dùng. Các tính năng giá trị là những đặc điểm giúp doanh nghiệp thu hút thêm khách hàng hoặc giúp tăng doanh thu. Tính năng nào không thực hiện được cả hai điều trên đều là thừa thãi – cho dù nhà sáng lập hay kỹ sư tin rằng chúng là những thứ tuyệt vời hơn bao giờ hết. Một cách thông minh để phân biệt giữa giá trị và phế phẩm là kiểm thử phân chia. Mỗi khi bạn cân nhắc thêm vào một tính năng mới hoặc thay đổi cái cũ, hãy tạo ra hai phiên bản: một chứa tính năng mới, còn cái kia thì không. Bằng cách kiểm thử cả hai phiên bản, bạn sẽ sớm thấy bản nào được khách hàng ưa thích hơn. Các công ty đầu tiên sử dụng kỹ thuật này là các doanh nghiệp bán hàng qua thư. Ví dụ, để tìm hiểu xem bố cục catalogue mới có giúp tăng lượng đơn đặt hàng hay không, họ in ra hai phiên bản: 50% khách hàng nhận bản cũ và 50% nhận bản mới. Ngoài bố cục, tất cả các đặc điểm khác của hai catalogue đều như nhau, và khách hàng được chia nhóm ngẫu nhiên, vì vậy công ty chỉ cần so sánh lượng đặt hàng giữa hai nhóm. Những dữ liệu này trả lời cho câu hỏi rằng liệu thiết kế mới có hữu ích không. Trên tinh thần đó, mọi start-up có thể kiểm thử tất cả các thay đổi tiềm năng trước khi thực sự thực hiện nó. Muốn biết trang web của bạn hoạt động tốt hơn trong màu đỏ hay màu xanh? Tại sao không tạo ra cả hai phiên bản thử nghiệm và theo dõi mức độ truy cập của khách hàng trong vài ngày? Bất kỳ thay đổi nào bạn muốn thực hiện đều nên được kiểm thử bằng phương pháp ít nhiều có tính khoa học này trước khi áp dụng lên sản phẩm. Sử dụng kiểm thử phân chia để tối ưu hoá sản phẩm. ĐỂ TÌM RA MÔ HÌNH KINH DOANH ĐÚNG ĐẮN CHO DOANH NGHIỆP, BẠN THƯỜNG PHẢI CHUYỂN HƯỚNG. Nhiều start-up tin vào huyền thoại phổ biến rằng chìa khoá dẫn tới một doanh nghiệp thành công là sự kiên trì và ý chí sắt đá: người sáng lập anh hùng nảy ra một ý tưởng tuyệt vời, chiến đấu qua rất nhiều thất bại cho đến khi ý tưởng rốt cục trở thành một cú hit. Nhưng cách nghĩ này đẩy phần lớn start-up vào chỗ gọi là nơi xác chết biết đi. Như những con zombie không não, họ không nhận thức được một điều gì và sẽ tiếp tục làm việc cật lực để bán một sản phẩm mà thị trường không cần. Để tránh điều này, bạn nên liên tục tự hỏi mình cần thay đổi sản phẩm ra sao để nâng cấp nó và tìm được thị trường. Bên cạnh đó, bạn nên xem xét một cách định kỳ rằng có cần một sự chuyển hướng – một thay đổi căn bản. Sự chuyển hướng có thể dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như: định nghĩa lại giá trị cốt lõi của sản phẩm; theo đuổi phân khúc khách hàng khác; hay đổi kênh bán hàng chính. Đặc điểm chính của sự chuyển hướng là những giả định cốt lõi dẫn đến khởi nghiệp đã thay đổi, vì vậy cần phải thử nghiệm các giả thuyết mới. Quyết định chuyển hướng có thể là một việc khó khăn, và bởi thế các start-up thường né tránh hoặc trì hoãn đưa ra quyết định này. Đó là lý do việc tổ chức họp chuyển hướng mỗi tháng một lần có thể có ích. Trong những cuộc họp này, bạn quan sát các dữ liệu đã thu được một cách trung thực, và tự hỏi mình có phải một con zombie đang cần chuyển hướng. Nhiều start-up đã phải chuyển hướng vài lần trước khi đạt được thành công. Hãy nhìn Groupon: khởi đầu là nền tảng cho các hoạt động tuyên truyền và gây quỹ, rồi sau đó mới chuyển thành nền tảng daily deal nổi tiếng ngày nay. Để tìm ra mô hình kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp, bạn thường phải chuyển hướng. MỌI START-UP TRƯỚC HẾT NÊN TẬP TRUNG VÀO MỘT ĐỘNG CƠ TĂNG TRƯỞNG. Một phần cơ bản của bất kỳ mô hình kinh doanh nào là động cơ tăng trưởng đảm bảo cho công ty không bị trì trệ. Có ba loại động cơ tăng trưởng khác nhau: Động cơ gắn kết hoạt động bằng cách giữ chân khách hàng hiện tại, những người đã tạo ra dòng doanh thu liên tục. Trọng tâm không phải là quảng bá để thu hút khách hàng mới, mà là khiến khách hàng hiện tại sử dụng sản phẩm nhiều hơn bằng cách ra mắt tính năng mới hoặc nâng cấp dịch vụ. Động cơ lan truyền hoạt động bằng cách khiến các khách hàng hiện có đảm nhiệm việc tiếp thị cho công ty. Khách hàng mục tiêu biết về sản phẩm thông qua truyền miệng. Điều này có thể giúp bạn tiết kiệm rất nhiều chi phí quảng cáo, vì vậy bạn nên làm sao để khách hàng càng dễ tham gia vào hoạt động viral marketing này càng tốt. Một ví dụ nổi tiếng về động cơ tăng trưởng lan truyền là chữ ký email tự động của Hotmail: “Tái bút: Nhận thư điện tử của bạn miễn phí tại Hotmail.” Cuối cùng, động cơ trả phí hoạt động nhờ đầu tư vào tiếp thị, chẳng hạn qua quảng cáo online có trả phí. Tất nhiên, nó chỉ bền vững khi doanh thu từ khách hàng hiện tại đủ để đảm bảo rằng chi phí cho mỗi khách hàng mới thu hút được nhỏ hơn giá trị khách hàng trọn đời. Nói chung, bạn có thể sử dụng cả ba động cơ tăng trưởng này cùng một lúc, nhưng ban đầu thì tập trung vào một động cơ để khiến nó tăng tốc nhanh hết mức có thể thường là việc làm khôn ngoan. Chú trọng vào một động cơ tăng trưởng cũng giúp đánh giá mức độ thành công của tính năng mới dễ dàng hơn: nếu động cơ tăng tốc nhanh, các tính năng đó là hữu dụng; nếu không, chúng nên được bỏ đi. Mọi start-up trước hết nên tập trung vào một động cơ tăng trưởng. SỐ LIỆU ẢO THƯỜNG TÂNG BỐC NHƯNG GÂY HIỂU LẦM – CHÚNG KHÔNG GIÚP BẠN TÌM THẤY MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG. Không start-up nào có thể tìm ra mô hình kinh doanh hiệu quả mà không cần thỉnh thoảng dừng lại để định hướng, và các định hướng này xuất phát từ việc xem xét các số liệu đúng đắn. Để đánh giá liệu bạn đã tiến thêm được chút nào tới mục tiêu dài hạn hay chưa, bạn cần phải kiểm tra các dữ liệu đã thu thập được trên đường. Thật không may, nhiều start-up đầu hàng trước sự cám dỗ của việc sử dụng số liệu ảo: những số liệu tâng bốc nhưng vô dụng, thậm chí có hại. Chúng khiến một doanh nghiệp trông có vẻ thành công nhưng không đưa nó đến gần hơn với các mục tiêu. Các start-up dựa trên số liệu ảo nhìn vào công việc kinh doanh như một tấm gương lung linh, khiến họ khó đối mặt với những khó khăn thực tế và khắc phục chúng. Ví dụ, được truyền thông chú ý và có nhiều Facebook fan có thể là chuyện tốt, nhưng đừng bao giờ nhầm lẫn đó là thành công. Những việc đó không giúp bạn chi trả các khoản phí, và bạn không nên tốn công tác động vào những số liệu vô nghĩa như vậy. Một số liệu ảo khác có thể là số giờ làm việc bạn đã đầu tư vào sản phẩm, hay những cột mốc đã đạt được. Chúng có thể liên quan (nhưng không nhất thiết) đến thành công của bạn. Vì vậy, đừng bao giờ đặt mục tiêu tối đa hoá chúng. Cho dù ai đó làm việc 100 giờ một tuần, vẫn có khả năng số giờ lao động ấy đã bị lãng phí vào việc gì đó hoàn toàn vô giá trị khi nhìn từ góc độ dài hạn. Để thành công, bạn phải tìm một mô hình kinh doanh bền vững và mở rộng nền tảng khách hàng sử dụng sản phẩm của bạn –  và bạn không thể làm được việc nào nếu cứ chăm chăm vào những số liệu sai lệch. Số liệu ảo thường tâng bốc nhưng gây hiểu lầm – chúng không giúp bạn tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững. MỌI START-UP PHẢI XÁC ĐỊNH ĐƯỢC NHỮNG SỐ LIỆU CỐT LÕI VÀ PHÂN TÍCH CHÚNG ĐÚNG CÁCH. Xác định đúng số liệu để theo dõi và liên tục đánh giá chúng là điều cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ start-up nào. Quan sát được số liệu thay đổi theon hướng tích cực, chỉ qua đó bạn mới có thể chắc rằng mình đang tiến dần tới mục tiêu dài hạn là tìm kiếm mô hình kinh doanh bền vững. Số liệu cốt lõi khác nhau tuỳ theo mỗi start-up, nhưng chúng thường là những số liệu như sự tăng lên trong lượng khách hàng trả phí, chiều dài phiên sử dụng trung bình trên mỗi khách hàng, và số lượt giới thiệu cho người khác trên một nghìn khách hàng đã sử dụng, chẳng hạn. Mọi start-up cần tìm ra số liệu phù hợp cho riêng nó để định hướng và cung cấp nhận định thực tế về quá trình phát triển. Khi phân tích dữ liệu, kỹ thuật được gọi là phân tích nhóm có thể hữu ích. Thay vì chỉ xem xét chung chung doanh thu hay nền tảng người dùng đã phát triển như thế nào, hãy so sánh hành vi của khách hàng mới với khách hàng cũ. Hãy coi một trong những số liệu cốt lõi của bạn là chỉ số khuyên dùng. Để hiểu nó tiến bộ như thế nào, bạn nên kiểm tra các yếu tố sau đây: Trung bình, tần suất một khách hàng đăng ký sáu tháng trước giới thiệu sản phẩm cho bạn bè là bao nhiêu? Còn với khách hàng đăng ký bốn tháng trước? Hai tháng trước? Bằng cách so sánh các nhóm (trong trường hợp này là các nhóm khách hàng đăng ký vào thời điểm khác nhau) và chỉ số khuyên dùng tương ứng, bạn có thể thấy mình tiến gần hơn đến mục tiêu hay không. Chỉ khi các số liệu chuyển biến tốt thì bạn mới đang phát triển; còn không, bạn đang mắc kẹt. Mọi start-up phải xác định được những số liệu cốt lõi và phân tích chúng đúng cách. KẾT Thông điệp chủ chốt của cuốn sách này là: Các start-up nên sử dụng cách tiếp cận ít nhiều mang tính khoa học để kiểm thử các giả định cốt lõi và xây dựng một mô hình kinh doanh hiệu quả dựa trên những giả thuyết đã được kiểm chứng. Họ nên nhanh chóng phát triển mẫu thử nghiệm sản phẩm, không ngừng cải tiến chúng bằng cách thu thập phản hồi từ khách hàng và thông qua các vòng xây dựng-đánh giá-học hỏi. Cuốn sách này trả lời các câu hỏi: Start-up nên theo đuổi mục tiêu chính nào, và tại sao? Cách quản trị các start-up cần phải rất khác so với các công ty lâu đời. Mục đích của một start-up là tìm ra mô hình kinh doanh bền vững. Hãy tìm mô hình kinh doanh bền vững bằng cách học tập qua kiểm chứng. Làm thế nào để các start-up tìm thấy sản phẩm và mô hình kinh doanh đúng đắn? Giả định “cú nhảy niềm tin”: kiểm thử giả thuyết giá trị và tăng trưởng của bạn. Phát triển sản phẩm khả dụng tối thiểu để kiểm thử ý tưởng của bạn trên thị trường. Xây dựng, đánh giá, học hỏi – càng nhanh và thường xuyên càng tốt. Để tìm ra mô hình kinh doanh đúng đắn cho doanh nghiệp, bạn thường phải chuyển hướng. Làm thế nào để các start-up tìm thấy động cơ tăng trưởng và phân tích số liệu đúng đắn? Mọi start-up trước hết nên tập trung vào một động cơ tăng trưởng. Số liệu ảo thường tâng bốc nhưng gây hiểu lầm – chúng không giúp bạn tìm thấy mô hình kinh doanh bền vững. Mọi start-up phải xác định được những số liệu cốt lõi và phân tích chúng đúng cách Nguồn : tsubakidream.wordpress.com Mời các bạn đón đọc Khởi Nghiệp Tinh Gọn của tác giả Eric Ries.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Thay Đổi Tư Duy - Nghệ Thuật Và Khoa Học Thay Đổi Tư Duy Của Bản Thân Và Những Người Khác
CẦN LÀM GÌ ĐỂ THAY ĐỔI TƯ DUY? Hãy nhớ lại lần gần nhất bạn muốn thay đổi tư duy của người nào đó về vấn đề quan trọng, như: niềm tin chính trị của một cử tri; nhãn hàng yêu thích của một khách hàng; sở thích trang trí của người bạn đời; thái độ học tập của một trẻ vị thành niên. Khả năng nhiều là bạn không thể thay đổi niềm tin của người đó một cách đáng kể. Chúng ta hay cố thay đổi tư duy nhưng vẫn thường thất bại, tại sao hiện tượng này lại bí ẩn đến vậy? Tư duy được thiết lập như thế nào? Và chính xác là cái gì có thể thay đổi cách suy nghĩ đó? Cuốn sách đột phá của nhà tâm lý học nổi tiếng thế giới từ Đại học Harvard Howard Gardner đã đưa ra những quan điểm sâu sắc về vấn đề nan giải nhưng thú vị này. Qua đó thay đổi cách mọi người tác động lẫn nhau trong công việc, gia đình và mọi lĩnh vực cuộc sống. Với công trình nghiên cứu mang tính cách mạng về trí thông minh, sáng tạo và lãnh đạo hơn 30 năm qua, Gardner cho rằng tư tưởng truyền thống xem thay đổi tư duy là một "hiện tượng" đột ngột xảy ra hoàn toàn sai lầm. Thay vào đó, Gardner chỉ rõ tư duy của chúng ta thay đổi dần dần dưới một số tác động tích cực và mạnh mẽ. Trên cơ sở nghiên cứu về nhận thức hàng thập kỷ, Gardner xác định có 7 yếu tố đòn bẩy hỗ trợ hoặc cản trở quá trình thay đổi tư duy, trong đó có: lý luận, nghiên cứu, các sự kiện trong hoàn cảnh thực tế, và sự chống đối. Thông qua các câu chuyện minh họa về những "đối tượng thay đổi" nổi tiếng hay đời thường trong lĩnh vực chính trị, kinh doanh, nghệ thuật, cũng như trong cuộc sống hàng ngày, cuốn Thay đổi tư duy đưa ra một quy chuẩn vận dụng những yếu tố đòn bẩy để tạo ra sự thay đổi to lớn trong quan điểm và hành động. Dù là việc tái định hướng nước Anh của bà Margaret Thatcher hay là việc chuyển hóa BP của Ngài John Browne, hay cuộc cách mạng về tiến hóa của Charles Darwi, dù là quá trình tác động lẫn nhau giữa vợ chồng, bạn bè, hay những quyết định thay đổi tư duy bản thân, ở đó Garner vẫn khám phá ra những nét tương đồng đáng ngạc nhiên bên cạnh những nét khác biệt cần học hỏi của các yếu tố tác động đến quá trình thay đổi tư duy trong những hoàn cảnh khác nhau.  Giải mã hiện tượng đã ăn sâu vào tâm lý hành xử của con người, Thay đổi tư duy chia sẻ một số ý kiến sâu sắc, qua đó mở rộng tầm hiểu biết và làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. *** Thông qua “Thay đổi tư duy”, Gardner mô tả bảy nhân tố, hoặc bảy mức độ, có thể được một cá nhân sử dụng để thay đổi tư duy thành công: •    Lý luận. Một sự tiếp cận dựa trên lý trí bao gồm nhận biết các yếu tố có liên quan, cân nhắc từng yếu tố và đi đến đánh giá toàn diện. Lý do có thể bao gồm tính logic tuyệt đối, việc vận dụng phép loại suy hay sự sáng tạo của các nguyên tắc phân loại. •    Nghiên cứu. Bổ sung cho vai trò của lý luận là thu thập những dữ liệu có liên quan. Tuy vậy, việc nghiên cứu không phải lúc nào cũng mang tính chất chính quy; mà chỉ cần xác định những trường hợp có liên quan và đánh giá xem chúng có tác động đến việc thay đổi tư duy hay không. •    Sự cộng hưởng. Một quan điểm, một ý tưởng, hay một cách nhìn phải tạo sự cộng hưởng khiến người ta cảm thấy nó đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, và thuyết phục người đó không cần phải xem xét gì thêm. Gardner cũng chỉ ra rằng thuật hùng biện là phương tiện cốt yếu cho sự thay đổi tư duy. Ông giải thích rằng thuật hùng biện có hiệu quả nhất khi chứa đựng logic chặt chẽ, rút ra từ những nghiên cứu có liên quan, và có tác động cộng hưởng với người nghe. •    Tiếp cận ý tưởng theo nhiều cách khác nhau (hay còn gọi là Tái diễn giải). Sự thay đổi tư duy trở nên thuyết phục hơn khi nó được thể hiện ở những hình thức khác nhau, bổ sung lẫn nhau. Từ cái nhìn tâm lý học, việc cung cấp nguồn hậu thuẫn là một trường hợp tăng cường mang tính tích cực. Tuy nhiên, rốt cuộc nếu cách suy nghĩ mới không phù hợp với những tiêu chí khác – như lý luận, nghiên cứu, sự cộng hưởng – thì nó sẽ không thể tồn tại khi không còn nguồn hậu thuẫn. •    Những biến cố trên thế giới. Đôi khi, một sự kiện lớn diễn ra trong xã hội có ảnh hưởng đến nhiều người, không chỉ những cá nhân muốn thay đổi tư duy. Những sự kiện này bao gồm chiến tranh, bão tố, khủng bố, hay sự suy thoái kinh tế. •    Những sự phản kháng. Không phải mọi yếu tố đều giúp thay đổi tư duy. Muốn tìm hiểu về thay đổi tư duy phải xét đến sức mạnh của những ý nghĩ phản kháng khác nhau.   Mời các bạn đón đọc Thay Đổi Tư Duy Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và những người khác của tác giả Howard Gardner.
Tư Duy Như Một Hệ Thống - David Bohm
Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia seminar, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order (Cái toàn thể và Trật tự ẩn), David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hậu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** David Joseph Bohm sinh ngày 20.12.1917 tại Wilkes-Barre, Pennsylvania, trong một gia đình Do Thái. Tuổi thơ của ông trôi qua không êm đềm. Nhận được ít sự chia sẻ từ cha mẹ, ông đã tìm cảm hứng trong thế giới của riêng mình, và ngay từ những năm đầu đời ông đã bộc lộ tính cách của một người thiết tha kiếm tìm chân lí. Là một nhân vật hàng đầu trong thế giới vật lí lượng tử, và là giáo sư Vật lí lí thuyết tại Trường Birkbeck, Đại học London các năm 1961-1983, từ khi bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình, Bohm đã đặt niềm tin vào trực giác nhiều hơn là vào con đường toán học thông thường. Ông tin rằng bằng cách chú ý đến cảm xúc và trực giác của mình, ông có thể đi đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của vũ trụ mà con người là một phần trong đó. Tốt nghiệp Đại học Pennsylvania năm 1939, và hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ tại Berkeley dưới sự hương dẫn của Robert Oppenheimer, công việc của ông ban đầu liên quan tới sự tán xạ neutron-proton và các vấn đề nguyên lí thiết kế của máy gia tốc hạt. Ông chuyển tới Phòng thí nghiệm Bức xạ nơi ông làm việc trong Dự án Manhattan. Từ đây ông đã phát triển công cụ lí thuyết mới để mô tả dao động plasma và trở nên nổi tiếng với vai trò một nhà vật lí lí thuyết. Năm 1947, Bohm chuyển đến Đại học Princeton. Ở đây ông đã áp dụng những ý tưởng của mình về plasma để nghiên cứu hành vi của các electron trong kim loại. Những nghiên cứu này của ông cùng các cộng sự đã được quốc tế công nhận. Cũng tại Princeton, mối quan tâm đặc biệt của Bohm về những nền tảng của cơ học lượng tử đã bén rễ. Để hiểu hơn về chủ đề này, ông đã quyết định viết một cuốn sách giáo khoa, Quantum Theory (Lí thuyết lượng tử - 1951‖. Cuốn sách được đón nhận rộng rãi, và đến nay đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của vật lí lượng tử. Nhưng sau khi hoàn thành Quantum Theory, Bohm cho rằng cuốn sách này chưa thật thỏa đáng. Và ngay sau đó, ông đã đăng hai bài báo cho thấy một cách tiếp cận khả dĩ khác, và cách tiếp cận này dường như đã hiện thực hóa những điều mà quan điểm chính thống coi là không thể. Sau những hiểu nhầm và rắc rối về chính trị, Bohm chuyển đến Brazil và Israel, rồi tới Đại học Bristol năm 1957. Tại đây, cùng với Yakir Aharanov, ông đã đăng một bài báo quan trọng vạch rõ những hệ quả quan sát đáng ngạc nhiên về vector trường thế. Lúc đầu, ý tưởng của họ không được đó nhận, nhưng nó đã sớm được xác nhận qua thí nghiệm. Ý tưởng này được John Maddox, biên tập viên của tạp chí Nature uy tín, gợi ý đến một giải Nobel. Trong những năm 1970-1980, Bohm lần lượt gặp Krishnamurti và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Và hai con người này đã mở cho Bohm những cánh cửa khác nhau nhìn vào vũ trụ tự nhiên và tâm linh. Bohm mất tại London ngày 27.10.1992. Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order ― Cái toàn thể và Trật tự ẩn, David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hấu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lí nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lí vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** Joseph David Bohm là một nhà vật lí lượng tử người Anh. Ông nguyên là giáo sư danh dự Đại học Birkbeck thuộc Đại học Tổng hợp London. Ông là tác giả nhiều cuốn sách và bài báo, trong đó có Thuyết nhân quả và Ngẫu nhiên trong Vật lý hiện đại, Cái toàn thể và Trật tự ẩn, Vũ trụ không phân chia (viết cùng với Basil Hiley). David Bohm là một trong những người có nhiều ảnh hưởng tới mô hình lí thuyết hiện đại. Sự thách thức của Bohm với những hiểu biết thông thường về lí thuyết lượng tử đã khiến các nhà khoa học suy nghĩ lại về những việc họ đang làm, đặt câu hỏi về bản chất của lí thuyết mà họ đang theo đuổi và xác định phương pháp luận khoa học của họ. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lý nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lý vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Mời các bạn đón Tư Duy Như Một Hệ Thống của tác giả David Bohm.
Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn - Jamies Holmes
“MỘT CÁI NHÌN SÂU SẮC, SOI THẤU KHÍA CẠNH ĐẦY NGẠC NHIÊN CỦA SỰ MƠ  HỒ VÀ BÍ ẨN. MỘT CUỐN SÁCH CÓ THỂ TRUYỀN CẢM HỨNG CHO VIỆC HỌC TẬP, SÁNG TẠO VÀ THẬM CHÍ LÀ CẢ SỰ ĐỒNG CẢM.” Như Jamie Holmes chỉ ra trong cuốn sách này, sự mơ hồ và bí ẩn, sự nhập nhằng,… khiến chúng ta không thoải mái, do đó chúng ta có xu hướng trốn tránh nó và thường bám riết lấy phương án giải quyết an toàn (nhưng không phải lúc nào cũng là tốt nhất), đặc biệt là trong những tình huống nguy hiểm. Nhưng cũng chính vì thế, chúng ta tước đi của chính mình cơ hội quan trọng để tìm hiểu cách giải quyết vấn đề theo hướng mới hoặc quan sát thế giới từ một góc độ khác. Bằng những hiểu biết về tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức của tác giả và thông qua những câu chuyện thú vị - từ trò chơi gián điệp và các giáo phái ngày tận thế cho chiến dịch quảng cáo của Absolut Vodka hay sự sáng tạo của Mad Libs – cuốn sách của Jamie Holmes hứa hẹn sẽ làm thay đổi cách chúng ta tiến hành kinh doanh, giáo dục và đưa ra quyết định. Mọi khía cạnh tích cực của “sự mơ hồ và bí ẩn” và cách tận dụng nó đều nằm trong cuốn sách này! *** N ăm 1996, Đại học City & Islington ở London tổ chức một khóa học tiếng Pháp cấp tốc cho những người mới học và sinh viên dưới trung bình. Paula, một cô bé thiếu niên nghiêm chỉnh đeo một cặp kính gọng mảnh, chưa bao giờ nói được một từ tiếng Pháp nào. Darminder, người có một bộ râu dê và đeo khuyên tai, không chỉ mới học tiếng Pháp mà còn thất bại trong kỳ thi chứng chỉ tiếng Tây Ban Nha tổng quát của bậc giáo dục trung học (GCSE). Abdul đã rớt kỳ thi GCSE tiếng Đức. Satvinder và Maria đều rớt kỳ thi GCSE tiếng Pháp và giáo viên tiếng Pháp của Emily khuyên cô nên bỏ ý định học thứ tiếng này. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ tất cả hy vọng, những học viên này đã đăng ký tham gia một khóa học độc nhất vô nhị. Trong năm ngày học toàn thời gian, họ sẽ áp dụng phương pháp kỳ lạ của một nhà ngôn ngữ học tên là Michel Thomas. Trong chiếc áo khoác màu xanh và với mái tóc muối tiêu, trông Thomas toát lên vẻ nhã nhặn. Ông nói với những học viên mới rằng: “Tôi rất mong chờ buổi dạy ngày hôm nay nhưng dưới những điều kiện tốt hơn, vì tôi không nghĩ rằng các em đang ngồi thoải mái. Tôi muốn các em cảm thấy thoải mái, do đó chúng ta sẽ sắp xếp lại mọi thứ.” Trong một chiếc xe tải ở bên ngoài, Thomas đã chuẩn bị sẵn một số vật dụng thay thế không ai ngờ tới cho một lớp học tiêu chuẩn: ghế bành, gối, bàn cà phê, cây cối, thảm, một cái quạt và thậm chí là những tấm đệm gấp làm bằng liễu gai. Chỉ với chút ít thời gian và công sức, các học viên đã hoàn tất việc thay đổi căn phòng. Những chiếc ghế bành lưng cao bọc vải nhung xếp thành một nửa hình ô van, những chiếc rèm xanh được kéo lại, chỉ để lọt ánh sáng mờ trong căn phòng, và những tấm đệm liễu gai bao quanh những chiếc ghế bành mang lại một cảm giác ấm áp và thân mật hơn. Không có những bàn học, bảng đen, giấy, bút hay chì. Thomas không muốn các học viên viết hay đọc bất kỳ thứ gì. Ông không muốn họ nhớ bất cứ điều gì được học, kể cả việc xem lại chúng vào cuối ngày. Nếu trong thời gian học, các sinh viên không nhớ được điều gì đó, ông nói rằng đó không phải vấn đề của họ. Đó là vấn đề của ông. Emily tỏ vẻ hoài nghi. Darminder và Abdul thậm chí còn không giấu được nụ cười tinh quái. Nhưng không ai trong số những sinh viên này có thể ngăn nổi sự tò mò thực sự về người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước mặt mình. Ông ta có nghiêm túc không? Không cố gắng nhớ những gì được dạy trên lớp ư? “Tôi muốn các em thoải mái.” Cảnh tượng này, phương pháp của Thomas và các kết quả sau năm ngày học xuất hiện trong một bộ phim phóng sự của đài BBC mang tên Chuyên gia Ngôn ngữ. Margaret Thompson, Trưởng khoa tiếng Pháp của trường được giao nhiệm vụ đánh giá kết quả của Thomas. Vào cuối tuần, bà theo dõi các sinh viên – trong đó rất nhiều người chưa từng nói được một từ tiếng Pháp nào trước đây – đã dịch được những câu hoàn chỉnh sử dụng các dạng ngữ pháp nâng cao. Emily đã có thể dịch được một cụm từ vốn thường mất nhiều tháng để giải quyết: “Tôi muốn biết liệu anh có muốn đến gặp tôi tối nay hay không?” Paula ca ngợi cách Thomas nhấn mạnh sự bình tĩnh và kiên nhẫn. Các sinh viên nói rằng họ cảm thấy như thể đã học được năm năm tiếng Pháp chỉ trong năm ngày. Khá kinh ngạc với kết quả, Thompson rụt rè chấp nhận đánh giá của những học viên này. Michel Thomas biết rằng việc khám phá một ngôn ngữ mới quả thực rất đáng sợ. Các học viên phải đối mặt với cách phát âm mới cho những từ ngữ quen thuộc, các từ vựng mang ý nghĩa kỳ lạ, những phần thiếu của lời nói hay những cấu trúc ngữ pháp lạ lẫm. Đó là lý do vì sao những sinh viên của Đại học City & Islington dù được học trong một môi trường thoải mái vẫn thể hiện sự bối rối: cười lớn căng thẳng, cười nhẹ ngượng ngùng, xin lỗi thầm, nói lắp, lưỡng lự và những cái liếc mắt lúng túng. Học một ngôn ngữ mới đòi hỏi bạn phải đi vào một vùng đất xa lạ. Thomas mô tả ngôn ngữ mới “là thứ xa lạ nhất” mà một người có thể học. Để bảo vệ bản thân trước sự xâm lấn “xa lạ” này, tâm trí sẽ dựng lên những rào cản theo bản năng, vì vậy thách thức đầu tiên và cũng là khó khăn nhất với giáo viên là giúp các học viên kéo đổ những rào cản này. Thomas đã thay đổi môi trường giảng dạy ở Đại học City & Islington từ đáng sợ, đầy căng thẳng thành tò mò, đầy bình tĩnh. Bằng cách nào đó, ông đã khiến tâm trí của các học viên cởi mở hơn. Các học viên vốn có thói quen gạt bỏ những gì chưa hiểu đột nhiên sẵn sàng dấn thân vào những lãnh thổ xa lạ hơn. Vào thời điểm BBC quay phóng sự này (sau đó được phát sóng năm 1997), Thomas đã là một huyền thoại. Ông thành thạo 11 ngôn ngữ, mở ra những trung tâm gia sư ở Los Angeles, New York và xây dựng một thứ gì đó như một “tôn giáo” nhờ vào một danh sách khách hàng bao gồm Grace Kelly, Bob Dylan, Alfred Hitchcock, Coca-Cola, Procter & Gamble và American Express. Nigel Levy, người đã tham gia lớp học của Thomas trước khi sản xuất ra bộ phim phóng sự của BBC, mô tả những bài học của ông là rất “đáng kinh ngạc”. Emma Thompson mô tả thời gian làm việc với ông là “một trải nghiệm học tập đặc biệt nhất trong đời”. Cựu đại sứ Israel ở Liên Hợp Quốc gọi ông là “người lao động thần kỳ”. Và Herbert Morris, cựu Trưởng khoa Nhân văn của UCLA, tiết lộ rằng ông đã học được cả năm tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài ngày học cùng Thomas và vẫn còn nhớ những kiến thức đó mãi tới chín tháng sau. Thomas cho rằng “điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi căng thẳng và áp lực”. Ông đặc biệt quan tâm đến trạng thái tâm lý, thậm chí quan tâm đến cực độ. Ví dụ, ông thường bắt đầu dạy tiếng Pháp bằng cách nói với các học viên rằng tiếng Pháp và tiếng Anh có chung hàng nghìn từ vựng, chỉ là chúng nghe có hơi khác nhau một chút. Ông từng nói đùa: “Tiếng Anh chính là tiếng Pháp được phát âm sai.” Ông giải thích rằng những từ ngữ kết thúc với -ible như possible và -able như table đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Nhờ việc biến những điều xa lạ thành thân quen, ngay từ đầu Thomas đã trao cho các sinh viên những nền tảng vững chắc. Các sinh viên ghép kiến thức mới vào kiến thức hiện hữu từng chút một, thể hiện tư duy riêng và không bao giờ lặp lại những cụm từ theo lối học vẹt. Thomas dạy họ cách tự học và hiếm khi phải uốn nắn các học viên một cách trực tiếp. Đến năm 2004, những đĩa CD, băng dạy tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha của Thomas – ghi lại quá trình Thomas dạy từng loại ngôn ngữ cho các nhóm hai học viên – là những khóa học bán chạy nhất ở Anh. Nhưng Michel Thomas không đơn thuần là một nhà ngôn ngữ học. Ông cũng là một anh hùng thời chiến. Cùng năm đó, ông được vinh danh ở Lễ Tưởng niệm Thế chiến II tại Washington D.C, nơi ông nhận được Huy chương Sao Bạc. Ông mất năm 2005 ở New York, là một công dân Hoa Kỳ nhưng sinh ra ở thành phố công nghiệp Lodz, Ba Lan với tên gọi Moniek Kroskof. Ông sống sót qua những trại tập trung, trở thành chỉ huy quân đội, điệp viên và chuyên gia thẩm vấn của phe Đồng Minh. Sau cuộc chiến, ông đã bắt hơn 2.000 tội phạm chiến tranh Đảng Quốc Xã. “Michel Thomas” là nhân dạng giả thứ năm và cũng là bí danh của ông. Kinh nghiệm tuyên truyền chuyên chế và sự nghiệp nằm vùng sau chiến tranh không phải là những điểm đáng chú ý trong lý lịch của Thomas. Những khám phá của ông về cách tâm trí đóng sập cánh cửa hay mở khóa trước sự mơ hồ – trọng tâm chính của cuốn sách này – xuất phát từ những trải nghiệm của ông ở Đức. Ông đã chứng kiến việc Đảng Quốc Xã đã nuôi dưỡng một cách tiếp cận thô bạo, thậm chí khinh bỉ trước sự bất định và phức tạp về đạo đức trong những đảng viên nồng nhiệt nhất như thế nào. Và sau đó ông dành ra nhiều thập kỷ phát triển các phương pháp để nuôi dưỡng một thái độ đối lập tuyệt đối ở những người học ngôn ngữ. Trên thực tế, 50 năm trước khi bộ phim phóng sự của BBC được ghi hình, Thomas đã kiểm tra các ý tưởng đầu tiên của mình trong một phiên bản hoàn toàn đối lập với buổi trình diễn sư phạm của mình ở Đại học City & Islington. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn của tác giả Jamies Holmes.
Để Thành Nhà Văn - Thu Giang & Nguyễn Duy Cần
Để Thành Nhà Văn là cuốn sách hướng dẫn người đọc cách trở thành nhà văn, không chỉ giỏi về kỹ thuật viết mà còn về nhân cách, tinh thần của một nhà văn chân chính. Qua cuốn sách này, tác giả Nguyễn Duy Cần đã trao đổi với bạn đọc một cách chân tình những kinh nghiệm và bí quyết để trở thành nhà văn, nhà phê bình văn học đứng đắn và xứng đáng với tên gọi của nó. *** Có lẽ vì đã viết được một vài quyển sách, thảo được một vài bài báo... mà có một vài bạn trẻ gán cho mình danh hiệu “nhà văn”, và đòi hỏi mách cho những bí quyết để trở thành “nhà văn”... Ôi, kinh nghiệm của đôi ba mươi năm cầm bút, lại cũng không do trường chuyên môn văn chương nào đào tạo cả, thì biết gì mà chỉ dẫn! Sự thực là thế. Lời nói đây là lời nói chân thành. Tôi chỉ viết khi nào tôi cảm thấy cần phải nói lên một điều gì thôi. Tuy nhiên, phàm đã cầm bút, thì dù cho ai, cũng không thể không nghĩ về những mật pháp của một nhà văn. Kẻ cầm bút này cũng đã từng trải qua tâm trạng thắc mắc ấy của các bạn thanh niên hiếu học có cao vọng muốn thành nhà văn. ⥚◌⥛ Những mật pháp của nhà văn, ta phải hỏi ai và hỏi đâu? Thiết tưởng không có cách nào hay hơn là hỏi những nhà văn tên tuổi và tài hoa đã được người người đủ mọi thế hệ nhìn nhận. Thật vậy, một mình mình có thể lầm, một thế hệ có thể lầm, nhưng mọi thế hệ, mọi dân tộc ít khi lầm. Kinh nghiệm của họ, đối với ta sẽ vô cùng quý báu, đỡ cho ta những dò dẫm, vụng về, đã chẳng những mất rất nhiều thời giờ, lại có khi không mang đến cho mình bao nhiêu kết quả. Ở đây, các bạn sẽ không tìm thấy những phương pháp cấu từ hay luyện văn như trong những quyển sách luyện văn gần đây mà phần nhiều dành cho học sinh hoặc cho những nhà văn trước giờ chưa từng biết qua những nguyên tắc căn bản đã được dạy ở nhà trường. Đây chỉ là một số ý kiến và kinh nghiệm của một số nhà văn có tiếng đã khám phá trong khi họ cầm bút. Bởi vậy, họ sẽ chỉ có ích cho những ai đã cầm bút, nghĩa là đã có được ít nhiều kinh nghiệm trong nghề viết văn. Nên nhớ rằng “đã cầm bút” chưa ắt “đã là nhà văn”, một nhà văn xứng đáng với danh từ của nó. Những gì sẽ trình bày sau đây, thực ra cũng không có chi là tân kỳ cả... nhưng đều là những vấn đề thiết yếu mà bất cứ một nhà văn chân chính nào cũng không thể bỏ qua không nghĩ đến được trong khi thừa hành sứ mạng của mình. Rất có thể các bạn sẽ không đồng ý với tác giả, - điều không mấy quan trọng, - nhưng chắc chắn, đó là những vấn đề mà các bạn sẽ không thể không lưu ý được đề tìm cho mình một đường lối hợp lý đối với mình. Nói thế là vì tác giả tin rằng không có ai giúp ai được, bởi một lẽ rất giản dị là không ai giống ai cả, từ tinh thần đến thể chất, và như vậy, không có thể lấy ai dùng “làm mẫu” cho ai được cả. Để chấm dứt, tác giả xin mượn lời của một văn sĩ nọ để thưa với các bạn: (...) “Đây cũng chỉ là những điều mà từ trước đến giờ người ta đã nói đi nói lại có cả trăm nghìn lần rồi, nhưng lại là những điều mà thỉnh thoảng ta cần phải lặp đi lặp lại mãi mà không bao giờ có thể gọi rằng thừa...” Tập sách nhỏ này, khi viết ra, tôi đã nghĩ dến việc bổ túc một phần nào quyển Tôi Tự Học mà tôi thấy còn nhiều thiếu sót... Tập làm văn là một phương pháp tự học hết sức cụ thể và nhiều hiệu quả nhất vì nó bắt buộc mình phải lo học mãi mà không thôi, và tự bắt buộc phải phô diễn ra bằng lời nói những gì mình đang thầm nghĩ trong tâm tư. Đó là một trong những cách tự học. “Cái gì mình biết thì biết là mình biết; còn những gì không biết thì cũng biết rõ là không biết”. Không nói hay viết ra được một cách rõ ràng là mình chưa thật hiểu, chưa thật biết. Bởi vậy, mỗi khi nói hoặc viết ra là một phương pháp để kiểm soát lại và nhận thức rõ hơn những hiểu biết của mình về một vấn đề nào. Còn một đề nghị nữa: Các bạn không nên quan tâm lắm đến những gì tôi trình bày, vì đó là những ý kiến riêng tư của một cá nhân, xin hãy chú ý đến những gì tôi đã khêu gợi được ở các bạn mà thôi. Được thế thì việc làm hôm nay sẽ không nỗi uổng. Thu Giang   Mời các bạn đón đọc Để Thành Nhà Văn của tác giả Thu Giang & Nguyễn Duy Cần.