Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghệ Thuật Xoay Chuyển Tình Thế

Dù bạn là ai, một CEO, một nhân viên bán hàng hay chỉ đơn thuần là người muốn tạo nên sự khác biệt, bạn đều mong muốn gây ảnh hưởng nhiều hơn tới mọi người. Tuy nhiên, đa số chúng ta lại không thật sự cố gắng tạo ra thay đổi vì nghĩ rằng điều đó quá khó hoặc không thể. Chúng ta thường mải miết phát triển các chiến lược ứng phó phức tạp, trong khi lẽ ra chỉ cần học các công cụ và phương pháp của những người có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Hãy thay đổi thực tế này với "Nghệ thuật xoay chuyển tình thế". Cuốn sách trình bày toàn bộ các bước của quá trình gây ảnh hưởng - bao gồm cả những chiến lược mạnh mẽ để biến chuyển những điều tưởng chừng như không thể thay đổi trong cuộc sống cá nhân, công việc và cả thế giới. Làm một tác nhân xoay chuyển, bạn có thể giúp mọi người trưởng thành hơn, thông minh, cuốn hút hơn và sống tốt đẹp hơn. Với một tác nhân xoay chuyển, chỉ có giới hạn duy nhất - Bầu trời! *** Tôi định mua cuốn Sức mạnh của việc suy nghĩ tích cực rồi chợt nghĩ: Cuốn sách đó có ích gì? — RONNIE SHAKES — Mở đầu cuốn sách là một lời khẳng định đầy táo bạo. Chúng tôi đã nói rằng nếu bạn sử dụng đúng chiến thuật với các kỹ thuật gây ảnh hưởng đủ cả về số lượng và loại hình, bạn có thể thay đổi mọi thứ. Dường như lời khẳng định này có vẻ đầy tự mãn và khó tin. Vì rõ ràng, có hàng nghìn thứ mà không ai có thể thay đổi được. Chúng tôi đã giải thích rằng hành vi là nguyên nhân gây ra hầu hết các vấn đề dai dẳng và đau đầu nhất của chúng ta. Nguồn tri thức ngày càng rộng mở cũng như nguồn cung cấp các câu chuyện về những thành công có thật trong cuộc sống sẽ dạy cho chúng ta cách thay đổi hầu hết các hành vi ứng xử của con người. Hãy đọc các tác phẩm sâu sắc của tiến sĩ Albert Bandura. Sau đó, hãy quan sát những điều mà tiến sĩ Mimi Silbert đang làm ở Delancey. Hai bậc thầy xoay chuyển này cho ta thấy nếu biết mình đang làm gì, bạn có thể thay đổi những hành vi thâm căn cố đế nhất. Ví dụ, 500 con người từng là tội phạm, nghiện ngập ở Delancey bây giờ luôn sẵn sàng tham gia các hoạt động sôi nổi có áp dụng các chiến thuật gây ảnh hưởng mà chúng tôi đã đề cập. Các chiến thuật này đã được sử dụng đúng chỗ để giúp những công dân đó từ bỏ thói quen phạm pháp và trở thành người có ích. Tất nhiên, việc mang lại những thay đổi sâu sắc như vậy ở 500 con người không hề dễ dàng, nhất là khi bạn đang làm việc với những người từng phạm trọng tội trung bình bốn lần. Nói cách khác, bạn đang phải xử lý vấn đề của một nhóm người gần như không còn chút hy vọng nào. Họ có thể là thành viên của băng đảng, người thiểu số hay tội phạm. Trước khi gia nhập Delancey, họ từng chịu các bản án hình sự nhưng khi mãn án, họ lại phạm tội. Hình phạt không giúp được họ. Họ có thể đã thề thốt rằng sẽ thay đổi, nhưng lần nào cũng vậy, họ lại khiến những người yêu quý thất vọng vì những việc làm sai trái của mình. Bản thân họ cũng thất vọng về chính mình. Họ đã không thay đổi mình. Họ thất bại vì không sử dụng đầy đủ và toàn diện chiến thuật thay đổi để làm lại cuộc đời. Tất cả 500 con người đó đã thất bại nhiều lần trước khi đến Delancey. Thế nhưng phương pháp của tiến sĩ Mimi Silbert đã dần biến đa số họ thành những công dân tuân thủ luật pháp. Thành công của tiến sĩ Silbert hoàn toàn không phải vì bà đã dành nhiều thời gian và tiền bạc hơn các tổ chức khác. Trong quá trình hoạt động, tổ chức của bà đã tự gây quỹ. Cho đến nay, Silbert đã giúp thay đổi hơn 14 nghìn người sa ngã. Đó là vì bà là một tác nhân xoay chuyển chân chính, một bậc thầy xoay chuyển. Bà biết cách giúp mọi người thay đổi suy nghĩ và hành động. Năm 1992, khi tiến sĩ Don Berwick và Viện Chăm sóc Sức khỏe Massachusetts (IHI) triển khai chiến dịch 100 nghìn sinh mệnh, họ đã đảm đương nhiệm vụ của một trong những tổ chức lâu đời nhất thế giới: Hệ thống Chăm sóc Sức khỏe Liên bang Mỹ. Thời điểm đó, ước tính có tới 100 nghìn bệnh nhân chết trong bệnh viện mỗi năm do chăm sóc sai. Berwick và đồng nghiệp quyết tâm tìm cách ngăn chặn những sai lầm này. Điều này đồng nghĩa với việc họ phải tìm ra phương thức để vừa tạo điều kiện, vừa tạo động lực cho các chuyên gia y tế, khích lệ họ làm việc theo phương pháp mới. Khi chiến dịch này mới bắt đầu, một số người trong ngành y tế còn chưa ý thức được rằng hành động của chính họ có thể gây nguy hại. Ngay cả những người ý thức được mối nguy hiểm tiềm tàng cũng không đủ khả năng xây dựng các chiến thuật xoay chuyển cần thiết để mang lại sự thay đổi sâu sắc và lâu dài. Berwick và đồng nghiệp đã kiên trì với chiến dịch cho đến khi tìm ra chính xác yếu tố cần thiết để thay đổi những hành vi đã ăn sâu bám rễ. Chỉ trong 18 tháng triển khai chiến dịch, theo ước tính đã có 122 nghìn ca tử vong được giảm bớt tại 3.100 bệnh viện. Hiện tại, Berwick và nhóm của ông đang tiến hành chiến dịch 5 triệu sinh mệnh. Nếu thành công, họ sẽ ngăn chặn được rất nhiều đau thương mất mát và mang lại hạnh phúc cho rất nhiều người trên thế giới. Chỉ tiêu của họ bây giờ cao gấp 50 lần chỉ tiêu ban đầu. Đó là vì họ đã có kinh nghiệm xoay chuyển tình thế. Để xem xét những thông tin cập nhật mới nhất, hãy trở lại vùng phụ cận Sahara, châu Phi. Trong vài thập kỷ qua, các nhà nhân chủng học và các chuyên viên y tế tâm huyết đã nỗ lực khuyến khích người dân địa phương đọc tài liệu về sán Guinea, tham gia các lớp tập huấn hay đơn giản là làm theo những lời khuyên chân thành của họ. Chỉ cần người dân lắng nghe, họ sẽ tránh được bệnh sán Guinea đáng sợ. Nhưng rất ít người làm theo những lời khuyên ấy và dịch bệnh đã lây lan cho hàng chục triệu người. Tiến sĩ Donald Hopkins và các bậc thầy xoay chuyển khác ở Trung tâm Carter đã vào cuộc. Kể từ thời điểm khởi đầu của chiến dịch xóa sổ sán Guinea, đội ngũ này đã giúp giảm tới 99,7% số ca mắc bệnh, xóa bỏ hoàn toàn bệnh dịch tại 11 trong số 20 quốc gia ước tính ban đầu. Theo kế hoạch, họ sẽ xóa sổ hoàn toàn dịch bệnh trước năm 2009. Họ có thể làm được như vậy không phải nhờ sự đột phá của y học mà bằng cách tạo động lực và điều kiện để những người hoàn toàn xa lạ có thể thay đổi hành vi của mình. Giống như các bậc thầy xoay chuyển mà chúng ta đã nghiên cứu, đội ngũ bác sĩ mẫn cán ấy đã chấp nhận một thử thách khó khăn, bỏ lại những phương pháp cũ và thất bại để xác định: Nếu muốn ngăn chặn thành công nạn dịch Guinea khủng khiếp, họ phải bắt đầu từ chính mình. Việc đầu tiên họ cần làm là học cách tác động lên hành vi của con người. Và họ đã thực hiện điều đó. Họ đến thăm các đối tượng cần thay đổi, nghiên cứu các hình mẫu tích cực và áp dụng nhiều phương pháp mà chúng tôi mô tả trong cuốn sách này. Kết quả là trong một ngày không xa, sán Guinea sẽ bị xóa sổ vĩnh viễn khỏi trái đất. Loại ký sinh trùng đáng sợ này sẽ tuyệt chủng; đó là sự đảm bảo cho cuộc sống của con người. Trên thực tế, Silbert, Berwick, Hopkins hay tất cả các bác sĩ và học giả mà chúng ta đã nhắc đến đã có những đóng góp kỳ diệu cho lịch sử khi tạo ra sự thay đổi. Họ đã thành công khi rất nhiều người khác thất bại. Họ đã chứng minh một điều: nếu biết cách sử dụng các phương thức tác động thích hợp và đặt chúng trong các chiến thuật được tính toán cẩn thận, bạn có thể thay đổi mọi thứ. Và điều tốt đẹp nhất mà mỗi bậc thầy xoay chuyển mang lại cho chúng ta là niềm hy vọng. Chúng ta cũng có thể trở thành bậc thầy xoay chuyển, tất nhiên là phải nỗ lực hết mình. Chúng ta phải chấm dứt kiểu xử lý vấn đề qua loa và học cách xây dựng chiến thuật gây ảnh hưởng toàn diện. Điều này đặt ra một vấn đề: liệu những người bình thường có thể sử dụng những nguyên tắc mà các bậc thầy xoay chuyển sử dụng không? Câu trả lời chắc chắn là “có”. Không ai trong số những người mà chúng ta đã nhắc đến được đào tạo kỹ năng gây ảnh hưởng. Nhưng họ đều học được cách khuất phục những vấn đề nan giải nhất. Để bắt đầu những nỗ lực của chính mình, hãy sử dụng cuốn sách này để học cách tạo ra thay đổi. ĐI TÌM NHỮNG HÀNH VI MANG TÍNH QUYẾT ĐỊNH Hãy bắt đầu từ những hành vi mang tính quyết định. Chẳng ích gì khi sử dụng cùng lúc hàng tá phương pháp phức tạp nhưng lại hướng tới những hành động sai lầm. Hãy học hỏi từ các công trình nghiên cứu của Ethna Reid. Phương pháp của bà là tìm hiểu và so sánh cách làm việc của những người có thành tích cao nhất và những người bình thường; tìm hiểu những hành vi độc đáo của họ, mà không thể có ở người khác; sau đó hướng dẫn những người yếu kém thực hiện chúng. Nếu đạt được những tiến bộ rõ rệt, nghĩa là nỗ lực của bạn đã không bị lãng phí. Khi lụa chọn một danh sách các chiến thuật xoay chuyển mà, hãy lựa chọn kỹ lưỡng và khoa học. Chỉ chấp nhận những giải pháp đã được thực chứng qua các phương pháp phân tích so sánh. Mở đầu bằng việc tìm kiếm những công trình học thuật, các ấn bản của các trường đại học, các công trình nghiên cứu hay được trích dẫn và kết quả nghiên cứu của những người có danh tiếng trong ngành. Bạn sẽ tìm thấy chúng trong các bài viết được công chúng quan tâm và trân trọng chứ không phải trong các tờ quảng cáo. Trong bất cứ trường hợp nào, hãy tìm hiểu kỹ lưỡng những kiến thức sẵn có và đừng vội vàng chấp nhận kế hoạch đầu tiên bạn có. Sau khi nghiên cứu các hành vi mang tính quyết định mà những người khác đã sử dụng thành công, hãy tìm ra phương pháp phù hợp với bạn nhất bằng cách áp dụng các nguyên tắc của hình mẫu tích cực. Xem xét lại những lần bạn đã thành công và cố gắng tìm ra động lực hay chiến thuật đã mang lại thành công đó. Khi đã xác định được các hành động từng mang lại thành công, hãy tiến hành những thử nghiệm nhỏ để khẳng định chắc chắn những phân tích nói trên. Đừng đề ra mục tiêu quá cao. Thay vào đó, hãy đặt ra những mục tiêu ngắn hạn. Thử nghiệm những hành vi mang tính quyết định trong môi trường ít rủi ro và quan sát xem bạn thành công với phương pháp nào. THÊM NGUỒN Đằng sau mỗi hành vi mang tính quyết định luôn có sáu nguồn tác động riêng biệt. Nếu may mắn, một nguồn tác động này cũng có thể mang lại thành công cho chiến thuật thay đổi. Nếu bạn nhận ra rằng để giúp các con của bạn yêu thích đọc sách thì bạn phải cùng đọc chúng, chắc hẳn bạn sẽ thu được kết quả tốt đẹp. Có thể bạn từng tức điên lên khi cho nhân viên tham gia các chương trình hợp tác đào tạo, rồi khi trở về với môi trường xã hội thực tại, không ai áp dụng những điều đã học. Vì vậy, bạn phải tăng cường yếu tố xã hội và cấu trúc vào hỗn hợp đó. Hiển nhiên, những nền tảng kiến thức và kinh nghiệm bạn có được sẽ là chỗ dựa vững vàng cho những tình huống tương tự bạn gặp phải. Trong một vài trường hợp, dù không phổ biến, khi các chiến thuật tác động trước đây của bạn còn thiếu sức mạnh để mang lại thay đổi, việc chọn lọc các khái niệm mà chúng ta đã vạch ra sẽ đưa bạn trở lại con đường thành công. CHẨN ĐOÁN TRƯỚC KHI KÊ ĐƠN Chú ý: nếu bạn phải đương đầu với những thách thức nan giải hơn nhiều, bạn cần học theo các bậc thầy xoay chuyển. Hãy chẩn đoán trước khi kê đơn. Tìm hiểu xem những nguồn tác động nào ảnh hưởng đến hành vi bạn muốn thay đổi. Hầu hết các nhà lãnh đạo không làm việc này mà chỉ kết hợp các phương pháp thành một chiến thuật tác động tổng hợp và cho rằng có thể áp dụng nó trong mọi tình huống. Các bậc thầy xoay chuyển sẽ không làm như vậy. Hãy xem xét trường hợp của bác sĩ Warren Warwick tại Bệnh viện Trẻ em thuộc Đại học Fairview. Ông khám phá ra thuốc men không tốt hơn chiến thuật tác động. Một bệnh nhân u nang 18 tuổi không chịu tuân theo kế hoạch điều trị. Thay vì giảng giải cho cô gái về hậu quả của việc bỏ dở điều trị, bác sĩ Warwick đã tìm hiểu nguyên nhân sâu xa. Thay vì hét lên: “Chuyện quái gì xảy ra với cô thế?” ông đã cố gắng tìm hiểu xem vì sao cô gái lại không chịu tuân theo quá trình điều trị để cứu mạng sống của mình. Sau khi điều tra và chịu khó lắng nghe, ông đã tìm ra lý do. Cô gái này mới có bạn trai và một nửa thời gian của cô là ở cùng với anh ta. Trước đây, mẹ cô gái vẫn theo dõi quá trình điều trị của cô nhưng bây giờ, cô thường không ở nhà vào giờ uống thuốc. Cô có một công việc mới vào buổi tối. Ngôi trường cô đang học thay đổi nội quy và yêu cầu cô phải có y tá riêng để theo dõi thuốc men. Không chấp nhận điều này, cô ngừng uống thuốc. Điều tệ nhất là dù thể tích phổi của cô đã giảm 20% trong hai tháng, nhưng cô lại cảm thấy khỏe hơn. Điều này khiến cô nghĩ rằng ngừng điều trị cũng không sao. Càng nói chuyện nhiều với bệnh nhân, bác sĩ Warrwick càng hiểu rõ nguyên nhân vì sao cô gái không tuân theo quá trình điều trị. Sau khi đã tìm ra nguồn cần tác động, ông cùng bệnh nhân xây dựng kế hoạch điều trị và cứu được tính mạng cô gái. BỔ SUNG CÁC NGUỒN KHÁC Khi hành vi bạn muốn thay đổi được duy trì bởi một vài nguồn, bạn cần một chiến thuật tác động để giải quyết mọi vấn đề bạn đang phải đối mặt. Thế giới được tổ chức hoàn hảo để mang lại cho bạn những thành quả mà bạn đáng được hưởng. Sử dụng cả sáu nguồn tác động Để đạt được thành quả mới, bạn cần thay đổi một vài yếu tố nhằm tạo động lực và điều kiện cho những hành vi lành mạnh. Tuy nhiên, đó lại không phải là cách mọi người thường làm. Trong những năm qua, chúng tôi đã làm việc với lãnh đạo các tập đoàn, những người biết rõ cần thay đổi toàn bộ giá trị văn hóa và thói quen hành động trong tổ chức của mình. Họ hiểu cách làm việc của nhân viên trong công ty đang khiến năng suất, số lượng khách hàng và lợi nhuận giảm đi. Khi chúng tôi mô tả các chiến thuật sử dụng sáu nguồn tác động cần thiết để đạt được kết quả mong muốn, các vị lãnh đạo này nói họ có thể chọn một trong các chiến thuật mà chúng tôi gợi ý, giống như việc chọn mua một món hàng trong catalog. Họ muốn “mua rẻ” những tác động, nhưng họ không thể có được những thay đổi mong muốn theo kiểu mua bán bớt một thêm hai như vậy. Tuy nhiên, hoàn cảnh tuyệt vọng sẽ dẫn đến những hành động liều lĩnh và mọi người thường tìm kiếm những giải pháp đơn giản, cho dù họ vẫn đang học hỏi các bậc thầy xoay chuyển. Ví dụ, tiến sĩ Silbert cho biết trong ba thập kỷ qua, bà đã dành rất nhiều thời gian làm việc với những người đã đi nửa vòng trái đất đến để tìm hiểu những điều bà đã và đang thực hiện để giúp những tên tội phạm và những con nghiện trở thành công dân tốt. Silbert kể lại toàn bộ những điều bà đã làm, nhấn mạnh mỗi yếu tố cần thiết để mang lại thành công. Bà nêu rõ những hành vi mang tính quyết định mà tổ chức luôn cố gắng khích lệ. Bà cũng lưu tâm đến cách chủ động tạo ra những kinh nghiệm thực tế hoặc các trải nghiệm gián tiếp nhằm giúp các đối tượng thay đổi tư duy. Bà cũng phải trải qua rất nhiều khó khăn để đảm bảo chiến thuật gây ảnh hưởng của mình đủ mạnh với cả sáu nguồn tác động. Những người cất công đến Delancey sẽ ra về với cảm giác tràn trề hy vọng. Họ trở về nhà, chọn một ý tưởng để bổ sung cho những nỗ lực không hiệu quả của mình. Đương nhiên, chỉ với yếu tố này, họ không thể có đủ sức mạnh để thay đổi. Vì vậy, phương pháp được cho là “mới và cải tiến” của họ lại thất bại. Điều này khiến các bậc thầy xoay chuyển không khỏi băn khoăn vì sao cố gắng của họ lại không thành công. Những nỗ lực thay đổi kiểu “quán ăn tự phục vụ” rất thường xảy ra. Ở đó, mỗi người chỉ chọn một vài yếu tố trong một tổ hợp đầy đủ. Ví dụ, nếu bạn xem xét việc quảng bá chiến lược “cơ hội thứ hai” ở bắc Carolina mà chúng tôi đã nhắc tới, bạn sẽ nhận ra hướng đi của nó hoàn toàn có thể dự đoán trước và kết thúc thất bại. Hẳn bạn vẫn nhớ chiến lược giảm số lượng tội phạm rất khôn khéo khi những kẻ buôn ma túy sắp bị bắt được đưa đến một căn phòng có nhiều hình ghi lại cảnh phạm tội của họ. Đầu tiên, viên chưởng lý sẽ mở các đoạn phim ghi lại cảnh phạm tội của các đối tượng. Sau đó, ông yêu cầu các đối tượng giơ tay lên khi cho rằng mình phạm tội. Và họ đã làm như vậy. Cách tạo ra sự ám ảnh tiềm tàng, kết hợp với sự hỗ trợ của gia đình, đào tạo nghề và những yếu tố thiết yếu khác đã mang lại kết quả tốt đẹp. Trên thực tế, những người thiết kế chương trình “cơ hội thứ hai” đã phải rất nỗ lực để đảm bảo cả sáu nguồn tác động đều chịu ảnh hưởng bởi chiến thuật thay đổi của họ. Những kết quả ấn tượng nhờ sự nỗ lực toàn diện và khéo léo đã được đưa lên báo. Lãnh đạo ngành cảnh sát vô cùng hào hứng với chiến thuật đó và lựa chọn một vài yếu tố mà họ cho rằng Hội đồng nhân dân thành phố sẽ tán đồng hay vài phương pháp có đủ kinh phí thực hiện. Hay họ có thể để tâm đến giải pháp hiện tại, nhưng gọi nó là “chương trình cơ hội thứ hai”. Nhưng hiển nhiên, nếu chỉ áp dụng một phần của cả chiến lược toàn diện thì những nỗ lực thay đổi sẽ thất bại. Cuối cùng, những người mong muốn học được kỹ năng gây ảnh hưởng lại phải tìm kiếm các kế hoạch thay đổi khác, lại lựa chọn chỉ một phần chiến lược và tiếp tục thực hiện mà không đạt hiệu quả. Họ sẽ còn thất bại nhiều lần. Nếu một nguồn tác động không mang lại kết quả, hãy sử dụng các nguồn khác Các chiến lược cực kỳ đơn giản mà hầu hết mọi người sử dụng như lựa chọn kiểu quán ăn tự phục vụ luôn có điểm tương đồng. Khi cần tạo động lực cho người khác, chỉ cần một yếu tố tác động đủ mạnh cũng có thể thay thế tất cả các nguồn tác động khác. Ví dụ, bạn không thích công việc hiện tại, bạn không ưa đồng nghiệp, tuy nhiên, bạn vẫn đến công ty hàng ngày. Đó là vì bạn cần tiền. Tiền khiến bạn chấp nhận công việc tẻ nhạt và những đồng nghiệp khó ưa. Tương tự, khi có quyền lực trong tay, nhiều người thường sử dụng cách dọa nạt thay vì khích lệ. Tất nhiên, khi đó, nhân viên cấp dưới buộc phải làm việc tích cực hơn. Nhưng khi bị thúc ép quá đáng, nếu không được giám sát thường xuyên, kết quả mà họ mang đến không phải lúc nào cũng tốt. Tệ hơn, việc lạm dụng quyền hạn sẽ biến những người có quyền lực trở thành những ông chủ độc đoán, khó ưa. Những người không có khả năng xoay chuyển sẽ bào chữa cho lựa chọn sai lầm của mình bằng cách khẳng định và kiên trì với phương án họ đang sử dụng. Ngược lại, các bậc thầy xoay chuyển sẽ sử dụng các nguồn tác động khác thay vì theo đuổi vô vọng nguồn tác động yếu kém duy nhất đã chọn. Ví dụ, những người sử dụng chiến thuật thay đổi dựa vào động cơ bên ngoài thường không biết tầm quan trọng và vai trò tạo động lực của các yếu tố bên trong. Những người có khả năng gây ảnh hưởng dễ dàng thành công hơn nhờ sử dụng cùng lúc nhiều nguồn tác động. Nói cách khác, họ sẽ hợp tác thay vì phản ứng lại áp lực từ đồng nghiệp. Họ tạo ra mối liên hệ giữa những hành vi mang tính quyết định và phương thức khen thưởng hợp lý. Tóm lại, họ liên kết tất cả các nguồn động lực với các hành vi mang tính quyết định. Đối với các vấn đề liên quan tới năng lực, việc khéo léo sắp xếp công việc để đảm bảo thành công rất quan trọng. Khi năng lực hạn chế, một nguồn tác động tích cực không thể thay thế các nguồn khác. Ngược lại, chỉ một yếu tố gây trở ngại cũng đủ khiến các nguồn tác động trở nên vô nghĩa. Ví dụ, tại công sở, bạn hoàn toàn có thể làm xong phần việc của mình, nhưng nếu người cung cấp vật liệu và thông tin bạn cần không thể hoàn thành phần việc của họ, rõ ràng, bạn sẽ gặp khó khăn. Thậm chí, ngay cả khi những người khác hoàn thành tốt nhiệm vụ của họ nhưng hệ thống máy tính hỏng, bạn cũng không thể hoàn thành công việc đúng tiến độ. Sai lầm mà những người ít có khả năng gây ảnh hưởng thường mắc phải khi nỗ lực tìm kiếm sự thay đổi không phải ở chỗ họ cố gắng thay thế các nguồn tác động không hiệu quả bằng nguồn tác động mạnh hơn. Sai lầm phổ biến của họ là họ chỉ tập trung vào một rào cản, cố gắng loại bỏ nó và cho rằng thế là thành công. Nhưng đằng sau mỗi rào cản đó có đến sáu nguồn tác động và rất nhiều yếu tố cần lưu tâm khác. Đằng sau mỗi vấn đề dai dẳng, sự bảo thủ là rào cản tiêu cực. Nó khiến vấn đề trở nên khó khăn hơn. Ví dụ về việc chăm sóc sức khỏe của bạn. Khi nói chuyện với chuyên gia tư vấn sức khỏe, bạn cần hiểu rằng một triệu chứng nào đó xuất hiện nghĩa là bạn đang có một căn bệnh trong cơ thể. Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng những bệnh nhân nói: “Vâng, có vẻ như tôi đã bị bệnh X, nhưng liệu có còn bị bệnh gì khác không?” có nhiều khả năng chữa trị thành công và có sức khỏe tốt hơn những người tin rằng chỉ cần tìm ra nguyên nhân và chữa trị thành công một căn bệnh thì họ sẽ khỏe mạnh. Hầu hết chúng ta đều thuận theo khuynh hướng tự nhiên và bỏ qua rất nhiều công cụ có thể giúp làm việc tốt hơn. Khi cần xử lý các vấn đề cá nhân phức tạp, chúng ta thường không suy nghĩ và cân nhắc hành động. Ví dụ, trong môn học ảnh hưởng của năng lực lãnh đạo và kỹ năng xử thế, học sinh hiếm khi được dạy các hành vi cụ thể mà các em có thể thực hành đồng thời nhận được những nhận xét cụ thể của giáo viên. Những điều các em được học là một hệ tư tưởng không đầy đủ và khó có thể dẫn đến sự thay đổi hành vi. Khả năng chống lại sự cám dỗ hiếm khi được nhìn nhận như một kỹ năng. Trái lại, nó bị quy chụp là yếu tố di truyền, nét tính cách do bộ gen quy định. Đó là lý do tại sao không ai luyện tập các phương pháp kiềm chế sự hài lòng. Khi chúng ta không tin năng lực chiến thắng cám dỗ là một kỹ năng, chúng ta sẽ sử dụng bất cứ nguồn động lực nào có thể. Cuối cùng, những thất bại không thể tránh khỏi khiến ta đánh mất niềm tin, trở nên tuyệt vọng, không còn hứng thú tìm kiếm và học hỏi những kỹ năng mới và tốt hơn. Nguồn vốn xã hội cũng chứa đựng rất nhiều yếu tố có khả năng tạo ra thay đổi, nhưng vẫn chưa được khai thác đúng mức. Chúng ta thường cho rằng trong mỗi cuộc chiến tranh, chỉ duy nhất một người giành chiến thắng. Những người hùng luôn được nhắc tên riêng, không phải là cái tên tập thể như “nhóm” hay “đội”. Vì thế, nhiều người cho rằng đề nghị người khác giúp đỡ là một hành động thể hiện sự yếu đuối chứ không phải một chiến lược khôn ngoan. Các bậc thầy xoay chuyển hàng đầu hiểu rõ điều này. Họ xác định những cá nhân quan trọng trong nỗ lực thay đổi nhằm mang lại thành công. Họ biết tận dụng ảnh hưởng từ đồng nghiệp và đảm bảo các quy ước xã hội sẽ hỗ trợ chứ không cản trở các nỗ lực thay đổi. Hầu hết mọi người đều không ý thức được sức mạnh của môi trường vật chất trong việc tạo ra sự thay đổi. Đây là nguồn tiềm năng chưa được khai thác đúng mức. Chúng ta hiếm khi nhìn thấy ảnh hưởng của môi trường vật chất đối với bản thân, vì vậy, không thể áp dụng yếu tố môi trường như một nguồn tác động để tạo ra sự thay đổi. Nói cách khác, bạn cần sử dụng cả sáu nguồn tác động khi xây dựng chiến thuật xoay chuyển. Đừng coi các công cụ xoay chuyển giống như các công cụ lựa chọn món ăn trong tiệc búp phê, hãy coi chúng như một hướng tiếp cận toàn diện để tạo ra những thay đổi lớn có tính hệ thống và lâu dài. Hãy lưu tâm tới cả hai nguồn xoay chuyển: sử dụng động lực và năng lực. Sau đó, hãy khám phá kết quả đạt được bằng cách áp dụng sức mạnh cá nhân, xã hội và cấu trúc để giải quyết vấn đề. Lúc này, bạn có trong tay cả sáu nguồn lực xoay chuyển. Hãy tận dụng chúng tối đa! BIẾN THAY ĐỔI THÀNH TẤT YẾU Hãy tìm hiểu khái niệm hiện thực hóa những thay đổi. Khả năng này, hơn bất cứ yếu tố nào, giúp phân biệt tác nhân xoay chuyển bậc thầy với những người khác. Họ thường xác định các hành vi mang tính quyết định để hiện thực hóa những thay đổi. Điều này có nghĩa là họ thường xuyên xem xét cả sáu nguồn lực xoay chuyển, tìm kiếm phương pháp từ trong đó và tiếp tục bổ sung những chiến thuật xoay chuyển mới trong khi những người khác đã ngừng tìm kiếm đòn bẩy cho những thay đổi. Họ thực hiện công việc đó với những lý do tích cực. Điều thường thấy là những thay đổi họ mong muốn bao giờ cũng rất táo bạo, dường như vô vọng, đến mức họ cần sử dụng mọi nguồn lực xoay chuyển mạnh mẽ. TỔNG KẾT Hãy kiểm nghiệm xem các nguyên tắc chúng ta đã bàn có thể kết hợp với nhau như thế nào trong một ví dụ cụ thể. Chúng tôi từng làm việc với đội ngũ quản lý của một công ty để xử lý một vấn đề nghiêm trọng. Lãnh đạo công ty đã áp dụng phương thức xoay chuyển theo gợi ý của chúng tôi để giải quyết yếu kém trong việc thực hiện các cam kết của công ty. Trong công ty, các nhân viên rất giỏi đưa ra cam kết nhưng không thể thực hiện chúng. Với mỗi dự án mới, ban giám đốc đặt ra mục tiêu rõ ràng và trưởng các phòng ban đều tán thành triển vọng và tiến độ hoàn thành của dự án. Nhưng sau đó, một vài phòng ban không đảm bảo tiến độ công việc khiến toàn bộ dự án bị trì hoãn. Thói quen hoàn thành không đúng tiến độ khiến lãnh đạo công ty phải đau đầu với những lời phàn nàn của khách hàng. Chi phí cho sự chậm trễ và rắc rối tăng đến mức không kiểm soát được. Công ty bị mất uy tín và thiệt hại vì không hoàn thành cam kết. Khách hàng quen ít dần còn khách hàng mới lại vô cùng khó kiếm. Để xác định các hành vi “tự thua” và dẫn đến thất bại, một nhóm bao gồm một số thành viên ban giám đốc và chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các nhà quản lý và nhân viên dự án. Kết quả là mọi người đều biết rất rõ thất bại và cả nguyên nhân của thất bại. Một trong những điều phi lý mà chúng tôi biết là các giám đốc chỉ đưa ra kế hoạch mà không hề xem xét khả năng hoàn thành thực tế của nhân viên. Một nhà quản lý dự án giải thích: “Ngay từ đầu, chúng tôi đã biết không thể hoàn thành dự án vì không có đủ nguồn cần thiết. Nếu phơi bày ra, dự án của chúng tôi chẳng khác gì một con tàu đang bị phá hỏng dần. Chúng tôi biết rõ là dự án sẽ không thể hoàn thành nhưng chỉ có thể ngồi đó và nhìn nó đi vào ngõ cụt.” Một nhà quản lý dự án khác giải thích rằng toàn bộ đội ngũ tham gia dự án đang cùng “chơi” một trò chơi mạo hiểm. Trong mọi cuộc họp trù bị và triển khai, các nhà quản lý dự án đều khẳng định họ đang đầu tư đúng chỗ và đúng tiến độ. Thực tế lại khác, họ đang cầu mong ai đó không hoàn thành tiến độ và phải chịu toàn bộ trách nhiệm trong khi những người khác thoát tội. Đó là một trò chơi nguy hiểm; nó khiến các nhà quản lý đấu đá lẫn nhau và cuối cùng, khách hàng là người chịu thiệt. Chúng tôi phát hiện rằng các dự án của công ty thất bại vì trước tiên, người phụ trách dự án không hoàn thành nhiệm vụ. Với mỗi dự án, một lãnh đạo cấp cao sẽ được chỉ định phụ trách. Công việc của ông ta là chịu trách nhiệm về mọi việc liên quan đến dự án. Trên lý thuyết, người này sẽ phải giúp toàn bộ đội ngũ thực hiện hiểu về dự án sẽ triển khai vì chính họ sẽ phải cạnh tranh với các lãnh đạo khác để có được nguồn vốn cần thiết. Nếu có vấn đề gì xảy ra, ông ta cần tìm kiếm các nguồn vốn thay thế cần thiết, bổ sung nhân sự để mọi việc trở về đúng quỹ đạo. Vấn đề ở chỗ những người phụ trách dự án lại thường vắng mặt trong các cuộc họp, do vậy quan điểm giữa các phòng ban không thống nhất và không thể lôi kéo các lãnh đạo khác hỗ trợ cho dự án. Đội ngũ thực hiện dự án không nhận được sự chỉ đạo cần thiết và đương nhiên, toàn bộ dự án sẽ bị chững lại. Một dự án tiêu tốn hàng nghìn giờ của nhân viên và hơn một triệu đô-la vốn đầu tư mà không đạt được kết quả gì. Nhưng thất bại đau đớn nhất là chỉ sau nửa thời gian triển khai dự án, ai cũng biết nó sẽ thất bại bởi người phụ trách dự án không làm gì để thúc đẩy các cam kết, tìm kiếm trợ giúp từ các cổ đông hay thậm chí chỉ là thể hiện tinh thần trách nhiệm. Tất nhiên, mọi người vẫn có mặt đầy đủ trong các cuộc họp, nhưng chỉ để ngồi nghịch điện thoại di động vì rõ ràng, những cuộc họp đó không mang lại lợi ích gì. Tìm kiếm hành vi mang tính quyết định Để tìm hướng giải quyết và thay đổi lối tư duy sợ hãi và thất bại, chúng tôi đã tìm hiểu xem có nhà quản lý dự án hay trưởng phòng nào thường hoàn thành đúng tiến độ công việc không. Chúng tôi muốn xem cách họ làm việc. Và chúng tôi đã tìm ra. Cùng với ban giám đốc, chúng tôi đã nghiên cứu những hình mẫu tích cực này. Khi nghiên cứu các nhà quản lý thành công, chúng tôi hiểu vì sao họ thành công còn những người khác thất bại. Ví dụ, trong một cuộc họp quan trọng, chúng tôi quan sát một người xử lý việc lên kế hoạch phi thực tế. Một giám đốc cấp cao đã cam kết hoàn thành đúng hạn khi chưa xem xét khả năng thực hiện của công ty. Khi phải giải trình về quyết định sai lầm đó, vị giám đốc trở nên bảo thủ. Bà ta nói sẽ thuê người ngoài làm nếu đội ngũ nhân viên công ty không làm được. Điều kỳ diệu đã xảy ra. Chúng tôi quan sát nhà quản lý dự án đầy kinh nghiệm xử lý vấn đề. Chị tránh thái độ đối đầu và điềm tĩnh khẳng định mục đích chung của đội ngũ quản lý dự án và vị giám đốc kia. Khi rời phòng họp, chị đã có một dự án thực tế hơn nhiều, có được sự ủng hộ của bà giám đốc và hơn hết, có được sự đồng thuận về những cam kết cho các dự án trong tương lai. Quan sát người phụ nữ này và các tấm gương điển hình khác, chúng tôi đi đến kết luận là các hành vi mang tính quyết định đảm bảo cho thành công của dự án cần phải xử lý cái mà chúng tôi gọi là “cuộc đàm phán mang tính quyết định”. Trên thực tế, bản thân việc thực hiện thành công những cuộc đàm phán mang tính quyết định chính là một hành vi mang tính quyết định. Trong cuốn Crucial conversations (Những cuộc đàm phán quyết định), chúng tôi đã chỉ ra những hành vi mang tính quyết định phổ biến như khả năng nói, được lắng nghe và khích lệ người khác làm điều tương tự bất kể vấn đề đó gây tranh cãi hay quan điểm của người đó khác biệt như thế nào. Khi đã tìm ra những hành vi mang tính quyết định cần thiết (chính là khả năng xử lý kế hoạch phi thực tế và sự vắng mặt của những người phụ trách dự án), công việc của chúng tôi là sử dụng mọi phương thức có thể để đảm bảo đạt được kết quả mong muốn. Chắc hẳn bạn sẽ biết phải làm gì để giúp mọi người thực hiện những hành vi mang tính quyết định và thay đổi lối suy nghĩ cũ. Thay đổi cách gây ảnh hưởng Chúng tôi biết chắc chắn một điều: thuyết phục bằng lời nói ít khi đạt được hiệu quả. Nói với một ai đó là họ cần đưa ra ý kiến khi chính họ đang không đồng tình với cấp trên hay vừa nghe một tin xấu chẳng khác gì thuyết phục họ ngây thơ và mạo hiểm phô ra các vấn đề công việc của mình hay bị coi như một kẻ suốt ngày chỉ biết ca thán. Tất nhiên, bạn không thể thành công. Điều chúng tôi cần làm là tìm cách thay đổi hai quan điểm của họ. Thứ nhất, họ cần tin tưởng rằng mình có thể nói thẳng thắn mà không bị xem là nổi loạn hay bạc nhược. Thứ hai, họ cần tin tưởng rằng nếu mình có thể đưa ra ý kiến phản đối thì mình và đồng nghiệp sẽ có sự lựa chọn đúng đắn về thời hạn hoàn thành công việc, nguồn vốn và cuối cùng, có thể hoàn thành mục tiêu đề ra. BIẾN THAY ĐỔI THÀNH TẤT YẾU Để thay thế sự sợ hãi cố hữu bằng niềm tin đang lớn dần từng ngày, các nhân viên không cần bất cứ bài giảng nào. Thứ họ cần là cải thiện kỹ năng thực tế của mình (Năng lực cá nhân). Để làm được điều đó, chúng tôi đã chọn ra những hành vi tương đối phức tạp mà những người có khả năng xử lý mọi việc và luôn cân nhắc hành động đã thực hiện. Chúng tôi chia các kỹ năng thành các phần dễ học và đưa vào các ví dụ thực tế, tích cực. Mọi người được luyện tập kỹ năng mới trong môi trường đào tạo mà họ cảm thấy an toàn. Người hướng dẫn luôn sẵn sàng giúp đỡ và đưa ra nhận xét. Cuối cùng, khi năng lực được cải thiện, họ bắt đầu tin rằng mình có thể nói lên suy nghĩ mà không bị phê phán. Nhưng không dừng lại ở đó, chúng tôi còn giúp các nhân viên tìm ra mối liên hệ giữa các kỹ năng mới với hình mẫu họ mong muốn trở thành và giá trị thực của họ (Động lực cá nhân). Họ được yêu cầu học các kỹ năng mới không phải vì đó là những kiến thức mới mẻ mà vì nhờ chúng, họ có cơ hội trở thành mẫu người mà mình mong muốn. Không ai muốn trở thành nạn nhân của một dự án thất bại, dối trá về thiện ý của mình, cầu mong điều tồi tệ xảy ra với đồng nghiệp. Vì thế, trong quá trình tập huấn, mọi người đã bàn luận cởi mở về văn hóa công ty và những ảnh hưởng xấu của nó đến giá trị và niềm tin. Họ bàn về điều cần thiết để trở thành một đội ngũ làm việc chuyên nghiệp thay vì một nhóm người lừa dối! Chúng tôi còn giúp các lãnh đạo nhóm thấy được hậu quả trực tiếp của việc không bám sát dự án hay lập những kế hoạch phi thực tế. Chúng tôi yêu cầu họ bỏ ra một buổi cuối tuần để xem xét vấn đề do việc gây áp lực buộc nhân viên cấp dưới hoàn thành công việc đúng tiến độ mà không suy xét thấu đáo. Đến lúc này, một Giám đốc điều hành đã phải thừa nhận cuộc hôn nhân của anh ta chút nữa đã đổ vỡ chỉ vì anh ta không thể về nhà thường xuyên vào cuối tuần trong hơn một năm. Đội ngũ lãnh đạo sau đó đã hoàn toàn thay đổi quan điểm về trách nhiệm trong công việc. Để tạo ra những động lực mới cho việc học tập và thực hiện những hành vi mang tính quyết định, chúng tôi đã tìm kiếm sự hỗ trợ từ xã hội (Động lực xã hội). Đầu tiên, chúng tôi tìm tới các nhà lãnh đạo về đường lối, đề nghị họ giúp đỡ và đi đầu trong nỗ lực thay đổi. Họ là những người đầu tiên được tập huấn. Sau khi học được những kỹ năng trực tiếp giúp họ xử lý những vấn đề nan giải mà họ phải đương đầu trong những năm qua, đồng thời nhìn thấy được lợi ích to lớn của việc học tập và áp dụng các kỹ năng này, các nhà lãnh đạo về đường lối đã khích lệ nhiệt tình cấp dưới và đồng nghiệp tham gia tập huấn sử dụng các kỹ năng đó. Để biến những câu chữ đơn thuần thành kinh nghiệm quý báu, một vài người đã kể lại những câu chuyện cảm động về lợi ích họ có được từ các kỹ năng này. Để giúp các nhân viên sử dụng các kỹ năng trên hàng ngày, họ được phân thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm được tập huấn riêng với sự trợ giúp của trưởng nhóm. Mỗi nhóm gồm ba người. Sau khi việc tập huấn kết thúc, nhóm đó sẽ gặp nhau và thảo luận về việc họ đã làm thế nào để nắm bắt và xử lý vấn đề trước đó. Họ thường gặp nhau vào buổi trưa và giúp nhau chuẩn bị cho những cuộc đàm phán quan trọng. Các giám đốc tạo thêm động lực để từng bước xây dựng và nắm bắt các hành vi mang tính quyết định bằng việc bổ sung các hành vi cần hướng tới trong các cuộc họp báo cáo công việc và quyết định mức thưởng hàng năm (Động lực tổ chức). Nhân viên được đánh giá theo các kỹ năng mà họ có được sau tập huấn. Thêm nữa, tùy theo mức độ cải thiện hành vi mang tính quyết định trong toàn công ty, đội ngũ quản lý cấp cao sẽ có được thêm 25% tiền thưởng. Tất cả các hành động này đã giúp cải thiện dần tình hình. Cuối cùng, để tận dụng tốt tác động của môi trường làm việc, mỗi phòng họp đều treo các biển báo hay hình ảnh về các kỹ năng cần dùng khi xử lý các vấn đề của dự án (Năng lực tổ chức). Các lãnh đạo cũng có một danh sách các kỹ năng cơ bản đặt bên trên lịch họp để nhắc nhở họ ôn lại một hoặc vài yếu tố trong mỗi buổi họp. Sau đó, để tăng cường sức mạnh tập thể, hai nhóm trước kia có xích mích trong công việc được chuyển đến làm cùng khu vực. Ở đó, việc tiếp xúc thường xuyên giúp họ hợp tác và hỗ trợ nhau nhiều hơn. Hãy xem xét cẩn thận những nguyên tắc chúng tôi trình bày trong cuốn sách này. Đội ngũ đổi mới đặc biệt này đã có thể vượt qua vấn đề nan giải nhất. Chúng tôi biết họ thành công bởi chính chúng tôi đã khảo sát kết quả mà họ đạt được. Bằng cách tính toán trước các hành vi mang tính quyết định, sau đó tìm mối liên quan giữa những cải biến về hành vi với các chỉ số cơ bản thể hiện thành tích làm việc, nhóm nghiên cứu đã phát hiện không chỉ những hành vi mang tính quyết định tăng nhanh mà đồng thời với mỗi phần trăm tăng lên của hành vi mang tính quyết định đó, năng suất cũng được cải thiện tới 1,5 triệu đô-la. Việc cải thiện hành vi mang tính quyết định còn có ảnh hưởng tương tự tới chỉ số chất lượng và sự hài lòng của khách hàng. Bằng cách áp dụng các nguyên tắc tác động và các chiến lược gây ảnh hưởng mà chúng tôi đã nghiên cứu – không phải chỉ một vài phương pháp – nhóm đổi mới đã giải quyết thành công vấn đề hóc búa và nan giải. Họ chính là những tác nhân gây ảnh hưởng chân chính. LỜI MỜI TỪ NHÓM TÁC GIẢ Những cá nhân có khả năng gây ảnh hưởng không chỉ quyết định được kết quả công việc của mình mà họ còn hiếm khi làm việc riêng lẻ. Những vấn đề nan giải đòi hỏi phải có sự hợp tác của nhiều người. Khi ngày càng có nhiều người áp dụng những công trình nghiên cứu và học theo cách làm việc của các tiến sĩ Bandura, Silbert, Hopkins, Berwick và những bậc thầy xoay chuyển khác, một cộng đồng mới của những con người có khả năng gây ảnh hưởng đã được hình thành và dần lớn mạnh mỗi ngày. Bằng cách cùng nhau làm việc và sử dụng mọi công cụ tác động có thể nhằm giải quyết vấn đề, nhóm chuyên gia này đã dạy cho chúng ta một bài học: Đừng vội tìm kiếm sự bình yên. Họ đã cho chúng ta thấy sức mạnh tập thể lớn hơn rất nhiều so với phép cộng cơ học khả năng của mỗi cá nhân. Họ đã dạy chúng ta một trong những bài học quan trọng nhất của cuộc đời khi cải tạo được những tên tội phạm, những con nghiện trở thành những công dân có ích, khôi phục các công ty, xóa bỏ bệnh dịch… Khi bạn nắm được các chiến thuật gây ảnh hưởng, bạn có thể thay đổi bất kỳ điều gì. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Xoay Chuyển Tình Thế của tác giả Nhiều Tác Giả.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Món Quà Từ Hợp Đức
Món Quà Từ Hợp Đức là tập truyện với nhiều bài viết của các tác giả: Phong Thu, Viết Linh, Quang Huy, Trần Thiên Hương hưởng ứng cuộc vận động sáng tác văn học nghệ thuật vì mầm non của Tổ quốc.  Mời các bạn đón đọc Món Quà Từ Hợp Đức của tác giả Phong Thu & Viết Linh & Quang Huy & Trần Thiên Hương.
Kết Nối
“Kết Nối” là cuốn sách thứ hai trong bộ sách dành cho các bạn trẻ Việt Nam trên con đường lập nghiệp được tuyển chọn từ các bài viết trên trang blog của giáo sư John Vu (sciencetechnology.vn). Ở cuốn đầu tiên “Khởi Hành” đã giới thiệu những cách chọn ngành, cách xác định lĩnh vực học tập phù hợp, phương pháp học tập tiến bộ, cách tư duy khoa học và những kỹ năng cần thiết mà sinh viên cần tích lũy trong suốt quá trình học đại học. Và giờ là lúc các bạn bắt đầu thật sự dấn thân vào chuyến hành trình dài nhất cuộc đời, hành trình lập nghiệp. Thế giới thay đổi từng ngày, tìm một chỗ đứng cho bản thântrong xã hội hiện nay không dễ dàng nhưng cũng không phải là điều bất khả. Với tầm nhìn, kinh nghiệm và khát khao giúp đỡ các bạn trẻ trên toàn thế giới tìm thấy hướng đi cho mình, giáo sư John Vu đã nhìn thấy những vấn đề, tìm ra các giải pháp, và mong muốn chia sẻ chúng với tất cả những ai đang cần. Những bài viết trong cuốn sách này rất phù hợp với các bạn trẻ Việt Nam, cung cấp cho các bạn những kiến thức cần thiết để vững bước trên hành trình gây dựng sự nghiệp cho riêng mình. Mong rằng các bạn tìm thấy ở đây câu trả lời cho những khó khăn đang gặp phải, cũng hy vọng các bạn tìm thấy tương lai của mình, góp phần cống hiến cho tương lai đất nước. Cuốn sách “Kết Nối” sẽ mang lại cho các bạn sự chuẩn bị đó. Nếu bạn là sinh viên sắp, hoặc mới tốt nghiệp, đang trên con đường tìm kiếm cho mình một công việc không chỉ để nuôi sống bản thân mà còn nuôi dưỡng những khát khao, hãy đi theo hành trình của cuốn sách này. Hy vọng sau khi đọc qua những trang sách này, các bạn sẽ nhìn thấy những cơ hội đang chờ đợi trước mắt mình và nắm bắt được chúng. Hãy nhớ rằng bất kể bạn đang ở đâu trên thế giới rộng lớn này, cơ hội vẫn luôn mở ra cho bạn, chỉ cần bạn sẵn sàng. hãy trân trọng tuổi trẻ của mình, hãy học tập không ngừng với trái tim nhiệt huyết và tấm lòng thiện lương, vì các bạn không chỉ đang gây dựng tương lai của chính mình, mà còn chịu trách nhiệm với tương lai của xã hội, với đất nước bạn đang sống. *** Giáo sư John Vũ là một học giả người Mỹ gốc Việt cực kỳ nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Hiện tại ông đang giảng dạy tại Đại học Carnegie Mellon, Mỹ. Ông là một người có đóng góp đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo dành cho thế hệ trẻ Việt Nam. Với hàng trăm bài viết về khoa học máy tính, công nghệ thông tin và nhiều lĩnh vực khác trên website cá nhân của ông: http://science-technology.vn Giáo sư John Vũ có bút danh là Nguyên Phong – một dịch giả đã quá nổi tiếng với độc giả Việt. Ông chuyên dịch những đầu sách hay tuyệt về văn hóa, tâm linh phương Đông, thiền định, giáo dục và công nghệ. Mời các bạn đón đọc Kết Nối của tác giả GS John Vũ.
Thuật Gây Ảnh Hưởng Hay Là Truyền Bá Tư Tưởng
Cuốn sách gồm 2 phần: Đặt vấn đề truyền bá tư tưởng, tuyên truyền. Truyền bá tư tưởng hay là tuyên truyền như thế nào? Mỗi phần tác giả lý giải vai trò, nguyên nhân tại sao và cách làm như thế nào để có thể truyền bá được cái mình muốn truyền đạt một cách hiệu quả. Cuốn sách này gửi đến bạn những nghiên cứu tâm lý cùng kỹ thuật tuyên truyền để giúp giải đáp các hỏi trên. Cuốn sách nằm trong Tủ sách Học làm người của học giả Hoàng Xuân Việt. Ông từng đảm nhiệm vị trí hiệu trưởng của Trường Nhân Xã Học Làm người (1966-1975), Trường Hán Nôm Học Làm Người Nguyễn Trãi (1993-2001), và là tác giả của hơn 300 đầu sách trong nhiều lĩnh vực, nổi bật là sách học làm người. Trích dẫn: - Trước hết xin bạn hãy là tín đồ của thần chân lý. Phải phục vụ chân lý thì cuộc đời mới thực có chân giá trị. Tuyên truyền dù tinh xảo đến đâu mà bạn phổ biến tà thuyết thì công lao của bạn rút cục là bia cho đời nguyền rủa. Nói chân lý là nói những lý ít ra không bị lung lay dưới sự kiểm soát của triết học và khoa học. Không có gì khốn đốn cho một đời người bằng hy sinh phục vụ trọn kiếp cho một tà thuyết. Cũng có gì đáng nguyền rủa bằng dùng tà thuyết mà mê hoặc hạng ngu dốt, xô đẩy thế hệ này qua thế hệ kia vào vòng mê hoặc. Đời này đã lỗ đời sau không có gì bảo đảm vốn lời. - Con đường của những danh nhân đi là con đường chân lý hay ít ra họ cho là chân lý. Các ý tưởng của họ được nối kết lại thành hệ thống mà người ta gọi là ý thức hệ. Con đường của họ chắc cũng là con đường bạn nhắm vì có thể bạn không nuôi cao vọng làm vĩ nhân nhưng bạn vẫn ước mong truyền bá những tư tưởng của mình. Ai trong chúng ta mà từ lúc trên ghế trung đại học không có lúc ngồi nghĩ khi ra trường sẽ hoạt động văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị hay cứu nhân độ thế cách nào đó. Mộng đó là một trong muôn ngàn mộng đẹp của tuổi xuân. Còn nói cho khi ra trường mà ta gặp ngay một cơ hội nào đó để hoạt động. Nói hoạt động là nói truyền bá ý tưởng bằng ngôn từ, cử chỉ, hành vi. - Cuộc đời của bạn sẽ là một cuộc đời có thực giá nếu bạn theo một chính thuyết, phục vụ một chân giáo, trọn đời theo đuổi khoa học, phụng sự nhân loại. Vũ trụ và con người cho đến bây giờ còn là cái rừng u minh. Các chân lý chưa được khám phá bao nhiêu. Bạn hãy tiếp tay với các danh nhân tiền bối vào công việc khai trí, khai tâm nhân loại. Đời còn thiếu những thế hệ trẻ giàu nhiệt huyết phục vụ lý tưởng ấy. Khi nắm được chân lý, bạn đừng để chân lý khô khan. Nếu vàng người ta làm thành dây tay, kính, lắc để hấp dẫn sự trang sức thì chân lý cũng cần được chuyển thành những ý lực trong một hệ thống. *** Bộ Sách Tủ Sách Học Làm Người gồm có: Thinh Lặng Cũng Là Hùng Biện Nên Thân Với Đời Thất Nhân Tâm Thuật Nói Chuyện Hàng Ngày Đầu Tư Tương Lai Thuật Gây Ảnh Hưởng Hay Là Truyền Bá Tư Tưởng *** Ông Hoàng Xuân Việt tên thật là Nguyễn Tùng Nhân, sinh năm 1930 tại Bến Tre, viết sách từ năm 18 tuổi. Ra đi ở tuổi 84, ông Hoàng Xuân Việt để lại khối lượng sách do ông trước tác lên đến gần 300 đầu sách thuộc nhiều lĩnh vực. Cùng với hai tác giả Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Duy Cần, Hoàng Xuân Việt là một trong ba người viết nhiều sách về cách học làm người, rèn luyện các kỹ năng sống và giao tiếp. Ngoài ra, ông cũng nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử, triết học với các sách xuất bản: Tìm hiểu lịch sử chữ quốc ngữ (NXB Văn Hóa Thông Tin, 2007), Lược sử triết học Ðông phương, Lược sử triết học Tây phương (Khai Trí xuất bản trước 1975), Bách khoa danh ngôn từ điển: văn minh nhân loại (NXB TP.HCM, 1992)... Ngoài viết sách, ông Hoàng Xuân Việt dành cả đời mình để mở các khóa dạy, truyền đạt kinh nghiệm sống, các quy chuẩn đạo đức, những cách thức ứng xử sao cho văn minh, lịch thiệp... Ðáng kể nhất là mô hình "trường học làm người" ông mở tại tư gia, dạy học viên không phân biệt đối tượng, độ tuổi. Ðã có rất nhiều giáo viên, bác sĩ, kỹ sư, luật sư đến những nhà sư, giới trẻ... đều ghi danh theo học và nhận mình là học trò của thầy Hoàng Xuân Việt. Với các nội dung thông đạt học, giao tế học, đắc nhân tâm, thuật hùng biện... các học viên tự rút ra những kiến thức, kinh nghiệm sống cho mình. Có những sinh viên, ngoài giờ học vẫn tranh thủ đến lớp học này để nghe ông giảng về những điều mà ở trường không có. Mời các bạn đón đọc Thuật Gây Ảnh Hưởng Hay Là Truyền Bá Tư Tưởng của tác giả Hoàng Xuân Việt.
Viết Gì Cũng Đúng - Các Thủ Thuật Để Thành Công Trong Tranh Luận
Cuốn sách này giúp người đọc có một nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn về biện luận, đó không phải chỉ đơn thuần là việc đưa ra những ý kiến của mình dưới một dạng thức mới, mà là việc đưa ra hàng loạt lý do hay bằng chứng để củng cố cho kết luận. Biện luận không phải là tuyên bố hay tranh cãi về một quan điểm hay vấn đề nào đó, mà là cố gắng bảo vệ cho một quan điểm nhất định với các lý lẽ và bằng chứng rõ ràng. Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc những kiến thức như: · Những nguyên tắc cơ bản để xử lý các cuộc tranh luận ngắn: xác định giả thuyết và kết luận; phát triển ý tưởng của bạn... · Khái quát hóa: sử dụng nhiều ví dụ; sử dụng các ví dụ điển hình... · Sử dụng phép loại suy từ các ví dụ tương tự; · Các nguồn trích dẫn: tìm kiếm nguồn thông tin; kiểm tra chéo thông tin;... Đôi khi, chúng ta thường coi biện luận là công việc vô ích và chẳng hay ho gì, nhưng chúng ta cũng nhận thức được rằng biện luận là hoàn toàn cần thiết, nhất là trong xã hội ngày nay, con người được trang bị ngày một đầy đủ hơn, toàn diện hơn cả về kiến thức cũng như công cụ để tìm tòi, nghiên cứu, thì biện luận thông minh là cách hữu hiệu để bảo vệ quan điểm cá nhân. Như chính Anthony Weston - tác giả của cuốn sách này đã nói, “Chân lý không bao giờ thay đổi, chỉ có thời gian thay đổi mà thôi.”, và cuốn sách này sẽ giúp bạn đọc làm sáng tỏ nhiều hơn chân lý đó. Về tác giả: ANTHONY WESTON hiện đang giảng dạy triết học và nghiên cứu môi trường tại Đại học Elon. Ông đã xuất bản 6 cuốn sách và trên 50 bài viết trải dài từ lĩnh vực triết học môi trường và triết lý giáo dục cho tới đạo đức học và tư duy phê phán. *** Lời giới thiệu (Cho bản tiếng Việt) Độc giả thân mến, Có một câu cách ngôn nổi tiếng rằng “Chân lý sinh ra trong tranh luận” và cũng chết đi trong đó. Nếu chúng ta hiểu biết về cách thức lập luận và vận dụng nó phù hợp thì cuộc tranh luận có thể giúp ta làm sáng tỏ chân lý. Ngược lại, nếu ta lập luận bằng mọi cách chỉ cốt để bảo vệ những định kiến đã có sẵn thì chân lý sẽ chết chìm trong những trận luận chiến kéo dài. Bởi vậy, để cuộc tranh luận hay diễn thuyết thành công, điều cốt yếu là phải đưa ra được những lập luận logic, có cơ sở hợp lý.  Tại Việt Nam, chưa có cuốn sách nào thật sự ngắn gọn mà vẫn đầy đủ và dễ hiểu hướng dẫn người đọc các phương pháp biện luận hiệu quả, hữu dụng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Bởi vậy, chúng tôi lựa chọn xuất bản và giới thiệu bộ sách về biện luận nói chung và tranh luận nói riêng với hy vọng sẽ mang đến cho các bạn những kiến thức bổ ích và dễ dàng áp dụng, giúp bạn thành công trong công việc và cuộc sống.  Viết gì cũng đúng của Athony Weston là cuốn sách đầu tiên trong bộ sách này. Tác giả đưa ra nghệ thuật viết và cách thức lập luận sắc bén, thông qua các nguyên tắc cụ thể được giải thích và minh họa đầy đủ, ngắn gọn. Đây được xem như cuốn giáo khoa thư nổi tiếng, đã được dịch sang 8 ngôn ngữ ‒ vẫn là lựa chọn đầu tiên với những ai tìm kiếm một cuốn sách hướng dẫn dễ hiểu về cách đưa ra các lập luận vững chắc.  Tiếp theo Viết gì cũng đúng, chúng tôi sẽ xuất bản cuốn Cãi gì cũng thắng – một cuốn sách thực sự lôi cuốn về cách tư duy phản biện và tranh luận sắc sảo, đặc biệt thích hợp với những ai có nhu cầu rèn luyện và nâng cao khả năng thuyết trình, thuyết phục.  Hy vọng bộ sách sẽ là người bạn đồng hành cùng bạn chinh phục con đường tư duy sắc sảo nhất.  Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả. Hà Nội tháng 12/2011 CÔNG TY SÁCH ALPHA *** Lời tựa Quyển sách này giới thiệu ngắn gọn về nghệ thuật viết và đánh giá những lập luận, đồng thời bám rất sát mục tiêu này. Tôi nhận ra rằng hầu hết sinh viên và tác giả thường chỉ cần một danh sách vài dòng ghi nhớ và nguyên tắc chứ không cần giải thích, giới thiệu dài dòng. Do đó, quyển sách này được xây dựng xoay quanh một số nguyên tắc nhất định, được giải thích và minh họa đầy đủ nhưng rất ngắn gọn. Đây không phải một quyển sách giáo khoa mà là một quyển sách nguyên tắc. Tôi nhận ra rằng hầu hết giáo viên có thể cũng muốn giới thiệu một quyển sách nguyên tắc kiểu này để sinh viên tham khảo và tự tìm hiểu, ngõ hầu tránh lãng phí thời gian trong lớp. Một lần nữa tôi cần phải nhắc lại rằng tiêu chí ngắn gọn rất quan trọng vì mục tiêu của cuốn sách này nhằm giúp sinh viên dễ dàng viết một bài luận hay đánh giá một lập luận, nhưng các nguyên tắc cần phải dựa trên giải thích đầy đủ để giáo viên chỉ cần yêu cầu sinh viên xem Nguyên tắc 6 hay Nguyên tắc 16 hơn là phải viết cả một đoạn giải thích bên lề bài viết của sinh viên. Ngắn gọn mà đầy đủ ‒ đó là tiêu chí mà tôi theo đuổi. Quyển sách này cũng có thể được sử dụng trong chương trình học chuyên về lập luận. Tất nhiên, cần phải đưa thêm nhiều bài tập và ví dụ được trình bày rất đầy đủ trong những quyển sách có sẵn khác. Tuy nhiên những quyển sách đó cũng cần được hỗ trợ bởi quyển sách này vì mục đích của nó là tập hợp những nguyên tắc đơn giản để kết hợp các lập luận vững chắc lại với nhau. Có rất nhiều sinh viên hoàn thành khóa học về biện luận mà chỉ biết cách “bắn hạ” (hay đôi khi cũng chỉ “bắn trúng”) những ngụy biện nhất định. Họ thường xuyên không thể giải thích tại sao những lập luận đó không đúng hay đưa ra lập luận của riêng mình. Lý luận phi chính thức có thể làm tốt hơn thế: quyển sách này là một nỗ lực đưa ra cách thức làm điều đó. Xin hoan nghênh các ý kiến nhận xét và phê bình của quý bạn đọc. ANTHONY WESTON Tháng 8 năm 1986 *** Giới thiệu Tại sao phải tranh luận? Một vài người nghĩ rằng tranh luận chỉ đơn thuần là nêu lên những định kiến có sẵn theo một cách khác. Đây cũng chính là lý do vì sao nhiều người cho rằng những cuộc tranh luận thường khó chịu và vô vị. Trong một cuốn từ điển, người ta định nghĩa “tranh luận” là “tranh cãi”. Theo cách hiểu này, chúng ta thường nói rằng hai người đang “tranh cãi” nghĩa là đang đấu đá bằng mồm. Việc này diễn ra thường xuyên đến mức người ta cũng phải công nhận nó. Nhưng đó không phải là tranh luận. Trong quyển sách này, “đưa ra một lập luận” có nghĩa là đưa ra những lý do hay bằng chứng để hỗ trợ một kết luận. Ở đây, lập luận không chỉ đơn thuần là phát biểu về một quan điểm nào đó và cũng không đơn thuần là một cuộc tranh cãi. Lập luận là những nỗ lực sử dụng lý lẽ nhằm chứng minh quan điểm của mình. Tranh luận cũng không vô vị; thực tế nó rất quan trọng và hấp dẫn. Đầu tiên, tranh luận quan trọng bởi đó là cách để tìm ra quan điểm nào đúng hơn. Không phải tất cả các quan điểm đều đúng. Một vài kết luận dựa trên nền tảng của lý lẽ vững chắc trong khi những kết luận khác được hỗ trợ kém hơn nhiều. Nhưng thường thì chúng ta không thể kết luận cái nào là cái nào. Chúng ta cần phải nêu ra nhiều lý lẽ cho nhiều kết luận khác nhau và sau đó đánh giá những lập luận đó để xem xét chúng vững chắc thế nào. Theo cách hiểu này, tranh luận là một quá trình thẩm tra. Chẳng hạn, một số triết gia và nhà hoạt động xã hội tuyên bố rằng hình thức trại nuôi động vật lấy thịt gây ra đau khổ cho động vật, vì thế đó là điều phi lý và thiếu đạo đức. Phát biểu đó có đúng không? Bạn không thể trả lời bằng định kiến của mình được. Có rất nhiều vấn đề liên quan ở đây. Thí dụ như chúng ta có bị ràng buộc đạo đức với những loài khác không hay nó chỉ xấu xa khi con người là chủ thể chịu đựng đau khổ? Con người sẽ sống ra sao nếu thiếu thịt? Một vài người ăn chay đã sống rất lâu. Liệu điều này có nghĩa là chế độ ăn chay thì lành mạnh hơn? Hay nó không hề có liên quan gì khi xét đến việc nhiều người ăn thịt cũng sống lâu? (Bạn có thể tiếp tục suy nghĩ vấn đề này bằng cách đặt ra câu hỏi liệu phần trăm người ăn chay sống lâu có nhiều hơn không.) Hay ngược lại có thể là những người sống lành mạnh có xu hướng trở thành người ăn chay? Tất cả những câu hỏi này cần được suy xét rất cẩn thận và những câu trả lời thoạt đầu đều chưa rõ ràng. Lập luận cũng quan trọng vì một lý do khác. Một khi chúng ta đi đến kết luận với những lý lẽ hỗ trợ đầy đủ, lập luận là cách chúng ta giải thích và bảo vệ kết luận đó. Một lập luận tốt không chỉ đơn thuần lặp lại những kết luận. Thay vào đó, nó cung cấp những lý lẽ và bằng chứng để người khác có thể tự đưa ra quyết định. Thí dụ như nếu bạn tin rằng chúng ta cần phải thay đổi cách nuôi và sử dụng động vật, bạn cần phải đưa ra những lập luận để giải thích cách thức bạn đi tới kết luận đó. Đó là cách bạn thuyết phục người khác: đưa ra những lý lẽ và bằng chứng đã thuyết phục bạn. Có quan điểm vững vàng không phải là một sai lầm. Sai lầm chính là bạn không có gì ngoài những quan điểm. Hiểu rõ sự khác biệt giữa bài văn và bài luận  Những nguyên tắc trong tranh luận không mang tính tùy ý; nó có mục đích nhất định. Tuy nhiên, sinh viên (cũng như một số tác giả khác) không phải lúc nào cũng hiểu mục tiêu đó khi được giao viết bài luận – và nếu bạn không hiểu nhiệm vụ, bạn khó có thể làm tốt nhiệm vụ đó. Rất nhiều sinh viên khi được yêu cầu bảo vệ quan điểm trong một số vấn đề đã viết rất tỉ mỉ quan điểm của mình nhưng không nêu ra bất kỳ lý do thực sự nào để chứng minh rằng quan điểm của họ là đúng. Họ đang viết một bài văn, không phải một bài luận. Đây là hiểu lầm thuộc về bản chất. Ở bậc trung học, các học sinh tập trung học những chủ đề khá rõ ràng và không mang tính tranh luận. Bạn không cần tranh luận chuyện Hiến pháp Hoa Kỳ quy định ra ba nhánh cầm quyền trong chính phủ hay Shakespeare viết vở Macbeth. Bạn chỉ cần nắm vững những thực tế này và bài viết của bạn chỉ cần lặp lại chúng. Các sinh viên bước vào đại học với suy nghĩ mọi chuyện sẽ tương tự như thế ở một cấp cao hơn. Tuy nhiên, rất nhiều chương trình ở bậc đại học – đặc biệt là những chương trình yêu cầu sinh viên phải viết – lại nhắm vào mục tiêu khác. Những chương trình này liên quan đến cơ sở niềm tin của chúng ta; chúng yêu cầu sinh viên phải thẩm tra niềm tin và tìm cách bảo vệ quan điểm của họ. Những vấn đề thảo luận trong chương trình đại học thường không rõ ràng và chắc chắn. Đúng là Hiến pháp quy định ba nhánh cầm quyền trong chính phủ nhưng liệu Tòa án tối cao có nên có quyền phủ quyết đối với hai nhánh kia không? Đúng là Shakespeare viết vở Macbeth nhưng vở kịch đó có ý nghĩa gì? Những lý lẽ và bằng chứng có thể được đưa ra cho những câu trả lời khác nhau. Các sinh viên được yêu cầu phải học cách tự suy nghĩ để thiết lập quan điểm riêng một cách có trách nhiệm. Khả năng bảo vệ được quan điểm của mình là một thước đo cho kỹ năng đó và cũng là lý do tại sao các bài luận lại rất quan trọng. Thực tế, như nội dung từ Chương 7 đến Chương 9 sẽ giải thích, để viết một bài luận tốt, bạn sẽ phải sử dụng các lập luận vừa như một công cụ thẩm tra vừa là cách thức để giải thích cũng như bảo vệ kết luận của mình. Bạn phải chuẩn bị bài viết của mình thông qua nghiên cứu những lập luận từ góc nhìn của các bên đối lập. Sau đó, bạn sẽ phải đưa ra các lập luận trong bài viết của mình để bảo vệ kết luận bạn đưa ra và đánh giá nghiêm túc một vài lập luận từ góc nhìn của các bên đối lập. Dàn bài Quyển sách này bắt đầu bằng việc thảo luận những lập luận tương đối đơn giản và cuối cùng hướng đến cách viết một bài luận hoàn chỉnh. Từ Chương 1 đến Chương 6 trình bày cách hình thành và diễn đạt những lập luận ngắn. Một lập luận “ngắn” đơn thuần đưa ra các lý do và bằng chứng một cách ngắn gọn, thường chỉ trong vài câu hoặc một đoạn văn. Chúng ta bắt đầu với những lập luận ngắn vì một số lý do. Lý do thứ nhất là vì những lập luận này rất phổ biến. Thực tế, nó phổ biến đến nỗi trở thành một phần trong hội thoại thường nhật. Lý do thứ hai là những lập luận dài thường là sự diễn giải của các lập luận ngắn hay một chuỗi các lập luận ngắn được kết nối với nhau. Nếu bạn học cách viết và đánh giá những lập luận ngắn trước, bạn có thể mở rộng kỹ năng của mình sang những bài luận. Lý do thứ ba nên bắt đầu với những lập luận ngắn vì những lập luận này là ví dụ minh họa tốt nhất cho các hình thức lập luận phổ biến và những lỗi điển hình trong lập luận. Trong những lập luận dài, việc tìm ra vấn đề chính thường khó hơn. Do đó, dù rằng một vài nguyên tắc có vẻ rất hiển nhiên khi được đề cập đến, hãy nhớ rằng bạn đang hưởng lợi từ những ví dụ đơn giản. Những nguyên tắc khác đủ khó để đóng vai trò quan trọng ngay cả trong những lập luận ngắn. Chương 7, 8 và 9 chuyển sang bàn đến vấn đề viết luận. Chương 7 trình bày bước đầu tiên: nghiên cứu vấn đề. Chương 8 phác họa những điểm chính trong một bài luận và Chương 9 thêm vào những nguyên tắc cụ thể để viết bài luận. Tất cả những chương này đều dựa trên những gì được thảo luận từ Chương 1 đến Chương 6. Đừng bỏ qua phần đầu và nhảy ngay sang những chương về cách viết bài luận dù rằng bạn tìm đọc quyển sách này cho mục đích đó. Quyển sách này đủ ngắn để đọc xuyên suốt đến Chương 7, 8 và 9 và khi đến những chương này bạn đã được trang bị những công cụ cần thiết để sử dụng chúng một cách hiệu quả. Các giảng viên có thể chỉ định sinh viên đọc từ Chương 1 đến Chương 4 vào đầu học kỳ và sau đó là từ Chương 6 đến Chương 9 vào thời điểm viết bài luận. Chương 10 bàn về những ngụy biện, những lập luận sai lạc. Chương này tổng hợp tất cả những lỗi chung được thảo luận trong các phần khác của quyển sách và kết thúc bằng một danh sách liệt kê rất nhiều lập luận sai lạc đầy cám dỗ và phổ biến đến nỗi có cả tên riêng cho mỗi loại. Phần Phụ lục nêu ra một số nguyên tắc xây dựng và đánh giá các định nghĩa.   Mời các bạn đón đọc Viết Gì Cũng Đúng - Các Thủ Thuật Để Thành Công Trong Tranh Luận của tác giả Anthony Weston.