Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sự Thật Về X.30

Từ những năm đầu của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà văn Đặng Thanh đã phụ trách công tác tình báo phản gián ở Trung Trung bộ.         Trong kháng chiến chống Pháp, anh là một trong số người lập ra Ban Phản gián. Từ sau ngày toàn quốc kháng chiến cho đến những năm đầu của thập kỷ 50 ở miền Trung Trung bộ, anh cũng là người duy nhất còn sống được Hồ Chủ tịch xét thành tích và tặng huân chương Kháng chiến hạng nhì đầu tiên trong toàn quốc, vì đã có công lớn trong việc xây dựng cơ sở ở vùng địch hậu và lập được nhiều chiến công. Thu được nhiều tài liệu quan trọng, đoạt được nhiều vũ khí và thu được nhiều kết quả trong công tác địch vận". (1949)         Trong sự nghiệp chống Mỹ, anh đảm nhiệm Phòng Phản gián trong Cục Phản gián X. của Bộ Công an. Sau đó anh được chuyển sang ngành Tòa án Nhân dân được ủy ban Thường vụ Quốc hộị bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao.         Do những thành tích trên, nhà văn Đặng Thanh được tặng thương huân chương Chiến thắng hạng nhì, huân chương Kháng chiến hạng ba, huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất, huân chương Bảo vệ an ninh Tổ quốc và bằng khen của Chính phù về thành tích Công an.         Người chiến sĩ phản gián tài ba Đặng Thanh, đồng thời lại là một nhà văn được đông đảo bạn dọc ái mộ.         Cương vị công tác và sự lịch lãm trong cuộc đời đã giúp nhà văn sáng tác một loạt truyện tình báo phin gián như:CẨT VÓ (1967), X.30 LƯỚI (1976),TẤM BẢN ĐỒ (1983), ĐỌ sức (1986), LẦN THEO CHUỖI HẠT (1987), NỮ DIỆP VIÊN SAO CHĂMPA (1988), ĐI TÌM THẦN CHẾT (1989), LÁ THƯ VĨNH BIỆT CỦA JACQUELINE (1990)...         Đọc truyện tình báo của nhà văn Đặng Thanh ta không thấy nhiều pha đánh đấm, bắn giểt như trong phần lớn các truyện tình báo Âu- Mỹ. Dưới cây bút của nhà văn hiện lên người tình báo Việt Nam hào hoa, phong nhã, vì thương dân đến dám coi thường tính mạng; đầy trí tuệ để dối phó với những tình huống tường như không sao thoát được; bên cạnh những éo le đau thắt của con người trước một bên là nhiệm vụ đối với Tổ quốc và bên kia là những tình cảm tan nát của con tim; những mất mát cá nhân không gì bù đắp nổi để hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng. Đó là những trang hồi hộp qua những cuộc đấu trí, đấu lực có thật giữa chiến sĩ tình báo của ta chống màng lưới dày dặc của mật vụ, điệp báo dịch, CIA Mỹ, ngay tại sào huyệt của kẻ thù trên cuộc chiến đấu thầm lặng. Đó là những trang rung động se thắt trước bao nhiêu bi kịch nội tâm, vô vàn thảm cảnh xã hội trong vùng địch tạm chiếm mà nay, nếu không ai nhắc lại, thì thời gian sẽ sớm phủ lên lớp bụi lãng quên.         Trái tim nào không ngậm ngùi khi đọc bức thư tuyệt mệnh của Vân Anh trong 'X.30 PHÁ LƯỚT' Ai gấp cuốn truyện lại mà nén được tiếng thở dài trước số phận của Jacqueline. Bao nhiêu bóng ma đằng sau các báo cáo thắng lợi. Năm 1976, quyển truyện X.30 PHÁ LƯỚI của Đặng Thanh xuất bản lần đầu với số bản in 200.000 cuỗn được đông đảo bạn dọc hoan nghênh nhiệt liệt; sau đó đã được tái bản. Đó là tiền thân của quyển tiểu thuyết tư liệu tình báo 'Sự THẬT VỀ X.30' mà các bạn có trong tay hiện nay, dày gấp đôi, chứa đựng nhiều tư liệu thật và mới mẻ mà tác giả đã tái hiện.           Với tỉnh chân thật cao, cộng với bút pháp linh hoạt, 'SỰ THẬT VỀ X.30" đã đem lại cho bạn đọc sức cuốn hút ngay từ những trang đầu với những tư liệu trước nay chưa hề ai biết, ly kỳ và bất ngờ trong thực tế đấu tranh giữa ta và địch trên chiến trường thầm lặng.         Với phương pháp làm việc khoa học, chuẩn mực, tác giả Đặng Thanh đã có những nhận định mới mẻ, có khác với những suy nghĩ của nhiều nhà văn, nhà báo về tính cách và đời tư của các nhân vật phản diện như Ngô Đình Diệm, Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Nhu, ...         Cuốn truyện có trên một trăm nhân vật thật, trong số này có nhiều cán bộ và chiến sĩ công tác trong ngành Công an nhân dân đương thời và hiện nay một số vẫn còn sống. Kèm với câu chuyện, tác giả đã sưu tầm giới thiệu hình ảnh nhiều nhân vật chủ yếu như X.30, Vũ Long, vị hôn thê của Phan Thúc Định, Vân Anh, Tố Loan, Hồng Nhật, Trần Mai, ... và hình ảnh về gia đình Ngô Đình Diệm, Ba Cụt, Trịnh Minh Thế, vũ nữ Cẩm Nhung, người yêu của Hai Paul con trai Bảy Viễn, v.v...         Trước những nhân chứng của lịch sử đã được tác giả trình bày, mô tả một cách sinh động, tiểu thuyết 'Sự THẬT VÊ X.30' làm cho người đọc thích thú, làm sống lại một giai đoạn đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch qua hai cuộc trường kỳ kháng chiến, đánh dấu sự trưởng thành của ngành Công an nhân dân phục vụ cho sự nghiệp Cách mạng vô cùng hào hùng của dân tộc ta.         Xin trân trọng giới thiệu với độc giả thân mến tác phẩm của nhà văn Đặng Thanh. Giáo sư LÊ ANH TRÀ                      Viện Trưởng VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM     *** Tác phẩm nổi bật nhất của nhà văn Đặng Thanh là tiểu thuyết “X30 phá lưới”. Tác phẩm này được nhà văn viết ở miền Bắc nhưng năm 1975 mới in trên báo Sài Gòn Giải Phóng, sau in thành sách. Lúc đó, nhà văn đang công tác tại TAND TP. Hồ Chí Minh. “X30 phá lưới” gây tiếng vang lớn trên văn đàn, tạo nên “cơn sốt” trong dư luận. Sau đó, tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước như Nga, Bungari, Nhật, Mỹ… Khi biết tin một nhà xuất bản ở Nhật in tác phẩm này, một người quen của nhà văn Đặng Thanh đã kiện ông, đòi quyền tác giả và nhuận bút. Theo lời kể của ông Tuấn Phương và vợ chồng ông Tuấn Dũng, nguyên do dẫn đến chuyện lùm xùm như sau: Do bận rộn nên nhà văn nhờ một người thầy giáo dạy văn sửa giùm lỗi chính tả trong bản thảo “X30 phá lưới”. Vì cũng  bận nên thầy giáo này lại nhờ một đồng nghiệp cũng dạy văn làm giúp. Khi truyện in trên báo thì không thấy người này lên tiếng đòi hỏi quyền lợi, nhưng khi nghe tin một nhà xuất bản ở Nhật in tác phẩm này, thầy giáo sửa giùm bản thảo kia kiện ra tòa đòi tác quyền và nhuận bút. Tại tòa, ông này không trưng ra được bằng chứng gì chứng minh mình là tác giả. Ngược lại, nhà văn Đặng Thanh đã trưng ra nhiều bằng chứng thể hiện mình là tác giả. Đối chiếu các bằng chứng và xét lai lịch của hai người, tòa án kết luận ông Đặng Thạnh là tác giả của “X30 phá lưới” vì chỉ có những người làm trong ngành tình báo hoặc có tư liệu về nó mới am tường mà viết ra được những truyện về tình báo. Tuy nhiên, tòa cũng tuyên nhà văn Đặng Thanh phải viết lời cảm ơn cho người thầy giáo kia. “Chuyện đó thì không phải đến lúc tòa tuyên, cha tôi mới làm. Khi xuất bản, ngay trang đầu, ông đã viết lời cảm ơn nhiều người, trong đó có người thầy giáo kia” - ông Tuấn Phương chia sẻ. Mấy chục năm trôi qua, những tác phẩm của nhà văn Đặng Thanh vẫn được tái bản, làm say mê hàng triệu độc giả. Đọc truyện ông bạn đọc càng hiểu thêm về một giai đoạn lịch sử và càng tự hào về những chiến sĩ cách mạng mưu trí, dũng cảm... *** PHẦN MỘT BIẾN ĐỔI 1. PHAN THÚC ĐỊNH         - Anh từ Nghệ An ra ? - Ngô Đình Nhu hỏi người.thanh niên có nước da trắng, dong dỏng cao ngồi trước mặt - Bác nhà có được khỏe không ?         Gã buồn rầu trả lời :         - Thưa ông, thầy tôi đã bị bọn Việt Minh sát hại. Chúng tịch thu hết tài sản, ruộng đất qui là của bóc lột. Mẹ tôi phải về nương nhờ bà con bên ngoại. Còn tôi, ở Huế ra.         Ngô Đình Nhu giận dữ và tỏ vẻ bùi ngùi :         - Bọn Việt Minh là thế. Từ nay anh là khách của tôi, anh Phan Thúc Định ạ ! Cụ Thượng1 nhà tôi với Cụ nhà anh vốn là bạn đồng liêu, anh cứ coi như đây là gia đình mình, công việc sau ta sẽ liệu.         Thế là từ hôm ấy, ngày 4 tháng 3 năm 1946, Phan Thúc Định ở tại nhà Ngô Đình Nhu trong khuôn viên Thư viện Quốc gia Hà Nội.         Tuy được giữ làm Giám đốc Thư viện Quốc gia nhưng Nhu vẫn ngấm ngầm mang một mối hận thù sâu sắc với Cách mạng và luyến tiếc không nguôi cái thời vàng son trước đây. Đồng lương giám thủ trước kia do Pháp trả rất hậu, vợ chồng Nhu ăn tiêu sung sướng thừa thãi. Trong nhà có người hầu kẻ hạ, ra khỏi nhà là có ô-tô. Cách mạng lên, những thứ đó không còn nữa. Chị vú, con sen cái hạng người quen nô lệ để sai khiến vậy mà đều trở thành những nữ cứu thương, y tá cho Việt Minh. Xe hơi thì chỉ dùng để đi công tác... Nhưng thực ra, đó chưa phải là nguyên nhân chính gây cho Nhu căm thù Cách mạng. Tin Ngô Đình Khôi - anh cả trong gia dinh họ Ngô - bị Việt Minh xử bắn ở huyện Phong Điền, làm cho Nhu bàng hoàng mấy ngày đêm. Sau đó không lâu, Nhu lại được tin Ngô Đình Diệm - người anh thứ ba của Nhu, bị bắt tại Đức Phổ (Quảng Ngãi). Nhu lo lắng Diệm cũng sẽ cùng chung số phận với Khôi và cái gia đình họ Ngô sẻ tiêu tan hết. Nào ngờ lại được cụ Hồ đánh điện bảo đưa ra Thủ đô cho Cụ gặp. Thế là Diệm thoát chết.         Sáng hôm ấy, sau khi dặn người nhà bố trí cho Phan Thúc Định một cản phòng, Nhu đi lễ Nhà thờ Hàng Bột, gặp Diệm. Nhu kể chuyện Phan Thúc Định đến nhà cho biết tin bố anh ta là Cụ Tuần Ngân không còn nửa. Diệm sửng sốt :         - Lạy Chúa ! thật à !         - Vâng, đúng rứa đó anh.         Diệm trầm ngâm một lúc rồi ngước lên nhìn Nhu :         - Chú đã thấy đó, anh Khôi chỉ vì trước đây đàn áp bọn phiến loạn Cộng sản nên bị Việt Minh trả thù. Còn Cụ Ngân trong thời kỳ làm Tuân vũ Hà Tĩnh giết quá nhiều người và làm lắm chuyện thất đức nên không tránh khỏi bàn tay của Việt Minh Cộng sản. Còn tui vì "liêm khiết", "treo án từ quan" nên được Cụ Hồ Chí Minh lượng thứ, nhờ đó mới thoát. Tuy vậy, mỗi ngày còn ở đây là một ngày như "cá nằm trên thớt". Chú xem cách nào liên lạc với người Pháp nhờ họ giải cứu cho tui được không?         Ngô Đình Nhu cắn môi suy nghĩ. Điều Diệm vừa nói ra, không phải là Nhu chưa tính tới. Ngay từ khi đại quân Pháp của tướng Lơ-cờ-lác (Leclerc) đến Hà Nội, Nhu đã bí mật bắt liên lạc với Phòng Nhì và có lần đề nghị với viên chỉ huy Pháp tìm cách cứu Ngô Đình Diệm. Thời kỳ đó, Diệm còn ở Bắc Bộ phủ, khó bề thực hiện, nên viên chỉ huy Phòng Nhì Pháp hẹn khi nào có cơ hội thuận tiện sẽ ra tay giúp đỡ. Bây giờ, phải chăng là cơ hội đã đến. Nhu bèn thú nhận :         - Thưa anh, em đã bắt liên lạc với Phòng Nhì Pháp và củng đã tính đến chuyện nhờ họ bố trí đưa anh ra nước ngoài, nhưng chưa gặp thời cơ. Nay nhân dịp anh đã được về ở đây2, lại có thêm thằng Phan Thúc Định, để em bàn việc này với họ xem sao.         Diệm có vẻ hớn hở, gật gù :         - Rứa mà bây giờ chú mới cho tui biết. Việc ni quan trọng lắm. Chú phải bàn thật kỹ với họ. Và nói với Định đến gặp tui mau lên hí. Phải giữ kín đừng cho thêm ai biết, chú nhớ hí !         Thư viện Quốc gia ở phố Tràng Thi khách đến đọc rất đông. Lợi dụng kẻ vào người ra, Ngô Đình Nhu hẹn gặp bọn gián điệp nước ngoài. Hôm ấy, qua một phụ nữ lai Pháp, Nhu gửi Phòng Nhì một bức thư yêu cầu bố trí cho Phan Thúc Định vào thành gặp tướng Moóc-li-e (Morlière) đề nghị giúp Diệm trốn ra nước ngoài.         Được gặp tên tướng khét tiếng của Pháp, Định đưa thư của Diệm gửi với những lời thống thiết cầu xin cứu mạng. Đọc xong thư Moóc-li-e gọi viên sĩ quan chỉ huy Phòng Nhì đến bàn kế hoạch cứu Diệm và giao Định cho hắn để thực hiện kế hoạch quan trọng này.         Ba hôm sau, đêm 4 tháng 2 âm lịch - trời tối như mực vẫn còn rét ngọt, Phan Thúc Định ngồi trên một chiếc xe hơi nhà binh Pháp, đi đến chỗ quy định đón Ngô Đình Diệm, đưa thẳng vào doanh trại quân đội Pháp trong thành. Việc giải thoát cho Diệm trót lọt. Và cũng bắt đầu từ đêm hôm ấy, Định trở thành nhân viên của Phòng Nhì Pháp.    Mời các bạn đón đọc Sự Thật Về X.30 của tác giả Đặng Thanh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ma Sói - Fred Vargas
Thứ Ba, bốn con cừu bị cắn đứt họng trên đỉnh Ventebrune, dãy núi Alpes. Thứ Năm, chín con tại vùng Pierrefort. Một con sói đơn lẻ? Xảo quyệt, tàn bạo, mông kéo lê trên cặp chân xám. Con Vật vùng Mercantour. Nhưng tại làng Saint-Victor-du-Mont, không ai tin là do một Con Vật cả. Đó không phải là một Con Vật. Đó là một con người. Một con ma sói. Suzanne nằm thẳng trên lớp rơm vấy phân, mặt ngửa lên, hai tay dang rộng, váy ngủ tốc lên đến đầu gối. Một vết thương kinh khủng trên cuống họng làm một dòng máu trào ra. Tại Paris, trước máy thu hình, Jean-Baptiste Adamsberg dõi theo tin tức về con thú vùng Mercantour. Anh nhắm mắt lại. Kỉ niệm tuổi thơ tại Pyrenees, giọng nói thì thầm của những người già...  Như những đốm lửa, con trai ơi, những cặp mắt sói trong đêm đen, chúng hệt những đốm lửa. *** Sinh năm 1957 tại Paris, có mẹ là nhà hóa học và bố là một nhà trí thức không bao giờ xuất bản tác phẩm của mình, cô bé Fred (thu gọn từ cái tên Frédérique) nhanh chóng thể hiện rõ những gì được thừa hưởng: đầu óc toán học của mẹ và khiếu nghệ thuật của cha.   Tất cả những phẩm chất này giúp Fred trở thành một nhà khảo cổ học xuất sắc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia CNRS. Tuy nhiên, bà vẫn cảm thấy nhu cầu thể hiện khuynh hướng nghệ thuật thừa hưởng từ cha và bắt đầu sáng tác truyện tranh, chơi accordeon.  Vì cảm thấy mình không đủ tài năng để trở thành nhạc công, Fred Vargas tìm thấy “niềm vui” khi viết tiểu thuyết trinh thám. Bà bắt tay vào viết với bút danh Fred Vargas - lấy ý tưởng từ bút danh Jo Vargas của cô em gái sinh đôi. Tiểu thuyết đầu tay của Fred Vargas được nhận giải thưởng cho Tiểu thuyết trinh thám tại Festival Cognac. Tiểu thuyết thứ hai đánh dấu một bước quan trọng trong sự nghiệp của Vargas. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên được xuất bản tại Viviane Hamy, một nhà xuất bản trẻ mà cho tới giờ Vargas vẫn chung thủy gắn bó. Đây cũng là lần đầu nhân vật cảnh sát trưởng Jean-Baptiste Adamsberg – “nhân vật hộ mệnh” của Fred Vargas, xuất hiện. Bà còn tiếp tục theo đuổi các cuộc điều tra của Adamsberg trong nhiều tác phẩm sau đó.  Để dung hòa giữa công việc của nhà khảo cổ học và nhà văn, Fred Vargas có cách làm việc riêng của mình. Những ý tưởng chính hình thành trong tâm trí bà trong vòng một năm, sau đó trí nhớ lựa chọn những ý tưởng tốt nhất, và ngay khi câu chuyện đã khá ăn sâu vào ký ức, bà tái hiện nó dưới ngòi bút của mình liền một mạch trong vòng ba tuần, vào kỳ nghỉ. Sau đó đến giai đoạn sửa chữa. Một câu, một từ, một đoạn không ổn và thế là cả một trang giấy có thể được thay đổi. Sự nhạy cảm với các chi tiết, phẩm chất của một nhà khảo cổ học cùng với lần đọc lại của người em gái sinh đôi Jo Vargas đã giúp cho bản thảo của Fred Vargas có thể được đem thẳng tới nhà in, theo lời của biên tập viên NXB Viviane Hamy. Các tiểu thuyết của bà tiếp nối nhau và lượng sách bán ra ngày một tăng (đã vượt con số 4,5 triệu bản). Trước thành công rực rỡ của mình (báo chí gọi bà là Nữ hoàng tiểu thuyết trinh thám của Pháp), nữ tác giả lại ngày càng ít xuất hiện trước công chúng, bà không thích những gì thuộc xã hội thượng lưu. Fred Vargas tiếp tục lối sống giản dị và dành khoảng thời gian rảnh rỗi ít ỏi cho gia đình: cậu con trai và người em gái sinh đôi mà bà coi là một nửa của mình. Điều khiến Fred Vargas lo lắng nhất đó là, hoàn cảnh sẽ biến một nhà nghiên cứu trầm lặng thành người lãnh đạo và biến một tác giả tiểu thuyết trinh thám thành người nổi tiếng. Giải thưởng văn học, doanh thu bán sách khổng lồ - tất cả đều không khiến bà quan tâm.  Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Dans les bois éternels (Trong những cánh rừng vĩnh cửu); L'Homme à l'envers (Ma sói);  Sous les vents de Neptune (Dưới những ngọn gió biển). Mời các bạn đón đọc Ma Sói của tác giả Fred Vargas.
Âm Thanh Của Em Là Thế Giới Của Anh - Thanh Phong Ngữ
Lộ Miểu không cẩn thận qua đêm một lần với Kiều Trạch, chỉ là việc bất ngờ thôi, sau lại cả hai đều bận công việc riêng của mình, hơn nửa tháng không liên lạc, lúc gặp lại là trong buổi tiệc sinh nhật của con gái Thẩm Ngộ. Hai người ngồi đối diện nhau, nhìn mọi người huyên náo, chẳng ai lên tiếng. Suốt cả đêm, Kiều Trạch chỉ nói với cô đúng một câu, “đưa ly nước cho tôi.”. Lộ Miểu chậm rãi từ không yên trở nên thản nhiên, về sau mới hay, có một câu, gọi là “về sau tính sổ”. *** Cô vẫn chưa tỉnh, tác dụng của thuốc ngủ khiến cô say sưa giấc mộng. Kiều Trạch không gọi cô dậy, sau khi lẳng lặng nhìn cô một hồi, liền chuyển sự chú ý sang máy tính trong phòng. Kiều Trạch bật máy tính lên, mở lịch sử trình duyệt ra, thấy số weibo của cô, quả đúng là tài khoản mà anh đã gửi tin nhắn cá nhân. Anh nhớ lại bình luận kia của cô, cô vẫn chưa thể nào thoát ra nổi. Cô chưa thoát ra, thì lúc này anh xuất hiện chỉ gia tăng áp lực cho cô. Lộ Miểu ngủ một đêm rất say, từ rất lâu rồi, đây là lần đầu tiên cô thật sự chìm vào giấc ngủ, mặc dù phải nhờ vào thuốc ngủ. Hơn ba tháng qua, cô đã đến rất nhiều nơi, không có mục tiêu, cũng chẳng có phương hướng, đi đến nơi đâu thì là nơi đó. Nói là lưu lạc, không bằng nói là trục xuất. Cô như lạc vào đường đến Tây Tạng, tương truyền đó là đường đi nguy hiểm gian nan nhất, dọc đường hoang vu, chốn không người kéo dài mấy trăm cây số vắt ngang qua đó, lại thêm con mương người chết ai nghe thấy thôi cũng biến sắc. Cô không biết là mình sẽ bị lạc ở chốn không người không thoát ra được, hay là ngủ mê trong mương người chết không dậy nổi, hay là, may mắn sống sót. Bất luận là kết cục thế nào, Lộ Miểu nghĩ mình sẽ có thể thản nhiên đón nhận. Cô không dám tùy tiện kết thúc sinh mạng, cũng không biết phải thoát ra khỏi khốn khổ này thế nào, số phận đã đẩy cô đi đến đây, cô chỉ có thể mặc mình cho vận mệnh. Hôm rời khỏi bệnh viện đó, một mình cô ngồi bên đập nước một ngày một đêm. ... Mời các bạn đón đọc Âm Thanh Của Em Là Thế Giới Của Anh của tác giả Thanh Phong Ngữ.
Lễ Tế Mùa Xuân - Lục Thu Trà
Năm Thiên Hán thứ nhất, Vu Lăng Quỳ - một thiếu nữ quý tộc ở thành Trường An lần đầu tới thăm Vân Mộng Trạch, thế rồi những quan điểm mà nàng đưa ra đã khiến gia tộc họ Quan từng chấp chưởng việc tế bái quốc gia của nước Sở - phải chấn động. Vì nối tiếp quy củ đời đời, là một trưởng nữ - Vu Lăng Quỳ phải trở thành “Vu nhi” chủ trì việc tế bái trong gia tộc, cả đời không được lấy chồng. Trong chuyến đi lần này, quan hệ giữa nàng và ái nữ Quan Lộ Thân của gia tộc họ Quan luôn căng thẳng bất hòa. Trong khi đó, những vụ án mạng đột ngột xảy ra liên tiếp khiến Quan Lộ Thân càng thêm nghi ngờ - phải chăng kẻ ngoại tộc Vu Lăng Quỳ chính là ngọn nguồn của mọi cơn ác mộng. Rốt cuộc ai mới là hung thủ thực sự đứng sau tất cả? Rốt cuộc động cơ của hung thủ là gì? Liệu động cơ ấy có liên quan tới việc tế bái thờ phụng, hay có liên hệ với vụ huyết án của gia tộc họ Quan bốn năm về trước? Đánh cược bằng danh dự của cả gia tộc mình, Vu Lăng Quỳ quyết tâm tìm ra kẻ thủ ác… *** Ngày 10 tháng 7 năm 2012, khi cuốn tiểu thuyết này hoàn thành bản thảo, tôi liền noi theo lệ cũ trong Cảo Cánh Thuyết Kệ thuộc Biệt truyện Liễu Như Thị mà làm ba bài tuyệt cú. Khi ấy tôi cứ sợ rằng tám mươi bốn chữ này sẽ hóa thành lời tiên tri vào một ngày nào đó, nên không dám mạnh miệng mà cũng chẳng dám nói gở. Thực ra từ khi bắt đầu lên ý tưởng cho cuốn tiểu thuyết này vào năm 2010, tôi đã biết rõ rằng nó nhất định sẽ khó chào đời hơn các cuốn tiểu thuyết khác rất nhiều - cụm từ “chào đời” ở đây vừa chỉ chuyện sáng tác, vừa mang hàm ý về việc xuất bản - Dù sao đây cũng là tác phẩm chỉ tôi mới có thể hoàn thành, mà tôi lại là một người lười biếng, hay mất tập trung lại còn khá kỳ quặc. Chỉ tôi mới có thể viết ra một cuốn tiểu thuyết như vậy - thoạt nghe thì như một lời tự thuật cực kỳ kiêu ngạo. Nhưng may mà khi đọc được câu này, chắc là độc giả đã đọc hơn một trăm nghìn chữ trước đó rồi, nên hẳn là sẽ không hiểu lầm ý tôi. Tôi không tin trên đời này còn người thứ hai có hứng thú kỳ quặc và kết cấu tri thức tương đồng với mình, vậy nên tôi mới tự phụ tuyên bố rằng trên đời này sẽ không còn cuốn tiểu thuyết nào giống như Lễ tế mùa xuân nữa. Bỏ chút công sức tìm hiểu Hán Thư* và các loại Kinh, lại có chút hứng thú với triết học phương Tây, bên cạnh đó còn tôn thờ tác phẩm của Shinzo Mitsuda và Yutaka Maya như những nguyên tắc tối cao của tiểu thuyết trinh thám, và điểm cuối cùng – cũng là điểm mang tính quyết định và tính hủy diệt – một kẻ cuồng tín với Cổ điển học và Bản cách** cổ điển lại trót bán linh hồn mình cho văn hóa A.C.G*** Nhật Bản. Nếu cõi đời này còn có người thứ hai vô dụng như tôi, vậy người đó chính là phân thân (Doppelganger) của tôi, chắc chắn sẽ trở thành tri kỷ hoặc kẻ thù không đội trời chung suốt đời với tôi. * Một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. ** Một trường phái tiểu thuyết trinh thám, chú trọng tính logic để phá giải vấn đề, hoàn toàn tương phản với trường phái xã hội chú trọng tả thực. Trinh thám bản cách không chú trọng tả thực mà đi sâu vào tình tiết ly kỳ và quỷ kế thâm sâu, qua suy luận logic để triển khai tình tiết. Thường có tình tiết giết người trong phòng kín hoặc giết người giữa đảo biệt lập. Phái Bản cách có thể thỏa mãn những độc giả coi việc giải câu đố như thú vui, thường để độc giả và thám tử cùng đứng trên một bình diện, nắm giữ lượng manh mối như nhau, thử thách trí thông minh của độc giả, để xem họ có thể đưa ra lời giải đáp như thám tử hay không. Bởi vậy đặc trưng của trinh thám bản cách là chú trọng tính logic và tính công bằng. (Theo baike) *** A.C.G là từ viết tắt chỉ Anime, Comics và Games Nhật Bản. Cũng vì cuốn tiểu thuyết này in đậm dấu ấn cá nhân nên những điều tôi muốn biểu đạt đã hiển hiện hết trong chính văn, thực ra chẳng cần viết lời cuối sách làm gì. Có điều tự tôi cũng biết người khác không thể hiểu nổi tại sao tôi lại đặt tên cho cuốn tiểu thuyết này là Lễ tế mùa xuân* (tức Nguyên niên xuân chi tế), bởi vậy tôi phải giải thích rõ. * Tên gốc theo Hán Việt của tiểu thuyết Lễ tế mùa xuân là Nguyên niên xuân chi tế, trong đó “nguyên niên” chỉ năm đầu tiên của một niên hiệu vua, ví dụ “Thiên Hán nguyên niên” là chỉ “Năm Thiên Hán thứ nhất”, tên Nguyên niên xuân chi tế có nghĩa gốc là: Lễ tế vào mùa xuân năm thứ nhất (của một niên hiệu vua). Thực ra thì năm chữ ấy là sự kết hợp giữa ba chữ “Nguyên niên xuân*” bắt nguồn từ Kinh Xuân Thu và tên vở ballet Xuân chi tế** (tức vở Le Sacre du printemps) của Igor Stravinsky***. * Có nghĩa là “Mùa xuân năm thứ nhất (của một niên hiệu vua)”. ** Có nghĩa là “Lễ tế vào mùa xuân”. *** Igor Fyodorovich Stravinsky (1882 – 1971): Nhà soạn nhạc người Nga, người được coi là một trong những nhà soạn nhạc có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ XX. Tôi chọn ba chữ trong Kinh Xuân Thu bởi vì quyển tiểu thuyết này là mở đầu của toàn bộ series về Vu Lăng Quỳ, mà nàng ấy lại sống ở thời Hán Vũ đế, cũng chính là thời kỳ hưng khởi của Xuân Thu học. Cho dù Đổng Trọng Thư* không thể sống tới năm mà tiểu thuyết bắt đầu, nhưng những kiến thức mà ông để lại vẫn tồn tại, tinh hoa tuyệt mỹ, nữ chính dưới ngòi bút của tôi cũng phần nào hướng về điều ấy. * Đổng Trọng Thư (179 TCN – 104 TCN): Nhà triết học duy tâm thời Tây Hán, một đại diện tiêu biểu của Nho học.   Bên cạnh đó, thời gian xảy ra câu chuyện cũng được tôi đặt vào năm Thiên Hán thứ nhất (năm 100 trước Công Nguyên). Đây không phải một năm đặc biệt đáng để kỷ niệm, nhưng niên hiệu này lại có ý nghĩa đặc biệt với tôi. Phần thứ ba mươi hai Tư Mã Thiên truyện thuộc cuốn Hán Thư có viết: “Do đó Tư Mã Thiên đã dựa theo Tả Thị, Quốc Ngữ(1), sưu tầm Thế Bản, Chiến Quốc Sách(2), kể lại Sở Hán Xuân Thu(3), viết tiếp chuyện sau đó, dừng lại ở thời Thiên Hán.” Vậy tức là Sử Ký(4) do Tư Mã Thiên(5) viết rất có thể chỉ ghi chép đến thời đại này. (Phần do Tư Mã Thiên viết trong Sử Ký trên thực tế kết thúc vào khoảng thời gian nào, có cả thảy ba ý kiến, có thể tham khảo nghiên cứu của Vương Quốc Duy, Chu Đông Nhuận, Lục Diệu Đông… để hiểu thêm). Trong Thái Sử Công tự đề tựa, khi nhắc tới nguyên nhân sáng tác Sử Ký, từng trình bày thế này: “Người xưa đã nói: ‘Sau khi Chu Công mất được năm trăm năm thì có Khổng Tử. Khổng Tử mất đến nay đã được năm trăm năm. Nếu có kẻ nối nghiệp, soi sáng cho đời, chỉnh lý được Dịch truyện, tiếp tục Kinh Xuân Thu, nắm được cái gốc của Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc(6), thì là ở lúc này đây! Ở lúc này đây.’ Kẻ hèn mọn này dám đâu từ chối việc ấy.”(7) Mà cho dù Sử Ký có kế thừa Kinh Xuân Thu hay không, tôi cũng thực sự muốn lấy cái thời đại Sử Ký chấm dứt để làm điểm khởi đầu, viết nên một tác phẩm có thể khiến mình cảm thấy không sống hoài sống phí kiếp này. (1) Tức Xuân Thu ngoại truyện hay Tả thị ngoại truyện. (2) Cuốn cổ sử Trung Quốc viết về lịch sử thời Chiến Quốc, từ năm 490 TCN đến năm 221 TCN. (3) Tức chiến tranh Hán – Sở giữa Lưu Bang và Hạng Vũ. (4) Là cuốn sử của Tư Mã Thiên, được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc trong hơn 2500 năm từ thời Hoàng Đế cho tới thời Hán Vũ đế. (5) Tư Mã Thiên (145 TCN – 86 TCN), tên tự Tử Trường, là tác giả bộ Sử Ký. Ông được tôn là Sử thánh, một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc. (6) Do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị Tần Thủy Hoàng đốt mất, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. (7) Bản dịch của Nhữ Thành.   Đó cũng là lý do tôi sáng tác Lễ tế mùa xuân. Còn về việc mượn cái tên Xuân chi tế, ngoài việc nó phù hợp với tình tiết trong tiểu thuyết, một phần cũng vì nó có liên quan tới phong cách âm nhạc của vở ballet này: chủ nghĩa nguyên thủy và kỹ xảo hiện đại. Đúng thế, tôi thực sự muốn độc giả nghe được tiếng lòng của ông cha ta, muốn gọi hồn cho nền văn minh cổ xưa trong một thời gian dài luôn bị coi là thối nát sa đọa, bởi vậy tôi mới tìm đủ mọi cách mà chọn ra hình thức tiểu thuyết trinh thám này, danh chính ngôn thuận dùng sinh mệnh của các thiếu nữ để hiến tế - Nói cách khác, tôi đang thử viết về hệ thống truyền đạo Nho gia của phương Đông cổ đại bằng loại hình văn học phương Tây hiện đại. Thứ lỗi cho sự ngu dốt của tôi, thử hỏi ngoài Lễ tế mùa xuân, đã từng có ai thử nghiệm như vậy bao giờ chưa? Series về Vu Lăng Quỳ sẽ không kết thúc tại đây, song nỗi lo nghĩ về thơ văn và vấn đề khảo chứng khiến tôi chưa thể hoàn thành cuốn kế tiếp. Tác phẩm tiếp theo (tạm đặt tên là Ô Chi Thư Hùng) sẽ nói về những chuyện mà Quỳ và Lộ Thân gặp phải khi tới Trường An, cũng sẽ xoay quanh một nhân vật chính trị quan trọng cuối thời Hán Vũ đế là Lưu Khuất Ly và gia tộc để phát triển câu chuyện. Gần đây, tôi cũng đăng tải không định kỳ series tác phẩm về thám tử thiếu nữ xinh đẹp Lục Thu Trà cùng tên với tôi trên tạp chí Trinh thám. Cho dù trục thời gian hiện tại đang dừng lại ở thời điểm cô ấy học trung học, nhưng sẽ có một ngày tiến độ câu chuyện theo kịp cuộc đời của tôi. Tới khi đó, có thể tôi cũng sẽ kể lại quá trình sáng tác Lễ tế mùa xuân qua góc nhìn của cô ấy. Cuối cùng, kèm theo bài viết này là ba bài tuyệt cú mà tôi nhắc tới ban đầu: Mấy năm thắp nến trải đêm dài, vài lần vắt óc viết mùa xuân. Tuổi xanh thử bút đều là thế, vô lại như tôi cũng góp phần. Chưa bảo câu từ gây tai họa, sớm nghe rỗng tuếch đủ bi ai. Viết thành mười vạn chữ thừa thãi, cắt bỏ mặc gió đông trổ tài. Trời đất bốn mùa luân chuyển mãi, nghìn năm sống chết đến đi hoài. Những điều tế nhị lời khôn tỏ, xin đợi hồng hoang khai sáng cho. Lục Thu Trà Ngày 30 tháng 6 năm 2015, tại nhà riêng ở Kanazawa. Mời các bạn đón đọc Lễ Tế Mùa Xuân của tác giả Lục Thu Trà.
Thanh Tra Maigret Và Ngài Bộ Trưởng - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. Mời các bạn đón đọc Thanh Tra Maigret Và Ngài Bộ Trưởng của tác giả Georges Simenon