Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Độn Toán Thần Diệu - Trần Khang Ninh

Độn Toán Thần Diệu  [Bấm Độn]. Phương Pháp Độn Toán Chọn Ngày Theo Lục Diệu. Độn Giáp Của Gia Cát Lượng. Quỷ Cốc Tử Độn Giáp. Xuất Hành Theo Độn Quẻ Tiên. Bát Môn Tiểu Độn.

Độn Toán Thần Diệu

Cuốn sách này gồm những nội dung chính sau:

Phương pháp độn toán chọn ngày theo lục diệu.

Độn pháp của Gia Cát Lượng.

Quỷ cốc tử độn pháp.

Xuất hành theo độn quẻ tiên.

Bát môn tiểu độn.

Xin trân trọng giới thiệu.

Ý thức được sự vận động của bản thân mình trong không gian, loài người đã hình thành nên khái niệm thời gian. Từ sự hình thành khái niệm thời gian, nhân loại đã làm ra công cụ để đo thời gian là lịch. Quá trình làm ra lịch, cả người phương Tây và người phương Đông đều thấy được sự tác động và chi phối của vũ trụ không gian qua thời gian tới mỗi người, mỗi khu vực địa lý, tới đời sống sản xuất xã hội… Điều này có thể thấy rõ nét nhất là sự thay đổi và tác động của tiết khí trong năm đối với sản xuất, mùa màng và sự phát triển của con người.

Thời gian là một yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của cá nhân và xã hội. Thời gian là phương tiện để dựng lại và ghi chép quá khứ, dùng trong tổ chức sản xuất, quản lý xã hội, trong sinh hoạt văn hoá và giao tiếp xã hội không chỉ hiện tại mà trong dự báo tương lai. Do vậy, nhận thức về thời gian là một trong những tri thức sớm nhất của loài người và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện.

Một khía cạnh độc đáo có tính đặc trưng nhất của thời gian, là sự tác động của nó đối với cuộc sống và hành động của từng người.

Cho đến nay, sự tác động trên nhiều phương diện của thời gian được các nhà khoa học phát hiện ra. Những khám phá này được giới nghiên cứu gọi là “nhịp sinh học”, đó là một trạng thái tinh thần, sức khoẻ của từng người có quan hệ mật thiết với sự thay đổi thời gian theo ngày, tháng, theo tuần và theo năm. Chẳng hạn, qua những nghiên cứu đặc biệt của mình, nhà nội tiết học Đan Mạch Hamburger đã cho biết, trong cơ thể mỗi người, mức nội tiết vỏ thượng thận là những chất điều chỉnh quan trọng nhất của nhiều quá trình trong cơ thể, luôn luôn thay đổi theo nhịp tuần lễ (7 ngày) một cách nghiêm ngặt. Con số 7 ngày trùng hợp với một tuần lễ, được nhân loại coi như một đơn vị thời gian mà các nhà nghiên cứu thường gọi là “con số 7 kỳ lạ” có nhiều điều bí ẩn. Hiện tượng kỳ lạ này được các nhà nghiên cứu làm như sau: chọn nhiều lần nhiều nhóm người và đề nghị họ gọi tên một con số bất kỳ từ 0 đến 9, kết quả phần lớn các trường hợp ấy, người ta đều chọn và gọi số 7. Gắn liền với con số 7, người ta còn đưa ra nhiều huyền hoặc, song thực tế lại phức tạp hơn nhiều khi bác lại những điều dị đoan về con số đó. Chẳng hạn, bảng thực nghiệm, các nhà khoa học đã xác lập được rằng, giới hạn khả năng con người, xử lý được thông tin thường chỉ bó hẹp trong sự ghi nhớ 7 từ, hoặc 7 loại đồ vật hoặc 7 ký hiệu cần phải tái hiện nhớ lại từ một bản liệt kê dài những tín hiệu thông tin mà họ tiếp xúc.

Những hiện tượng xã hội dường như cũng gắn liền với dịp thời gian của một chu trình 7 ngày (tuần lễ). Theo một số nghiên cứu cách đã lâu, ở Anh và xử Uên, từ 1970-1976 và trong các năm của thập kỷ 80 thế kỷ XX, vào những ngày thứ Bảy và Chủ nhật thì số lần sinh đẻ ít hơn so với những ngày khác trong tuần lễ.

Nhịp điệu thời gian theo nhịp 7 ngày tác động tới vạn vật, con người … cho đến nay còn bí ẩn, và điều đó đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu còn tiến hành những nghiên cứu mới. Người ta còn thấy nhịp thời gian còn mang tính xã hội.

Chẳng hạn, nhịp thời gian trong tuần của các xí nghiệp công nghiệp tác động đến người làm việc như sau: thứ hai năng suất lao động tương đối thấp, thứ ba, thứ tư, thứ năm thì năng suất có tăng lên, thứ sáu và thứ bảy lại giảm. Đối với sự học tập của học sinh sinh viên cũng theo quy luật này.

Theo Dịch Lý Phương Đông, nam giới cử sau 7 năm (7 tuổi ta, 6 tuổi lịch Dương) và nữ giới sau 9 năm có sự thay đổi toàn diện cơ thể. Đối với nam giới 7 lần thay đổi tức 7×7 = 49 tuổi là lần thay đổi lớn nhất trong cuộc đời, nên năm này người ta hết sức giữ gìn.

Ảnh hưởng của hoạt động mặt trời qua mỗi ngày đối với hoạt động của con người, cũng được các nhà khoa học quan tâm.

Ngay từ năm 1934, hai nhà khoa học Mỹ là anh em ruột Dull đã ghi nhận được chu kỳ 27 ngày của tỷ lệ tử vong có liên quan đến cường độ hoạt động của mặt trời. Năm 1937, họ cho biết đường cong tỷ lệ tử vong ở các thành phố lớn của châu Âu biến đổi đồng bộ khớp với hoạt động mạnh ở mức cao nhất của mặt trời. Năm 1964, tại Budapet thủ đô Hungari, những vụ tự tử do tổ chức cấp cứu ghi nhận được, rất khớp với những biến đổi tình trạng điện tích của không khí theo nhịp 27 ngày dao động hoạt tính của mặt trời. Cũng tại nước này, từ năm 1963-1964 những bão táp địa từ do mặt trời gây nên, đã làm tai nạn giao thông trên đường tăng lên 101%. ở các hầm mỏ than vùng Rua của nước Đức, sự cố xảy ra nhiều nhất vào những ngày có hoạt tính mặt trời tăng. Như vậy, cường độ hoạt động của mặt trời qua các ngày là nguyên nhân gây ra các tai nạn và các vụ tự tử. Khi trên mặt trời có những vết sáng tạo ra trong khí quyển, các nhà nghiên cứu thấy hành vi ứng xử của con người chậm đi, thường mất bình tinh, cùng lúc xuất hiện những hành động sai trái dễ gây ra bạo lực và xung đột.

Như vậy, dường như có những ảnh hưởng của vũ trụ, của mặt trăng, mặt trời đến hành vi của con người. mặt khác cùng không thể phủ nhận sự tác động các vì tinh tú tới mọi sinh vật trên trái đất, trong đó có con người qua các ngày, tháng, năm.

Sự ảnh hưởng của mặt trời qua các ngày tác động đến con người, được nhà khoa học Liên Xô cũ nổi tiếng AL Trigiepxki (1897 1964) nghiên cứu rất chi tiết. Ông cho rằng, mọi sự phát triển của sinh vật, trong đó có con người đã diễn ra dưới tác động của vũ trụ, mà rõ nét nhất là mặt trời. Chu kỳ hoạt động của mặt trời có liên quan đến hàng loạt những hiện tượng trên trái đất như: bệnh dịch ở thực vật, động vật, các nan dịch lớn ở người… Theo nhà khoa học này, các trung tâm hoạt tính của mặt trời có thể tồn tại lâu tới vài tháng, khi mặt trời quay, các trung tầm hoạt tính này cứ 27 ngày đêm, lại qua kinh tuyến trung tâm của bán cầu hướng về trái đất. Các hiện tượng này thành chu trình là : 5 – 6 năm, 11 – 12 năm và có khi hàng thế kỷ.

Trong vòng ảnh hưởng các chu kỳ hoạt tính mặt trời trên, nhiều biến cố đã xảy ra trên trái đất. Chẳng hạn các nhà khoa học ở thành phố Tomxcơ của nước Nga đã tiến hành thống kê nghiên cứu những vụ trục trặc kỹ thuật của xe hơi, đã phát hiện các trường hợp tai nạn giao thông trong 7 năm (1958 - 1964) đều thấy vào các ngày đầu và sau những chớp sáng trên mặt trời. Ở những ngày như thế, số lượng tai nạn giao thông tăng gấp ô lần so với ngày yên tĩnh, tức là không có chớp sáng. Nếu theo quan điểm này, sẽ có ngày hung họa, mặt trời thường ngày của nhân loại đáng quý có lúc trở thành "hung thần". Các nhà khoa học phương Tây còn cho rằng, ở mỗi người căn cứ vào ngày sinh của họ tính đi đều có nhịp sinh học theo thời gian ngày, được chia thành 3 chu kỳ song hành là: chu kỳ thể lực 23 ngày liên tiếp, chu kỳ xúc cảm 28 ngày liên tiếp, chu kỳ trí tuệ 33 ngày liên tiếp. Trong mỗi chu kỳ, những ngày đầu của chu kỳ có lợi cho một người, nửa sau là bất lợi. Ở nửa sau mỗi chu kỳ, người ta đưa ra những ngày nguy hiểm. Ngày nguy hiểm với mức độ c àng cao, khi ở mỗi người nhịp vận động của 3 đường giao động trùng nhau. Ở những ngày này, những sự cố nguy hiểm dễ xảy ra nhất.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

KHỔNG MINH THẦN TOÁN
Khổng Minh Thần Toán là một danh tác của Khổng Minh, vị quân sư Lưu Bị đời Tam Quốc, và có thể nói là vị quân sư của mọi thời đại ( về sau, của Trung Hoa). Tư cách quân sư của mọi triều đại ấy, dĩ nhiên là do cái sở học thâm áo của Ông về Dịch lý Đông Phương;  và Khổng Minh Thần Toán chính là tác phẩm độc nhất của ông về môn này. Khổng Minh Thần Toán là một danh tác của Khổng Minh, vị quân sư Lưu Bị đời Tam Quốc, và có thể nói là vị quân sư của mọi thời đại ( về sau, của Trung Hoa).Tư cách quân sư của mọi triều đại ấy, dĩ nhiên là do cái sở học thâm áo của Ông về Dịch lý Đông Phương;  và Khổng Minh Thần Toán chính là tác phẩm độc nhất của ông về môn này.
Dự đoán tương lai bằng phương pháp số hóa
Cuốn sách “Dự đoán tương lai bằng phương pháp số hóa” phát hành dựa trên sự mã hóa các chữ thành số như: Mã số, mã vạch cho sản phẩm, mã hóa tên người…Những số tự nhiên trong số hóa đã mang một chức năng khác, nó ẩn chứa các thông tin để biết như giá cả, thứ loại của sản phẩm hay những thông tin cá nhân… Môn dự đoán qua số hóa cũng trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển đến ngày nay. Bằng phương pháp số hóa, mỗi người có một cách khai thác, ứng dụng theo hướng mà họ quan tâm.Thời xa xưa người Trung Hoa đã vận dụng số hóa vào nhiều môn dự đoán như : Ngọc chưởng thần quái, Bát quái thần toán, Tính danh dự đoán học … Đến thế kỷ XX phương pháp số hóa bắt đầu ứng dụng vào một số lĩnh vực : công nghệ, thương mại, quân sự…
36 KẾ NHÂN HÒA
Trong xã hội ngày nay, cơ hội nhiều và thử thách cũng nhiều. Mọi người đều khao khát thành công, tạo dựng sự nghiệp, xây dựng gia đình ổn định. Nhưng muốn có được một chỗ đứng ổn định trong thương trường, xã hội mà không có một hệ thống triết lý, mưu kế xử thế cao siêu thấu đạt lòng người thì rất khó thành công. Nhân sinh xử thế cốt ở chữ "Độ", xử sự đúng phân lượng là cảnh giới tối cao. Cương trực vốn rất tốt nhưng quá cương trực thành gai góc, sắc sảo khiến người ta sợ hãi thì người đời khó chấp nhận. Hòa vốn tốt nhưng nếu chỉ cầu hòa đến đánh mất nguyên tắc, thiếu chủ kiến riêng, nhân nhượng, tất cả chỉ để cầu hòa thì thường bị coi là hèn. Cổ xưa từng nói: Thiên thời không bằng địa lợi. Địa lợi không bằng Nhân hòa. Cuốn ebook 36 Kế Nhân Hòa này nhằm cung cấp cho bạn đọc một ít kỹ xảo xử thế nhân gian, mong rằng có thể giúp bạn thuận buồm xuôi gió thẳng tiến đến thành công.Mục LụcKế 1. Kế ban ơnKế 2. Kế vu hồiKế 3. Kế mượn cớKế 4. Kế tấn công cạnh sườnKế 5 Kế khen thưởngKế 6 Kế lán tụngKế 7. Kế kích tướngKế 8: Kế dát vàngKế 9: Kế chữa thẹnKế 10. Kế phủng trường (Kế phò tá)Kế 11. Kế mượn uy danhKế 12. Kế hóa giảiKế 13. Kế nhượng bộKế 14. Kế lự tràoKế 15. Kế nhìn mặtKế 16. Kế hai mặtKế 17. Kế đe dọaKế 18. Kế thăm dòKế 19. kế nắm đằng chuôiKế 20. Kế che đậyKế 21. Mài cho mềm ngâm cho nhũnKế 22. Kế câu cáKế 23. Kế hạ đàiKế 24.Kế phản hồi ( nghĩ lại, quay ngược )Kế 25. Kế ứng biếnKế 26. Kế giả nguKế 27. Kế bán khôn mà ănKế 28. Kế lộ xấuKế 29. Kế phản pháoKế 30. Kế phản ngữKế 31. Kế bè đảngKế 32. Kế đe dọaKế 33. Kế xuống đài.Kế 34. Kế ám thịKế 35. Kế đàm phánKế 36. Kế thăm dò
Bát Tự Hà Lạc lược khảo - Học Năng
Bát tự Hà Lạc (có sách ghi là Tám chữ Hà Lạc) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý của Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành,... bằng cách lập quẻ Tiên thiên với hào nguyên đường và quẻ Hậu thiên; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. Bát tự Hà Lạc (có sách ghi là Tám chữ Hà Lạc) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý của Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành,... bằng cách lập quẻ Tiên thiên với hào nguyên đường và quẻ Hậu thiên; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. LỜI NÓI ĐẦUMột ông bạn già bảo Soạn giả: “Suốt đời anh chỉ lấy số giúp cho người, Tài Tử thế. Nếu không thích hành nghề, thì sao chẳng viết sách đi? Môn Bát Tự Hà Lạc của anh có cỡ lắm rồi đấy!”.Chỗ thân nên mới trả lời văng mạng rằng: “Cớ gì! mắc cỡ thì có. Nào đã biết gì đâu mà viết với lách. Học số tuy gần 40 năm thật, nhưng lẽ quyển Kinh Dịch chưa sờn, chứ đừng có nói là đã hân hạnh dứt lấy một lần, thì phỏng viết sách ra có ích gì, hay chỉ làm thiệt lấy đôi ba ram giấy và ít ký mực của học sinh nghèo”.Ông bạn nghe xong mỉm cười rồi lại nghiêm nét mặt mà nói: “Chà! mặc cảm vừa vừa thôi chứ. Tuổi anh nay mai sắp sang tuần “Thất - Thập cổ lai hi rồi”, liệu ít nữa, xuống lòng đất mẹ có mang được tí sở học đi không? Mà nếu thiên hạ ai cũng nghĩ (Tếu) như anh cả, thì rồi môn BÁT - TỰ HÀ - LẠC đến mất giống ư?Tuy câu chuyện đối đáp tầm phào như trên, mà rồi cũng làm cho đầu óc phải suy nghĩ. Soạn giả tự nhủ: “Ừ, anh bạn nói cũng có lý. Như người học Phật có ứng khẩu được KỆ mới là hiểu KINH. Học sách Thánh Hiền mà không làm được bài vở gì thì sao gọi là triết học. Suốt đời chưa trình làng được một chữ nghĩa nào về LÝ - SỐ, thì rồi đây, khi sang thế giới bên kia lỡ gặp các Cụ: Chu Công, Khổng Tử, Trần Đoàn, Thiệu Khang Tiết v.v... liệu các Cụ có để yên cho hay không, hay Khai trừ thẳng cánh”. Nghĩ vậy mà thấy rờn rợn góc gáy, nên rấp tâm phải viết một cái gì về LÝ SỐ, mặc dù vẫn viết rằng: Viết ra thì cũng tội, mà không viết ra cũng tội.Nhưng viết gì đây?Tử Vi, KINH DỊCH, MAI HOA, KỲ MÔN,GIÁP ĐỘN v.v... đều đã đủ mặt ở thị trường sách vở từ trong Thư Cục, Ấn Quán cho ra đến vỉa hè. Nhìn kỹ thì thấy thiếu BÁT TỰ và HÀ LẠC LÝ SỐ là 2 môn thịnh hành nhất ở các phố Hoa Kiều.Gần đây, tình cờ gặp một thầy Tướng Số, người Hoa Kiều là chỗ quen nên ông ta hỏi: “Học giả Việt Nam các ông chỉ có lấy Tử Vi thôi, không ai biết lấy BÁT TỰ và HÀ LẠC à?”.Chẳng lẽ soạn giả lại vô lễ nổi xung lên, nhưng liền nhớ ngay câu chuyện đối thoại xưa giữa YẾT KIÊU đục thuyền và giặc Nguyên, nên cũng bắt chước lối hiên ngang mà trả lời rằng: “Học giả Việt chúng tôi, trừ hạng tôi ra, lấy đấu mà đong không hết, còn ai cũng uyên thâm đủ các môn NHÂM, CẦM, ĐỘN, TOÁN cả, con cháu Trạng Trình mà không tinh thông sao được. Ông đã đọc Sử nước tôi chưa? Sở dĩ chúng tôi chỉ lấy Tử Vi thôi, là vì khoa ấy dễ phổ biến hơn hết”.Ông thầy Tàu ngồi im. Lời của ông tuy không có gì là kỵ thị Văn Hóa, nhưng vô tình đã lùa ngọn roi châm chọc vào bên cạnh sườn Học Vấn gầy còm của Soạn giả, khiến hắn này phải có một quyết định như câu Dịch, hào 3 quẻ quải: “Quyết quyết độc hành”.Thôi, đúng cũng là số đến ngày phải cầm bút rồi, mặc dầu đây không phải là “Bút Mộng Hoa” của Thi Hào Lý Bạch chi cả mà chỉ là bút rỉ mực cợn, đi đôi với bộ mắt đã mờ, gân tay đã mỏi, nhưng cũng cứ cố gắng và mạo muội vạch ra cuốn BÁT TỰ - HÀ LẠC này.