Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bão

Trong Bão, có một hòn đảo, biển và gió, cơ thể những người đàn bà, một đứa trẻ cô đơn không bố, một người đàn ông bị quá khứ gặm nhấm và cơn bão rửa sạch tất cả. Trong Bão, còn có cả Phi châu, Paris và một đứa trẻ lạc lối khác đi tìm danh tính của mình. Hai câu chuyện đầy chất thơ ấy được thổi đến bằng cơn bão của thế giới của tâm hồn. Trong Bão, những số phận kì lạ gặp đầy trắc trở của Le Clezio vẫn tìm thấy phép màu, tim thấy điều níu giữ họ lại với cuộc sống, bởi "kí ức không quan trọng,không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Trong Bão, độc giả vẫn tìm thấy chất thơ lãng mạn từ những câu văn giản dị nhưng đầy sức nặng của tác giả từng được nhận giải Nobel Văn chương 2008. Cuốn sách kể chuyện bằng cách đưa ra các hình ảnh, những gợi mở, niềm hy vọng ở phép màu và những điều hão huyển, và phải nhìn nó qua một tấm màn thi vị hóa. Từ đầu tới cuối, tính nhạc trong từng câu chữ giữ chân người đọc. *** Bão là tập truyện mới nhất của Le Clézio - nhà văn đoạt giải Nobel năm 2008. Tác phẩm được xuất bản tại Pháp năm 2014, vừa phát hành ở Việt Nam. Có thể ví hai truyện vừa Bão và Người đàn bà không danh tính trong cuốn sách như một file nén. Với dung lượng trang sách, số con chữ không lớn nhưng nén trong đó những câu chuyện đầy sức nặng và nhiều tầng cảm xúc, triết lý. Và bởi thế, mỗi độc giả có "mã giải nén" của riêng mình. Là hai câu chuyện độc lập song bằng những chủ đề chung, tác giả đã tạo cho nó một mạch ngầm kết nối: từ cô gái June sống ở một hòn đảo hẻo lánh của Nhật Bản đến Rachel của một vùng đất thuộc địa cũ của châu Phi, từ vùng trời nước hoang sơ đến những thành thị ngột ngạt, và từ một bé gái không cha đến một thiếu nữ không mẹ đi tìm nguồn cội của mình.  Câu chuyện của Bão đưa người đọc đến những vùng đất xa xôi, những xã hội như nằm bên kia nền văn minh, nơi con người đắm mình vào thiên nhiên hoang dã, sống trong nó và chết trong nó. Ở đó, những con người còn rất trẻ đang bước qua lằn ranh mỏng manh giữa ấu thơ và trưởng thành, tâm hồn còn trong sáng vô ngần, nhạy cảm vô ngần, hồ như căng mình ra trước mọi sóng gió cuộc đời, không có khả năng tự bảo vệ khỏi những nỗi đau. Thậm chí họ dấn mình vào nỗi đau: đi tìm nguồn cội, đi tìm danh tính. Trên hết, những cô gái luôn vươn mình tới một thứ tình yêu nguyên sơ, thánh thiện, bất chấp sự già cỗi của những thứ ranh giới, khoảng cách thường tình. Đó là thứ tình yêu từ cội nguồn sự sống có trong mỗi con người mà cô bé June cảm nhận được. Tình yêu ấy đôi khi làm thương tổn chính các cô gái. Bởi nó mạnh mẽ như bão, hủy diệt như bão, và cũng tái sinh sau bão. Hai cô gái trẻ của Bão mang trong mình một tâm hồn có thể bật lên, tự tái tạo, tự giải thoát mình khỏi nỗi đau và nỗi tuyệt vọng. Cũng nhờ sức sống tươi mới tiềm tàng ấy, Kyo - người đàn ông toan đến hòn đảo hoang vắng để kết thúc cuộc đời - được giải thoát khỏi "nhà tù" của quá khứ, khỏi sự ám ảnh của ký ức và những vết thương. Bão đã rửa sạch tất cả - "ký ức không quan trọng, không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Bão tiếp tục những chủ đề ưa thích của Le Clézio: những thế giới, vùng đất, con người bị bỏ quên, dường như sống bên lề thế giới và nền văn minh. Ông luôn dành một sự ưu ái, trìu mến cho người trẻ và phụ nữ. Có thể thấy trong câu chuyện của ông, họ là những đối tượng dễ dàng bị thế giới nuốt chửng hay làm tổn thương. Nhưng đó cũng chính là những tâm hồn tiềm tàng khả năng tái sinh mạnh mẽ, khơi dậy niềm thiết tha sống ở những con người khác. Bên cạnh đó, chủ đề đi tìm danh tính dường như chưa bao giờ là câu chuyện cũ trong sáng tác của Clézio, nhất là khi con người đang ngày càng đánh mất mình giữa sắt thép, bê tông, phương tiện hiện đại và những thành phố xa hoa, đồ sộ. Những câu chuyện không có những tình huống gay cấn, tình tiết hấp dẫn hay chi tiết mùi mẫn của Clézio dường như thách thức sự kiên nhẫn của độc giả. Thay vào đó, ông theo sát và xoáy sâu vào những biến động tâm lý bất ngờ của nhân vật: June (Bão) đã mạnh mẽ và quyết liệt ra sao trong niềm tin của riêng mình; Rachel (Người đàn bà không danh tính) đã để mình trôi dạt, lạc lối thế nào trong nỗi cô đơn của mình, trong những ngóc ngách thành phố. Mỗi câu chuyện đều mang đến một niềm xúc động sâu xa bằng lối văn phong giản dị, trong trẻo mà đa thanh. Những câu ngắn đầy chất thơ, chất nhạc. Và những mệnh đề, câu chữ, hình ảnh trở đi trở lại như một giai điệu ám ảnh. Song, giống như hành trình tự nhiên của một cơn bão, cấu tứ câu chuyện của Clézio nương theo đó đi về phía chân trời hừng sáng sau cơn biến động của đất trời. Ở phía đó, có sự đổi thay, sự tái sinh và có niềm tin không bao giờ lụi tắt. Đó cũng là chất thơ lãng mạn chảy len lách giữa khoảng trắng của những con chữ - là chất thơ của thiên nhiên vĩnh hằng và của từng khoảnh khắc sống. Clézio được ví như một "nhà văn đi bộ" với lối bút pháp "lãng du". Mỗi câu chuyện ông kể giống như cất lên một bản du ca u buồn, sâu lắng nhưng đẹp đẽ dành cho những nơi ông từng đi qua, những con người từng gặp gỡ. Đó còn là những lời an ủi dịu dàng, thiết tha dành cho bao tâm hồn cô độc và lạc lõng. *** Đêm buông trên đảo. Đêm lấp đầy những chỗ trũng, len lỏi giữa ruộng đồng, một đợt thủy triều bóng tối dần bao phủ vạn vật. Cũng vào thời khắc đó, đảo vắng bóng người. Sáng nào du khách cũng tới trên chuyến phà lúc tám giờ, họ làm đông đúc những không gian trống, họ lấp đầy những bãi biển, họ trôi như một thứ nước bẩn dọc theo cả những con lộ lớn lẫn những nẻo đường đất. Rồi khi đêm tới, họ lại rời khỏi những vũng vịnh, họ lùi ra xa, họ mất tăm. Những con tàu mang họ đi. Và đêm tới. Tôi tới đảo lần đầu cách đây đã ba mươi năm. Thời gian đã biến đổi mọi thứ. Tôi chỉ loáng thoáng nhận ra những nơi chốn, những ngọn đồi, những bãi biển, và dáng hình của miệng núi lửa sạt lở phía Đông. Tôi quay lại vì lẽ gì nhỉ? Phải chăng không còn nơi nào khác cho một nhà văn đang kiếm tìm lối viết? Một chốn nương náu khác, xa sự ồn ào của thế gian, đỡ om sòm hơn, đỡ ngạo ngược hơn, một chốn khác để ngồi vào bàn làm việc và gõ lên máy những dòng chữ, đối diện với bức tường chăng? Tôi đã muốn thăm lại hòn đảo này, nơi tận cùng thế giới này, nơi không lịch sử, không ký ức này, một mỏm đá bị dập vùi bởi sóng gió đại dương, rã rời vì du khách. Ba mươi năm, tuổi đời của một con bò. Tôi từng đến vì gió, vì biển, vì lũ ngựa bán hoang dã lang thang kéo theo dây buộc, vì lũ bò cái ban đêm giữa những nẻo đường, tiếng rống thê thiết của chúng nghe như tiếng tù và báo sương mù, vì những tiếng sủa ăng ẳng của lũ chó bị xích. Cách đây ba mươi năm trên đảo không có khách sạn, chỉ có các phòng ngủ cho thuê theo tuần gần đê chắn sóng, và những lán gỗ bán đồ ăn bên bờ biển. Chúng tôi đã thuê một ngôi nhà gỗ nhỏ trên đồi, không tiện nghi, ẩm ướt và lạnh giá, nhưng vậy là lý tưởng rồi. Mary Song hơn tôi một giáp, mái tóc tuyệt đẹp đen nhánh gần như ngả biếc, đôi mắt màu lá thu, nàng hát những tình khúc buồn trong một khách sạn dành cho du khách giàu có tại Bangkok. Cớ gì nàng lại muốn cùng tôi tới hòn đảo hoang vu này? Tôi chắc đây không phải ý tưởng của mình, chính nàng đã bàn đến chuyện này trước. Hoặc nàng đã nghe ai đó nhắc đến một đảo đá hoang sơ, mỗi khi có bão là hết đường tới. “Em cần tĩnh lặng.” Hoặc giả đó là ý của tôi, chính tôi đã nghĩ tới sự tĩnh lặng. Để viết, để lại bắt đầu viết sau nhiều năm uổng phí. Sự tĩnh lặng, khoảng cách. Sự tĩnh lặng, trong gió và biển. Những đêm lạnh, những đám sao. Giờ thì toàn bộ chuyện này chỉ còn là một kỷ niệm. Ký ức không quan trọng, không hậu quả. Duy có hiện tại là đáng kể. Tôi đã học được điều ấy qua những kinh nghiệm xương máu của mình. Gió là bạn tôi. Gió thổi không ngừng trên các mỏm đá, gió đến từ chân trời phía Đông rồi vấp phải bức vách gãy vỡ của núi lửa, ập xuống những ngọn đồi rồi luồn lách giữa những bức tường nham thạch thấp, lướt trên cát san hô và vỏ sò vỏ ốc vỡ. Ban đêm, trong phòng khách sạn nơi tôi ở (Happy Day*, làm cách nào cái tên này tới được tận đây, một cái tên không trọn vẹn trên chiếc thùng gỗ mắc cạn), gió lùa qua khe cửa sổ và cửa ra vào, xuyên qua căn phòng trống nơi chiếc giường sắt han gỉ cũng y hệt một mảnh tàu đắm. Không có lý do nào khác cho chuyến biệt xứ của tôi, cho nỗi cô đơn của tôi, duy có sắc xám của trời và biển, và tiếng gọi ám ảnh của những người đàn bà mò bào ngư, tiếng kêu của họ, tiếng huýt của họ, một dạng ngôn ngữ cổ, xa lạ, ngôn ngữ của những động vật biển đã từng lui tới thế giới rất lâu trước con người... Aouah, iya, ahi, ahi!... Những thiếu nữ làng chài đã ở đó khi Mary dẫn tôi đi thăm đảo. Bấy giờ mọi chuyện khác hẳn. Những thiếu nữ mò ốc tuổi chừng đôi mươi, họ lặn không trang phục, thắt lưng buộc đá, đeo những mặt nạ dưỡng khí lấy từ xác lính Nhật. Các cô không có bao tay cũng chẳng có giày. Giờ đây họ đã già đi, họ mặc bộ đồ lặn liền thân bằng cao su đen, họ đeo bao tay dệt bằng sợi hóa học, đi giày nhựa màu sắc sặc sỡ. Kết thúc ngày làm việc, họ bước đi dọc con đường ven biển, đẩy xe nôi chở những thứ thu hoạch được. Đôi khi họ có xe máy điện, xe ba bánh chạy xăng. Họ có dao inox giắt ở thắt lưng. Họ cởi bộ đồ lặn giữa những mỏm đá, gần một túp lều gạch nén xây riêng cho họ, họ giội rửa ở vòi nước lộ thiên rồi trở về nhà bước thấp bước cao, tiều tụy vì chứng thấp khớp. Gió đã cuốn theo những năm tháng của họ, những năm tháng của tôi cũng vậy. Bầu trời xám xịt, màu của hối hận. Biển động, nổi sóng lừng, biển xô vào đá ngầm, vào những chỏm nham thạch, biển quay cuồng và vỗ bập bềnh trong những vũng lớn, nơi lối vào những vịnh hẹp. Không có những phụ nữ ngày ngày mò hải sản này, biển có lẽ sẽ thù địch, khó gần. Mỗi sáng tôi lắng nghe tiếng kêu của những người đàn bà của biển, âm thanh rè rè từ hơi thở của họ khi họ ngoi đầu khỏi mặt nước, ahouiii, iya,tôi hình dung khoảng thời gian đã qua, tôi hình dung ra Mary, đã mất tích, tôi nghĩ đến giọng hát tình ca của nàng, đến tuổi thanh xuân của nàng, đến thời trai trẻ của tôi. Chiến tranh đã xóa đi tất cả, chiến tranh đã phá tan tất cả. Thời đó tôi thấy chiến tranh đẹp, tôi muốn viết về nó, trải nghiệm nó và rồi viết về nó. Chiến tranh là một cô gái đẹp với thân hình trong mộng, mái tóc dài đen nhánh, đôi mắt sáng, giọng nói mê hoặc, rồi nàng biến thành mụ già tóc tai bù xù và nanh nọc, thành ác phụ báo oán, bất nhân, tàn nhẫn. Đây là những hình ảnh trở lại trong tâm trí tôi, chúng dâng lên từ nơi sâu thẳm nhất. Những thân thể trật trẹo, những cái đầu bị cắt rời, rải khắp các đường phố bẩn thỉu, những vũng xăng, những vũng máu. Một vị hắc trong miệng, một thứ mồ hôi nặng mùi. Trong một căn nhà không cửa sổ, chỉ có một bóng đèn điện không chao duy nhất, bốn gã đàn ông giữ chặt một người đàn bà. Hai gã ngồi lên chân cô, một gã đã trói hai cổ tay cô bằng một dây đai, gã thứ tư mải miết với một vụ cưỡng hiếp bất tận. Không có tiếng động, như trong những cơn mơ. Ngoại trừ tiếng thở khàn khàn, tiếng thở của kẻ cưỡng hiếp, và một hơi thở khác, nhanh, dữ dội, của người phụ nữ, nghẹt lại vì sợ, có lẽ thoạt đầu cô đã kêu bởi dấu vết một cú đánh vẫn còn lưu trên môi dưới của cô, nó đã rách toạc, và máu chảy tạo thành một vết loang hình sao trên cằm. Hơi thở của kẻ cưỡng hiếp dần gấp gáp, một dạng thở khò khè sâu, nghẹt lại, một âm thanh trầm và giật cục của máy móc, một âm thanh gấp gáp và dường như sẽ không bao giờ ngưng. Mary là lâu sau đó, Mary uống rượu nhiều quá mức, và biển đã mang nàng đi. “Em có thể làm điều đó,” nàng đã nói khi chúng tôi băng qua eo biển ngăn cách đảo với đất liền. Nàng đi vào lòng biển lúc hoàng hôn. Thủy triều đã làm láng mượt những con sóng, những vòng tròn chậm rãi tiến lên, màu rượu vang. Những người đã nhìn thấy nàng đi vào lòng biển đều nói rằng nàng điềm tĩnh, rằng nàng mỉm cười. Nàng đã mặc đồ bơi, một bộ liền màu lam không tay, rồi nàng luồn lách giữa những mỏm đá đen, nàng bắt đầu bơi cho đến khi những con sóng, hoặc ánh mặt trời lặn che khuất nàng khỏi tầm mắt những người chứng kiến. Tôi đã không biết gì, không thấy gì, không dự đoán gì. Trong phòng ngủ ở căn lều của chúng tôi, quần áo của nàng được gấp và xếp sắp như thể nàng đi du lịch, thế thôi. Những chai rượu gạo rỗng không, những bao thuốc lá bóc dở. Một túi xách đựng vài vật dụng thân thuộc, lược và bàn chải tóc, nhíp, gương, phấn, son môi, khăn mùi soa, chìa khóa, ít tiền Mỹ và tiền Nhật, mọi thứ như thể hai tiếng nữa nàng sẽ quay lại. Viên cảnh sát duy nhất trên đảo này - một người đàn ông trẻ tuổi, tóc húi cua, trông như một thiếu niên - đã kiểm kê. Nhưng anh ta đã để lại cho tôi mọi thứ, như thể tôi là một người họ hàng, một người bạn. Tôi là người được yêu cầu tùy tâm xử lý những di vật, nếu họ tìm thấy, hỏa thiêu chúng, quăng chúng xuống biển. Nhưng không bao giờ có gì khác ngoài những đồ dùng không quan trọng kia. Bà chủ nhà trọ đã chọn trong đám quần áo, bà ta giữ lại đôi giày màu lam xinh xắn, chiếc mũ rơm, đôi tất dài, cặp kính râm, chiếc túi xách. Tôi đã mang các giấy tờ ra sân đốt. Những chiếc chìa khóa, những đồ vật riêng tư, tôi đã quăng chúng xuống biển, từ boong con tàu đưa tôi trở lại đất liền. Một ánh vàng rực lấp lánh giữa hai làn nước, tôi nghĩ một chú cá phàm ăn, một chú cá tráp hồng, một chú cá đối đã nuốt chửng chúng. Thi thể chưa bao giờ được tìm thấy. Mary, với làn da mềm mại, óng vàng sắc hổ phách, đôi chân chắc lẳn của vũ nữ, của vận động viên bơi lội, mái tóc đen dài. “Nhưng vì lý do gì?” viên cảnh sát đã hỏi. Đó là tất cả những gì anh ta đã nói. Như thể một ngày nào đó tôi có thể có câu trả lời. Như thể tôi có chìa khóa giải mã ẩn ngữ. Giờ đây khi bão nổi, khi gió thổi liên hồi từ chân trời phía Đông, Mary trở lại. Không phải tôi gặp ảo giác, cũng không phải chớm điên (nhưng tay bác sĩ của nhà tù, khi thảo báo cáo, hắn đã viết lên đầu hồ sơ của tôi chữ Y nguy hại), ngược lại là khác, mọi giác quan của tôi thành sắc bén, cảnh giác, nhạy cảm đến cực độ để thu nhận thứ mà biển và gió mang lại. Chẳng có gì rõ rệt, tuy nhiên đó là một cảm giác sống chứ không phải chết, nó tỏa vầng hào quang quanh da tôi, điều này đánh thức ký ức về những trò yêu đương của chúng tôi, của Mary và tôi, những mơn trớn dài từ dưới lên trên, trong bóng tối phòng ngủ, hơi thở, vị đôi môi, những nụ hôn sâu khiến tôi rùng mình, cho đến tận con sóng tình chậm rãi, cơ thể hai chúng tôi hòa quyện, bụng áp bụng, toàn bộ những chuyện này tôi đã bị cấm đoán từ lâu, là tôi tự cấm đoán, bởi tôi đang ở chốn ngục tù cho phần đời còn lại. Trong bão tôi nghe thấy giọng nàng, tôi cảm thấy trái tim nàng, tôi cảm thấy hơi thở nàng. Gió rít qua các khe của vách kính lớn, lùa vào qua phía mặt hẹp han gỉ, xuyên qua căn phòng và khiến cánh cửa đập đập. Bấy giờ trên đảo mọi thứ ngưng lại. Những con phà không băng qua lạch nữa, những chiếc xe máy và ô tô ngừng vũ điệu của chúng, ngày giống như đêm, âm u, có những tia chớp không kèm tiếng sấm xuyên qua. Mary đã ra đi vào một buổi chiều tĩnh mịch, trong mặt biển phẳng lặng như một tấm gương. Nàng trở về trong cơn bão, từng mảnh nhỏ li ti bị biển thẳm tống xuất. Ban đầu, tôi không muốn tin vào điều đó. Tôi từng ghê sợ, từng ép chặt thái dương giữa hai bàn tay để dập tắt những hình ảnh này. Giờ đây tôi nhớ đến một người chết đuối. Không phải một phụ nữ mà là một đứa trẻ lên bảy, một tối nọ thằng bé mất tích, Mary và tôi đã cùng dân làng tìm bé nhiều giờ trong đêm. Chúng tôi men dọc bờ biển, tay cầm đèn pin, chúng tôi gọi bé nhưng không biết tên nó, Mary hét gọi: “Này cưng ơi!” Nàng thảng thốt, nước mắt giàn giụa trên má. Bấy giờ có chính cơn gió này, những đợt sóng này, thứ mùi đáng nguyền rủa này của vực biển sâu thẳm. Rạng sáng có tin báo đã tìm thấy xác thằng bé. Trên một bãi cát lẫn sỏi giữa các mỏm đá, chúng tôi lại gần, nhờ một tiếng thở than giống như tiếng gió dẫn đường, nhưng đó là mẹ thằng bé. Chị ngồi trên cát đen, thằng bé đặt trong lòng. Thằng bé trần truồng, áo quần biển đã lột sạch, trừ chiếc áo phông bẩn tạo thành một chuỗi vòng xoắn vặn quanh thân trên. Gương mặt bé trắng bệch, nhưng điều tôi tức khắc nhìn thấy, đó là lũ cua và cá đã bắt đầu rỉa xác bé, gặm chớp mũi và cu của bé. Mary không muốn lại gần, nàng run lên vì sợ và vì lạnh, và tôi đã ôm nàng sát gần mình, chúng tôi ở lại trong phòng, nằm quấn lấy nhau trên giường, không vuốt ve nhau, chỉ miệng kề miệng thở. Giờ đây hình ảnh ấy ám ảnh tôi, thân thể người đàn bà ấy nằm dang chữ thập trong khi tụi lính hành sự, và dưới khuôn miệng bầm giập máu đã khô thành hình ngôi sao đen. Và đôi mắt cô đang nhìn tôi, trong khi tôi lùi lại gần cửa, đôi mắt cô nhìn thấy xuyên qua tôi, nhìn thấy cái chết. Tôi chưa bao giờ nói gì với Mary, vậy mà chính vì cảnh tượng tàn bạo ấy nàng đã ngụp xuống biển để không bao giờ trở lại. Biển rửa cái chết, biển gặm nhấm, phá hủy và không trả lại gì, hoặc trả một cái xác trẻ em đã bị róc rỉa. Thoạt đầu, tôi đã nghĩ rằng cả mình cũng trở lại hòn đảo này để chết. Tìm lại được dấu vết của Mary, đi vào lòng biển một tối rồi biến mất. Giờ đây trong cơn bão, nàng tới phòng tôi. Đó là một giấc mơ tỉnh thức. Tôi bị mùi thân thể nàng quyện với mùi biển thẳm đánh thức. Một mùi hương nồng và hắc, chua, gắt, u uất, xộc lên. Tôi ngửi thấy mùi rêu tảo trong tóc nàng. Tôi cảm thấy làn da nàng hết sức mịn màng, nhẵn mượt nhờ sóng bào mòn, lóng lánh ánh xà cừ vì muối. Thân hình nàng bồng bềnh trong ánh sáng lờ mờ buổi hoàng hôn, luồn vào trong chăn, và bộ phận sinh dục cương cứng của tôi đi vào nàng, tới rùng mình, quấn siết tôi trong niềm mê đắm lạnh băng của nàng, thân nàng trườn sát thân tôi, môi nàng kề trên dương vật tôi, tôi hoàn toàn quyện vào nàng, nàng quyện vào tôi, cho tới cơn cực khoái. Mary, chết từ ba mươi năm nay, chưa bao giờ tìm thấy xác. Mary trở về từ đáy đại dương, đang nói vào tai tôi bằng chất giọng hơi khàn, trở về để hát cho tôi nghe những ca khúc bị lãng quên, những ca khúc về những ngôi sao trời, mà nàng đã hát tôi nghe ở quán bar khách sạn Phương Đông, lần đầu tôi gặp nàng. Không hẳn là quán bar dành cho lính tráng, và nàng không hẳn là ca sĩ quán bar. Khi nhìn thấy nàng tôi đã không hình dung ra nàng là ai, con một lính Mỹ được một gia đình nhà quê vùng Arkansas nhận nuôi, sinh ra từ một vụ cưỡng hiếp, bị bỏ rơi và trở về để chiến thắng kẻ thù truyền kiếp của mình, để hoàn thành một cuộc báo oán, hay đơn giản chỉ do sự lại giống vốn hay xua loài người đi theo vết cũ cội nguồn một cách tất yếu. Nhưng tôi, tôi đâu phải một tên lính, nàng hiểu vậy, và chắc hẳn đó là lý do nàng chọn tôi, cái gã mặc đồ lao động và mái tóc húi cua, bám theo đám lính trong những cuộc hành quân, tay cầm máy ảnh để tường thuật mọi cuộc chiến tranh. Tôi còn nhớ lần đầu chúng tôi trò chuyện, sau lượt trình diễn của nàng, vào lúc đêm muộn, hoặc sáng sớm, trên khoảnh sân hiên nhô ra trên dòng Menam Chao Phraya, nàng đã cúi xuống để nhìn thứ gì đó trên mặt đất, một con bướm đêm màu đen đang đập cánh hấp hối, và qua phần cổ khoét của chiếc váy đỏ nàng mặc, tôi đã nhìn thấy bầu ngực nàng buông lơi, hết sức mịn màng, khêu gợi. Nàng không biết gì về tôi và tôi cũng không biết gì về nàng. Bấy giờ tôi đã mang vết thương nham nhở của tội ác, tôi cứ ngỡ chuyện đó sẽ qua đi. Tôi từng quên đi quá khứ, việc xử vụ khiếu kiện bốn tên lính đã cưỡng hiếp một phụ nữ ở Huế. Cái gã giữ tay cô gái quặt ra sau đã thụi vào môi cô để bắt cô im miệng, còn gã kia xâm nhập cô chẳng ngại ngần, thậm chí không cởi quần, và tôi nhìn, không nói gì, không làm gì hoặc gần như thế, chỉ chớm cương cứng, nhưng nhìn và làm thinh, đó là hành động. Có lẽ tôi sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để khi ấy đã ở nơi nào khác, để không từng chứng kiến. Trước tòa, tôi đã không tự biện hộ. Thiếu phụ có mặt tại đó, ngồi hàng ghế đầu. Tôi đã liếc trộm và không nhận ra cô. Cô có vẻ trẻ hơn, gần như một đứa trẻ. Cô ngồi trên ghế băng, bất động, gương mặt được ống đèn nê ông của phòng xử án chiếu sáng. Khuôn miệng nhỏ, mím chặt, da mặt kéo căng ra vì búi tóc đen. Ai đó đã đọc lời chứng của cô bằng tiếng Anh, còn cô vẫn không nhúc nhích. Bốn gã nhà binh ngồi trên một ghế băng khác, cách cô vài mét, và chúng cũng không nhúc nhích. Chúng không nhìn ai, chỉ nhìn bức tường đối diện, cái bục nơi thẩm phán ngồi. Chúng thì ngược lại, tôi thấy chúng già hơn, đã phị ra vì mỡ, với nước da nhợt nhạt của những kẻ tù phạm. Tôi chưa từng kể chuyện này với Mary. Khi tôi gặp nàng tại khách sạn Phương Đông ấy, nàng hỏi tôi đã làm gì lúc rời quân ngũ. Tôi trả lời: “Không làm gì hết... Anh đi đây đi đó, vậy thôi.” Nàng không căn vặn, vả chăng tôi có lẽ chẳng bao giờ đủ can đảm để nói với nàng sự thật: “Anh đã bị kết án tù vì đã chứng kiến một tội ác, và đã không làm gì để ngăn cản tội ác đó.” Tôi muốn sống cùng Mary, đi đây đi đó cùng nàng, nghe nàng hát, san sẻ tấm thân nàng và cuộc đời nàng. Nếu tôi kể với nàng toàn bộ chuyện kia, hẳn là nàng sẽ xua đuổi tôi. Tôi đã sống cùng nàng một năm, cho tới khi đến hòn đảo này. Rồi một ngày nọ nàng đã quyết định đi vào lòng biển. Tôi chưa bao giờ hiểu được. Chúng tôi ẩn mình. Không ai quen biết chúng tôi, không ai có thể kể cho nàng nghe. Có lẽ nàng điên, chỉ vậy thôi, có lẽ chẳng có lời giải thích nào cho hành động của nàng. Nàng đã tự để sóng cuốn đi. Nàng vốn là tay bơi giỏi khác thường. Ngày còn ở Mỹ, năm mười sáu tuổi, nàng được chọn đi dự Olympic Melbourne. Nàng mang họ Farrell, Mary Song Farrell. Song bởi nàng được bố mẹ nuôi nhận về dưới cái tên này. Mẹ đẻ nàng tên là Song cũng nên. Hoặc giả bà ấy hay hát*, tôi không biết nữa. Có lẽ chính tôi về sau này đã suy diễn ra toàn bộ câu chuyện đó. Tôi không suy diễn cho những người khác, họ không khiến tôi bận tâm. Tôi không phải kiểu người kể chuyện đời mình trong những quán bar. Tôi không quen những người gốc Arkansas này, những người nhà Farrell này. Những chủ trang trại. Mary học cách chăm sóc gia súc, cách sửa xe máy, cách lái máy kéo tại nhà họ. Rồi một ngày nọ, năm mười tám tuổi, nàng bay đi để tới nơi khác sống, để hát. Đó là thiên hướng của nàng. Nàng đã có một cuộc sống khác, nàng chưa bao giờ trở lại trang trại. Khi nàng mất tích trên biển, tôi đã cố gắng liên lạc với bố mẹ nàng, tôi đã viết vài lá thư gửi đến quận, để biết địa chỉ của họ. Tuyệt không thấy hồi âm. Khi tôi quen Mary, nàng gần bốn mươi, nhưng có vẻ trẻ hơn tuổi nhiều. Bấy giờ tôi hai mươi tám. Tôi vừa mãn hạn tù. Bão truyền sang tôi cơn thịnh nộ. Tôi cần những tiếng ó biển của bão, những ống bễ lò rèn của bão. Chính vì bão mà tôi quay trở lại hòn đảo này. Bấy giờ, mọi thứ khép kín, mọi người mất hút trong nhà của họ, họ đóng cửa chớp và chặn cửa ra vào, họ thu lu trong vỏ ốc, trong lớp mai của mình. Họ cũng đã biến mất, những du khách mặt bự phấn, những kiểu tạo dáng, những điệu bộ, những trò õng ẹo của họ. Những cô gái mặc quần soóc cực ngắn đạp xe, những cậu trai cưỡi mô tô địa hình, những cặp kính Polaroid, những ba lô, máy ảnh, họ đã quay về thành phố, về những tòa chung cư, về xứ sở không bao giờ có bão của họ. Người dân đảo này đã tự chôn mình. Họ chơi bài, họ ngồi bệt trong những căn hầm với cửa kính mờ hơi nước mà uống bia. Ánh điện chập chờn, chẳng mấy chốc sẽ cắt điện trên diện rộng. Tủ cấp đông của các cửa hàng sẽ rỉ thứ nước vàng như nước tiểu, những con cá ướp muối sẽ chảy nước và long mắt, những thanh sô cô la đông lạnh sẽ mềm nhũn trong bao bì. Chính vì bão mà tôi quay trở lại. Tôi lại cảm thấy mình đang trong thời chiến, trong rủi may, theo cuộc bỏ chạy tán loạn của các đoàn quân, nghe những chiếc loa thét lác những mệnh lệnh khó hiểu. Tôi ngược dòng thời gian, dựng lại đời mình. Tôi những muốn quay trở lại ngưỡng cửa ngôi nhà ở Huế, nhìn, và cái nhìn của tôi sẽ ngưng thời gian lại, sẽ gieo mơ hồ lẫn lộn, sẽ giải thoát người đàn bà khỏi những kẻ hành hạ cô. Nhưng trong những điều tôi biết sẽ không có điều gì nhạt nhòa đi. Hòn đảo là sự đoan chắc về nỗi vô phương cứu chuộc. Bằng chứng của sự bất lực. Hòn đảo là ụ nổi cuối cùng, bến đỗ cuối cùng trước hư không. Chính vì điều này mà tôi trở lại. Không phải để tìm lại quá khứ, không phải để đánh hơi tìm lối như một con chó. Mà để chắc chắn rằng mình sẽ không nhận ra điều gì. Để bão xóa đi tất cả, vĩnh viễn, bởi biển là chân lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Bão của tác giả J. M. G. Le Clézio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mở Mắt Trời Vẫn Xanh
Cuốn sách kể về cuộc sống của Russell Ammiano bị đảo lộn hoàn toàn sau vụ khủng bố 11/09. Hôm đó là 1 ngày kinh hoàng,  bắt đầu bằng việc muộn giờ một cuộc họp quan trọng; rồi anh nhận được điện thoại báo tin mẹ mình đột ngột qua đời; và Russell cần thu xếp về quê ngay lập tức để chăm sóc cho người anh trai bị bại não; sau đó, anh tận mắt chứng kiến cảnh tòa nhà nơi anh làm việc bị khủng bố, và tất cả bạn bè đồng nghiệp cũng như công ty anh đều bị vùi sâu dưới đống đổ nát. Cuốn sách xoáy sâu vào tâm lý xã hội Mỹ sau vụ khủng bố kinh hoàng ấy. Khủng hoảng tinh thần, kì thị người Hồi giáo... Loay hoay trong nỗi ám ảnh; mất mát, lại phải lo toan cuộc sống cho người em trai mắc bệnh bại não, Russell Ammiano đã có lúc tưởng như gục ngã. May sao, cô gái  Anat Nazir xuất hiện và chính tình yêu đã giúp Russell học được cách xây dựng lại cuộc đời mình từ con số Không. Đây là một cuốn sách gây tiếng vang tại quê nhà, và chắc chắn với đề tài đậm chất nhân văn, Mở mắt trời vẫn xanh sẽ chạm đến nơi sâu thẳm nhất của mỗi con người - đánh thức trong họ tình yêu cuộc sống và trân trọng những giờ phút quý giá bên người thân. *** [Review] – Mở Mắt Trời Vẫn Xanh – Catherine Ryan Hyde Sau một loạt những mất mát kinh hoàng của sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ, Russell gần như bị quẳng vào vực thẳm với cái chết đột ngột của người mẹ cùng trách nhiệm chăm sóc người anh trai bị bại não. Bắt đầu một cuộc sống mới không hề dễ dàng, tại một vùng đất cũ không còn quen thuộc, với những con người gần như mới lạ, Russel sẽ phải xoay sở thế nào đây? Vào ngày 11/09/2001, một vụ khủng bố khủng khiếp đã gây chấn động toàn bộ nước Mỹ và dấy lên hàng loạt làn sóng phẫn nộ từ dân chúng. Russell, chàng nhân viên quảng cáo, đã may mắn thoát chết do muộn giờ làm nhưng lại tận mắt chứng kiến tòa tháp mình đang làm việc sụp đổ cùng với mạng sống của những người sếp, người đồng nghiệp của mình. Chưa hết, anh còn nhận được tin mẹ mình đã qua đời khiến anh phải mau chóng về lại quê nhà để chịu tang và thay mẹ chăm sóc người anh trai bị bại não của mình. Khoảng thời gian anh ở tại quê nhà với Ben, người anh trai ấy, đã gần như đẩy Russell vào tuyệt vọng khi mà nỗi ám ảnh vẫn còn, những rắc rối phát sinh, những trách nhiệm phải gồng gánh và tỷ tỷ thứ phải đối mặt khác. Nhưng định mệnh cũng không lấy đi tất cả của anh mà còn cho anh gặp gỡ Anat Nazir, một cô gái Ai Cập cũng chịu nhiều rắc rối sau sự kiện khủng bố ấy. Tình yêu, tình thương còn sót lại là ánh sáng, là động lực mới để Russell làm lại cuộc đời, viết lại một cái kết tốt đẹp hơn mà anh xứng đáng nhận lấy. Sau tất cả, “Mở mắt trời vẫn xanh”, màu xanh của hi vọng, của sự sống mới, của một khởi đầu mới dành cho Russell.  [Image: [Review] - Mở Mắt Thấy Trời Vẫn Xanh - Catherine Ryan Hyde] [Review] – Mở Mắt Thấy Trời Vẫn Xanh – Catherine Ryan Hyde Đọc hết phần đầu câu chuyện, tôi tự hỏi liệu nếu là mình, làm sao mình có thể vượt qua được quãng thời gian ấy chứ. Khi bạn chưa kịp hồi phục sau những thương tổn thì những tai ương đồng thời ập đến. Rồi những ngày sau đó, bạn còn bị “khủng bố tinh thần” bởi những người dân sinh sống xung quanh với đủ thứ rắc rối phát sinh, với những tư tưởng khá cực đoan. Chính điều đó đã dẫn đến sự xung đột giữa Russel và gia đình Nazir cũng như mối quan hệ giữa anh và Anat. Nhưng rất may, sau cùng, tác giả vẫn mở cho anh một con đường hoàn hảo, dù rằng mình mong đợi nó…bi thảm hơn một chút. Câu chuyện được kể bởi giọng văn khá mạch lạc, đầy gợi mở, lúc là giọng của Russel, lúc như của một người thứ 3 vậy. Tuy nhiên, mình thực sự chưa cảm nhận được nỗi đau tinh thần của Russel cho lắm (vì có lẽ mình mong đợi nhiều xung đột về nội tâm hơn) nhưng có lẽ câu chuyện thiên hướng về các mối quan hệ giữa người với người nhiều hơn nên mình cũng cho qua luôn. Dù vậy,truyện vẫn có những phân đoạn để thể hiện cảm xúc tích cực lẫn tiêu cực của mỗi nhân vật và những chi tiết đó cũng khá đắt giá để người đọc hiểu hơn về tâm lý nhân vật. Cách kể theo lộ trình thời gian tựa như một quyển nhật ký cũng khiến người đọc thấy lạ lẫm lúc đầu vì nó không giống văn phong khi viết nhật ký cho lắm nhưng cũng khiến người ta hứng thú hơn khi đọc sách. Càng về sau thì quay lại mạch truyện tự sự nhiều hơn cho nên mất đi vẻ “nhật ký” ban đầu khiến mình cuốn hút. Đánh giá: 7,5/10 *** Review Sách “Mở Mắt Trời Vẫn Xanh” - Câu Chuyện Nhân Văn Sau Khủng Bố 11/9 Một cuốn sách thắt ruột về một người vừa thoát chết sau sự kiện 11/9, mất mẹ ngay trong buổi sáng hôm đó và tiếp nhận một người anh không-bình-thường. Nếu bạn đã chán những cuốn truyện về tình yêu nam nữ đơn thuần, hay những cuốn sách giáo điều triết lý, thì Mở mắt trời vẫn xanh sẽ là một làn gió mới độc đáo dành cho bạn. Mở mắt trời vẫn xanh là câu chuyện kể về cuộc sống trong bốn tháng của Russell Ammiano, kể từ ngày 11/9/2001, ngày đã xoay chuyển cả cuộc đời anh. Ngủ dậy muộn, trễ mất cuộc họp quan trọng ở công ty, Russell đã tưởng rằng ngày hôm đó của anh không thể nào tệ hơn, cho đến khi nhận được điện thoại từ quê nhà thông báo: Mẹ anh vừa đột ngột qua đời, và anh cần thu xếp công việc, về quê ngay lập tức để chăm sóc cho người anh trai bị tổn thương não của mình. Mọi chuyện còn trở nên tồi tệ hơn khi Russell tận mắt chứng kiến cảnh chiếc máy bay khủng bố lao thẳng vào tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới – nơi anh đang làm việc, cũng là mục tiêu cả cuộc đời anh. Russell thực sự suy sụp. Cuộc sống mơ ước mà anh cố gắng bấy lâu trong phút chốc chỉ còn là đống đổ nát. Tất cả bạn bè của anh đều ra đi trong cuộc khủng bố. Và giờ đây, người thân duy nhất anh còn là Ben – người anh trai bị tổn thương não, có tâm trí như một đứa trẻ con. Mở mắt trời vẫn xanh là câu chuyện về cách Russell đã từng bước đối diện với thực tế đau khổ của mình, và dần dần tìm ra con đường để bước tiếp, để hướng về bầu trời xanh trước mặt. Xuyên suốt câu chuyện của nhân vật chính, tác giả Katherine Ryan Hyde đã khéo léo lồng ghép phản ứng rất thực của người dân nước Mỹ trước vụ khủng bố: có những người đồng cảm, giúp đỡ lẫn nhau, cũng có những người dè chừng hơn với người khác, và không thể không kể đến những phần tử yêu nước đến mù quáng, để sự sợ hãi và thù ghét chiếm mất lí trí mà hành động điên rồ. Tất cả những cảm xúc, tích cực lẫn tiêu cực, đều được thể hiện rất chân thực qua các nhân vật dù chỉ xuất hiện trong một thoáng chốc. Một ông chú nóng nảy bênh vực mọi điều về nước Mỹ và sẵn sàng cáu kỉnh với những người mà theo ông là không-yêu-nước; một cô gái mạnh mẽ và cá tính lên tiếng phản đối chiến tranh và những hành động trả thù; cụ bà hơn tám mươi tuổi yếu ớt và không thường giúp đỡ người khác, lại sẵn sàng cho một cậu thanh niên đi nhờ xe bởi “tôi chỉ đang cố gắng giúp đỡ thôi” – khi cậu thanh niên ấy không thể bắt nổi một chuyến bay về quê hương sau vụ khủng bố, v…v… Câu chuyện được viết theo dạng hồi ký qua từng ngày, dần hé lộ những bí mật trong quá khứ khi Russell còn nhỏ, và nguyên do khiến anh muốn chối bỏ vùng quê Norville của mình; cùng những bí mật đầy bất ngờ về một tuổi thơ không êm đẹp với người anh trai – đã từng vô cùng mạnh mẽ, lanh lợi. Giữa sự hỗn loạn của xã hội, Russell gần như lạc lối trong đống đổ nát của nước Mỹ và của chính đời mình. Nhưng rồi sau tất cả, anh vẫn tìm được cách bắt đầu lại tất cả từ con số 0, và tìm được hạnh phúc của riêng mình. Bởi vì dù thế nào, thì bầu trời vẫn luôn xanh.   Theo Bookaholic.vn Mời các bạn đón đọc Mở Mắt Trời Vẫn Xanh của tác giả Catherine Ryan Hyde & Kiệm (dịch).
London Ngày Nắng Hạ - Emily Giffin
“Một cuốn sách duyên dáng... lựa chọn hoàn hảo cho những dịp cuối tuần cuối-mùa-hạ.” - Bookworm Dù đã rời xa Dexter, Darcy vẫn bàng hoàng khi phát hiện ra mối quan hệ giữa anh và Rachel. Ý nghĩ bị hai người từng là những người quan trọng nhất đời mình phản bội choán lấy mọi suy nghĩ của cô, hút cạn niềm vui sống của cô. Mất một người bạn từ thuở ấu thơ. Mất một người yêu đã gắn bó bên cô suốt bảy năm trời. Những thứ quý giá nhất đang trôi tuột qua cô như những hạt cát trôi qua kẽ ngón tay. Thứ duy nhất có lẽ còn lấp lánh trong cuộc sống của cô là cuộc tình với Marcus. Nhưng rồi những mê đắm ban đầu cũng dần tan đi. Chấp chới. Hoang mang... Cô sang London với trái tim đầy thương tổn để tìm lại cuộc sống. Đón đợi cô nơi thành phố già cỗi ấy liệu có phải là người đàn ông và cuộc sống cô vẫn chờ mong? *** Emily Giffin (20/31972) là nhà văn nữ của Mỹ nổi tiếng với dòng tiểu thuyết “Chick Lit”, một dòng tiểu thuyết hiện đại gồm các sáng tác của các tác giả nữ, viết về giới nữ và dành cho giới nữ, bắt đầu từ giữa những năm 90. Emily Giffin đã học trung học tại trường Naperville North ở ngoại ô Chicago, nơi tác giả từng là thành viên của hội viết sáng tạo và là biên tập viên chính cho tờ báo của trường, sau đó tốt nghiệp tại trường đại học Wake Forest University và The University of Virginia. Ngoài Xúc Xắc Tình Yêu, Emily Giffin còn được biết đến với các tiểu thuyết khác như: Khao Khát Của Em, London Ngày Nắng Hạ Và Yêu Người Ở Bên Ta. *** “Tài năng của Emily trong việc tạo ra bầu không khí ấm áp và đầy thấu hiểu đã tỏa sáng trong thiên tiểu thuyết đáng mê say này.” - Hamptons magazine “Vô cùng thú vị.” - The Boston Globe “Scarlett O'Hara trong chicklit hiện đại.” - San Antonio Star-Ledger “Lối viết thông minh. Hội thoại chân thực... Emily Giffin thực sự biết mình đang làm gì.” - The Winston-Salem Journal *** Từ khi sinh ra tôi đã được trời phú cho một vẻ ngoài xinh đẹp. Tôi chào đời theo đường sinh mổ nên không gặp phải những bất lợi thường thấy với trẻ em sinh theo cách tự nhiên, đó là những vết sẹo và mái đầu không tròn trịa. Ngược lại, tôi có một chiếc mũi nhỏ xinh, cặp môi trái tim và hàng lông mày sắc sảo. Chỏm tóc loăn xoăn mọc trên đúng đỉnh đầu không dày cũng chẳng mỏng, hứa hẹn một mái tóc tuyệt đẹp và một đường chân tóc hoàn hảo sau này. Đúng vậy đấy, suối tóc mang màu cà phê của tôi dày và mượt như tơ. Sáng sáng, tôi ngoan ngoãn ngồi im để mẹ quấn tóc cho tôi bằng những lô quấn nóng và to hay tết thành bím thật cầu kỳ. Khi tôi đến lớp mầm non, mấy đứa nhóc khác trong lớp - phần lớn có kiểu tóc bát úp xấu tệ - cứ tranh nhau đặt đệm gần chỗ tôi nằm lúc ngủ trưa để thỉnh thoảng vuốt trộm chiếc đuôi gà của tôi. Chúng vui vẻ cho tôi dùng chung hộp đất nặn Play-Doh hay nhường cho tôi lượt chơi cầu trượt. Bất cứ thứ gì để được kết bạn với tôi. Lúc ấy, tôi nhận ra trên đời này có một thứ gọi là đẳng cấp, và hình thức đóng một vai trò trong nấc thang đẳng cấp ấy. Nói cách khác, ngay từ khi mới chỉ là cô nhóc ba tuổi, tôi đã hiểu rằng vẻ đẹp mang lại cho con người ta quyền lực và đẳng cấp. Bài học ấy chỉ được củng cố khi tôi lớn lên và tiếp tục giành được ngôi vị người đẹp nhất trong các cuộc thi ngày một quy mô hơn. Nữ hoàng sắc đẹp ở trường cấp hai rồi cấp ba. Nhưng khác với các nhân vật trong mấy bộ phim của John Hughes mà tôi yêu thích, sự nổi tiếng và vẻ đẹp không bao giờ biến tôi thành một kẻ xấu xa. Tôi là một kẻ độc tài rộng bụng, luôn để mắt canh chừng mấy đứa con gái đình đám khác vốn luôn cố tình lạm dụng quyền lực của mình. Tôi thách thức tất cả những hội sành điệu, luôn sống chân thành với Rachel, cô bạn thông minh thân nhất của tôi. Sự nổi tiếng của tôi đủ để tôi đặt ra luật của riêng mình. ... Mời các bạn đón đọc London Ngày Nắng Hạ của tác giả Emily Giffin.
Xúc Xắc Tình Yêu - Emily Giffin
Câu chuyện mở ra với Rachel White, một nữ luật sư trẻ sống và làm việc ở Manhattan, bạn gái thân của nữ PR tên Darcy. Vào một tối sau khi uống quá nhiều, Rachel lên giường cùng với chồng chưa cưới của Darcy. Khi tỉnh dậy, cô sợ hãi phát hiện ra rằng mình đã thực sự dành tình cảm cho người đàn ông mà lẽ ra cô không nên lại gần. Tuy luôn bị vây bủa bởi mặc cảm tội lỗi nhưng tất cả không chỉ dừng lại ở mối tình một đêm như Rachel đã nghĩ, cô càng lúc càng dấn sâu hơn vào mối quan hệ vụng trộm nhưng ngọt ngào và mê đắm hơn bất cứ tình cảm nào cô đã từng trải qua trong đời. Khởi đầu giống như một "sự cố ngoài ý muốn", nhưng những lần gặp gỡ không thể tránh khỏi sau đó khiến hai người nhận ra, họ đã thuộc về nhau chính từ giây phút đầu tiên ấy... Giữa tình bạn lâu năm với Darcy và tình yêu ngọt ngào với Dex - hai mối quan hệ có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc đời Rachel, cô phải lựa chọn. Chỉ đến lúc này, cô mới thấm thía nhiều điều: “Hạnh phúc không thể đến từ trò xúc xắc may rủi mà do chính mình tạo ra. Đôi khi, chấp nhận mạo hiểm để có được điều mong muốn cũng đồng nghĩa với việc sẽ để mất một thứ khác, mà những điều đem ra để mạo hiểm càng đáng giá thì mất mát có thể sẽ còn lớn hơn rất nhiều lần." Và với Rachel, ranh giới phải trái trong cuộc đời đã bị xóa nhòa, kết cục nhiều khi không còn trong dự tính.... Xúc Xắc Tình Yêu có tên gốc là Something Borrowed, được dựng thành phim cùng tên vào năm 2011 bởi đạo diễn Luke Greenfield. Các diễn viên chính gồm Kate Hudson, Ginnifer Goodwin và Colin Eaglesfield. *** Emily Giffin (20/31972) là nhà văn nữ của Mỹ nổi tiếng với dòng tiểu thuyết “Chick Lit”, một dòng tiểu thuyết hiện đại gồm các sáng tác của các tác giả nữ, viết về giới nữ và dành cho giới nữ, bắt đầu từ giữa những năm 90. Emily Giffin đã học trung học tại trường Naperville North ở ngoại ô Chicago, nơi tác giả từng là thành viên của hội viết sáng tạo và là biên tập viên chính cho tờ báo của trường, sau đó tốt nghiệp tại trường đại học Wake Forest University và The University of Virginia. Ngoài Xúc Xắc Tình Yêu, Emily Giffin còn được biết đến với các tiểu thuyết khác như: Khao Khát Của Em, London Ngày Nắng Hạ Và Yêu Người Ở Bên Ta. *** “Cuốn hút người đọc qua từng trang, chân thực đến nao lòng... Không sa vào những tình tiết thường thấy trong các tiểu thuyết dành cho phái nữ, Giffin khéo léo đắp xây nên những niềm hy vọng sau một sự cố không dễ cảm thông.” —Entertainment Weekly “Có ai tự nhận mình ‘tử tế’ mà lại lên giường với chồng chưa cưới của bạn thân nhất? Đó hẳn là một con người vô cùng xấu xa hư hỏng, nhưng đồng thời cũng thật hấp dẫn và chân thực đến lạ kỳ, giống như nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đầu tay thú vị này.” —Glamour “Những nhân vật rất thực, và vì thế thật gần gũi... Cuốn sách miêu tả cho bạn thấy bước sang tuổi ba mươi còn độc thân trong thành phố là như thế nào, khi cuộc sống của bạn phần lớn xoay quanh các mối quan hệ bạn bè, tình yêu, đi kèm với nó là những rắc rối, ganh đua và những niềm hy vọng vào một cái kết hạnh phúc mãi mãi.” —San Francisco Chronicle “Một câu chuyện cổ tích thời hiện đại... bất cứ cô gái nào từng là một cô dâu khó tính, thích sự hoàn hảo cũng phải bật cười thích thú.” —Time Out New York "Ngòi bút thật hài hước và sâu sắc... Có lẽ những gì bạn từng nghĩ về tình bạn - những bổn phận, ganh đua âm thầm, những gì bạn cho và nhận - sẽ không bao giờ còn giống như trước kia nữa." —The Seattle Times "Một đôi mắt tinh tế sắc sảo và một ngòi bút tuyệt vời." —Newark Star-Ledger "Lời đối thoại rất đắt, những rắc rối vô cùng đời thường, đem lại cảm giác thật ấm áp." —Sarasota Herald-Tribune "Sự chăm chút tỉ mỉ đến từng chi tiết và tình yêu dành cho các nhân vật nữ chính của Giffin khiến Xúc xắc tình yêu trở thành cuốn sách rất đáng đọc... không đơn thuần là cuộc đua tranh tìm kiếm tình yêu đầy ích kỷ mà hơn thế nữa, nó đưa đến cho người đọc một cái nhìn có phần mang tính phê phán về những mối quan hệ của phái nữ." —Ripsaw Magazine "Xúc xắc tình yêu là cuốn tiểu thuyết tuyệt vời; ở nó có một chiều sâu cảm xúc hiếm thấy." —Valerie Frankel, tác giả The Accidental Virgin và The Not-So-Perfect Man *** Hôm nay là thứ Bảy, ngày lẽ ra Darcy và Dex sẽ tổ chức đám cưới. Tôi đang ngồi cùng Dex ở quán 7B, quán bar nơi tất cả mọi chuyện bắt đầu vào đêm trước ngày sinh nhật lần thứ ba mươi của tôi. Chúng tôi vẫn ngồi ở đúng chỗ cũ. Ý tưởng quay lại nơi này là do tôi nghĩ ra. Tôi vốn chỉ nói đùa thôi, nhưng thực sự trong tôi có một khao khát mạnh mẽ muốn trở lại, muốn nhớ lại những gì tôi đã cảm nhận trước khi mọi chuyện bắt đầu. Tôi muốn hỏi Dex tối nay anh có thấy nuối tiếc gì không, nhưng thay vào đó tôi lại kể cho anh nghe về Les - chuyện hắn đã mắng tôi sa sả ở hành lang vì không nêu trích dẫn trong bản nháp hồ sơ vụ án. “Tên đó giống như một kẻ suốt ngày cáu kỉnh ấy nhỉ... Em làm việc với người khác không được à?” “Không được. Em là nô lệ của riêng hắn. Hắn toàn quyền sử dụng thời gian của em, giờ thì những đồng nghiệp khác cũng chẳng dám sai em làm việc của họ vì chắc chắn Les sẽ lợi dụng chức quyền của hắn để khiến cho họ phải khốn đốn. Em không thoát khỏi hắn được.” “Đã bao giờ em nghĩ đến việc chuyển sang công ty khác chưa?” “Cũng thỉnh thoảng. Thực ra hôm nay em bắt đầu chuẩn bị lại bản lý lịch rồi. Có lẽ em bỏ hẳn ngành luật, cho dù chẳng biết mình sẽ làm gì.” “Em sẽ làm tốt được trong nhiều việc thôi,” Dex nói, gật đầu tin tưởng. Tôi thêm “biết thông cảm, động viên người khác” vào danh sách những điều tôi thích ở anh. Tôi cân nhắc xem có nên nói với anh về ý định tạm thời đến sống ở London hay không, tự hỏi liệu anh có đi cùng mình. Nhưng tối nay không thích hợp để nói về điều đó. Chúng tôi đã có đủ những chuyện thầm kín khó nói khác rồi. Chắc chắn anh đang nghĩ đến Darcy, đang tự hỏi những câu Nếu như? Sao lại không chứ? “Em ra máy phát nhạc bật vài bài đây,” tôi nói. ... Mời các bạn đón đọc Xúc Xắc Tình Yêu của tác giả Emily Giffin.
Xác Thịt Về Đâu - Samuel Butler
Ernest Pontifex sinh ra trong một đại gia đình và đã bắt đầu cuộc sống bằng sự trung thành tuyệt đối với gia đình mình. Ở tuổi bắt đầu trưởng thành, anh tuân ý người cha độc đoán theo đuổi việc học hành với ý định trở thành một mục sư. Nhưng cuộc sống được sắp xếp trước này không suôn sẻ; cuộc đời Ernest trải qua nhiều thăng trầm, bao gồm cả việc vỡ mộng với các tín điều tôn giáo, vào tù, bị cha mẹ từ bỏ, nghèo khó, bị vợ phản bội, ốm đau, bị lừa dối… trước khi có thể trở thành một con người độc lập, sống cuộc đời mình. Là cuốn tiểu thuyết có tính phá vỡ khuôn mẫu các tiểu thuyết đạo đức thời Victoria, Xác Thịt Về Đâu mổ xẻ cuộc sống của bốn thế hệ nhà Pontifex; đồng thời cho chúng ta thấy những mẫu số chung trong cuộc sống gia đình và trong đời người. Samuel Butler viết: “… Khi về già… chúng ta biết rằng cuộc sống chủ yếu là những hù dọa nhau hơn là những tổn thương thật sự.” Quả thật, những trò vè mà con người ta, nhất là người trong gia đình, dùng để hành hạ nhau nhiều khi chỉ xuất phát từ sự hù dọa và khẳng định quyền lực cá nhân một cách vô thưởng vô phạt, nhưng đôi khi để đi đến chỗ hiểu ra điều đó, chúng ta mất cả một đời. *** Bạn đã bao giờ thử nghĩ về các thế hệ trong đại gia đình của mình và tự hỏi: tại sao ông mình suốt đời chỉ là một người thợ lặng lẽ dù ông rất giỏi, tại sao cha mình lúc nào cũng rao giảng đạo đức và ép mình phải đi theo nghề của cha, tại sao mẹ mình nhẫn nhục chịu đựng cha đến mức tự biến mình thành một người đàn bà giả trá, chao chát; tại sao các cô chú, cậu mợ và anh chị em họ của mình trở thành những người như họ đã trở thành... Và tại sao tất cả những cá thể người riêng rẽ, dường như hoàn toàn khác biệt này lại dính chặt với nhau trong cái liên kết gọi là “gia đình”, mà ở đó sự hành hạ lẫn nhau có khi còn nhiều hơn tình thương yêu? Trong cuốn tiểu thuyết kinh điển Xác thịt về đâu của Samuel Butler, Ernest Pontifex sinh ra trong một đại gia đình và đã bắt đầu cuộc sống bằng sự trung thành tuyệt đối với gia đình mình. Ở tuổi bắt đầu trưởng thành, anh tuân ý người cha độc đoán theo đuổi việc học hành với ý định trở thành một mục sư. Nhưng cuộc sống được sắp xếp trước này không suôn sẻ; cuộc đời Ernest trải qua nhiều thăng trầm, bao gồm cả việc vỡ mộng với các tín điều tôn giáo, vào tù, bị cha mẹ từ bỏ, nghèo khó, bị vợ phản bội, ốm đau, bị lừa dối... Trước khi có thể trở thành một con người độc lập, sống cuộc đời mình. Là cuốn tiểu thuyết có tính phá vỡ khuôn mẫu các tiểu thuyết đạo đức thời Victoria, Xác thịt về đâu mổ xẻ cuộc sống của bốn thế hệ nhà Pontifex; đồng thời cho chúng ta thấy những mẫu số chung trong cuộc sống gia đình và trong đời người. Samuel Butler viết: “... Khi về già... Chúng ta biết rằng cuộc sống chủ yếu là những hù dọa nhau hơn là những tổn thương thật sự.” Quả thật, những trò vè mà con người ta, nhất là người trong gia đình, dùng để hành hạ nhau nhiều khi chỉ xuất phát từ sự hù dọa và khẳng định quyền lực cá nhân một cách vô thưởng vô phạt, nhưng đôi khi để đi đến chỗ hiểu ra điều đó, chúng ta mất cả một đời. Ngô Bảo Châu & Phan Việt   *** CÁNH CỬA MỞ RỘNG   Tủ sách hợp tác giữa nhà toán học Ngô Bảo Châu, nhà văn Phan Việt với Nhà xuất bản Trẻ   Tủ sách CÁNH CỬA MỞ RỘNG được thực hiện nhằm mục đích giới thiệu những đầu sách có giá trị của thế giới và trong nước đến bạn đọc Việt Nam, đặc biệt là bạn đọc trẻ, góp phần thúc đẩy việc đọc sách, tinh thần hiếu học, coi trọng tri thức và những giá trị sống. Các tựa sách trong tủ do nhà toán học Ngô Bảo Châu và nhà văn Phan Việt tuyển chọn và giới thiệu. Tủ sách được phân thành ba mảng: văn học, khoa học xã hội – kinh tế, và khoa học tự nhiên; trước mắt cấu tạo tủ sách gồm 80% các sách có khả năng tiếp cận đông đảo bạn đọc và 20% cho các sách chuyên ngành. Mời các bạn đón đọc Xác Thịt Về Đâu của tác giả Samuel Butler.