Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng - K. G. Paustovsky

K. G. Paustovsky (1892 – 1968) là một trong những nhà văn Nga xuất sắc nhất của thế kỷ hai mươi, mang tầm vóc quốc tế. Những tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và được bạn đọc khắp năm châu vô cùng ngưỡng mộ. Chính vì vậy ông đã từng được đề cử để trao giải Nôben về văn học.  Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn Nga, Paustovsky đã làm cho bạn đọc và giới phê bình chú ý, bởi một giọng văn hết sức độc đáo giàu chất thơ đến mức nồng nàn, càng đọc càng thấm thía sâu xa về cuộc đời, về những nét rung động tinh tế nhất của tâm hồn trước tình người hồn hậu, trước thiên nhiên Nga bình dị mà tráng lệ và vô cùng quyến rũ. Tác phẩm của Pauxtốpki có một ma lực khổng lồ quyến rũ bạn đọc đến với những điều tưởng chừng nhỏ nhặt mà ẩn giấu trong đấy bao ý nghĩa lớn lao về cuộc đời. Người ta thường gọi ông là nhà thơ bị đóng đinh trên cây thánh giá của văn xuôi. Văn của ông là tiếng nói tâm hồn nồng cháy đến mức tột cùng của ông đối với Tổ quốc Nga Xô Viết.  Từ xưa tới nay khi viết truyện ngắn hay tiểu thuyết, các nhà văn đều chú ý đến việc xây dựng cốt truyện sao cho hấp dẫn. Riêng truyện ngắn và truyện vừa của Paustovsky lại không chú ý đến cốt truyện, mà đọc lại rất hấp dẫn. Ông viết truyện theo cốt cách và bút pháp của một nhà thơ, tiêu biểu như tác phẩm “Bông hồng vàng”. *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó – một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva – tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng… Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị…, tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. * * * Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: “Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn”. Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn – trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem – tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại “Chú Bé Chăn Bò”, “Gió Biển”, “Chuyến Xe Đêm”, “Người Đầu Bếp Già”… Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người – nhân vật chính – mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái “hư” trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: “Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi”. “Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu”. “Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi”. “Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó.” Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự – một bầu trời sống – với muôn vàn vì sao lấp lánh. “Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó”. Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài “Những Kẻ Lãng Mạn”, “Những Vầng Mây Lấp Lánh”, mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: “Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng”… “Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế”… “Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống “thô thiển” và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn… Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn.” Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng “hiện thực xã hội chủ nghĩa” muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp.3 Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài “Thơ Của Văn Xuôi” đăng trong tạp chí “Ngọn Cờ” (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. “Bông Hồng Vàng” ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí “Tháng Mười”(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết (“Bông Hồng Vàng” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương “Ngôn Ngữ Kim Cương” và “Những Cuốn Từ Điển”. Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu… của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong “Bông Hồng Vàng”, sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch “Bông Hồng Vàng”, tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi tế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trại Hoa Vàng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Học đường Trại Hoa Vàng của tác giả Nguyễn Nhật Ánh. Trại hoa vàng là một truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, được xuất bản năm 1994. Với chủ đề tình yêu tuổi ô mai, với giọng văn hóm hỉnh, hài hước, kể về những việc làm, lời nói ngây ngô của tuổi học trò nhưng cũng đầy ý nghĩa, nói lên thứ tình cảm trong sáng có thể khiến người ta thay đổi bản thân mình, đó là tình yêu. Truyện đã được đăng dài kỳ trên báo Mực Tím. Câu chuyện xoay quanh Chuẩn – một cậu học sinh trong giai đoạn thanh thiếu niên và không thông minh lắm, thường bị gọi là “thằng đầu bò” nhưng lại có thú chơi hoa – cậu học tại trường cấp 2 nổi tiếng tại thị trấn với toàn học sinh dở. Nhưng thật bất ngờ, cậu thi đậu vào trường cấp 3 Trần Cao Vân chứa hầu hết là học sinh giỏi với sự ngạc nhiên, sửng sốt và vui mừng của gia đình. Chuẩn gặp được một nhóm “nữ quái” lớp 10A2 gồm: “Liên móm”, Thùy Dương và Cẩm Phô. Trong đó có Cẩm Phô là một cô gái hiền lành, dễ thương bảo vệ cậu khỏi những câu trêu chọc của “Liên móm”. Nhờ vào hai người bạn thân “Phú ghẻ” và Cường từ cấp 2, Chuẩn và Cẩm Phô trở thành một cặp. Dần dần, cậu cũng kết thân với “Liên móm” và Thùy Dương. Chuẩn là một học sinh lớp 10, rất yêu thích hoa, sống trong một thị trấn yên bình tại miền Nam Việt Nam. Nhà cậu gồm có ba, mẹ và nhỏ em gái tên Châu. Ba cậu là người rất nghiêm khắc và dữ dằn, mỗi khi cậu bị điểm kém thì sẽ bị ông đá vào hạ bàn. Có vài lần Chuẩn ăn cắp tiền của mẹ để đi mua hoa về trồng, đến khi mọi chuyện bại lộ thì cậu bị ba đánh đòn một trận. Ba Chuẩn mua một chiếc xe đạp rất đẹp nhưng không cho cậu chạy, ông hứa sẽ giao nó cho cậu với điều kiện cậu phải thi đậu vào trường Trần Cao Vân. Nhà Chuẩn bên cạnh nhà của nhỏ Thảo, cô bé hàng xóm dễ thương có tình cảm với Chuẩn, thường qua nhà giúp Chuẩn tưới cây làm vườn. Chuẩn không ngờ có ngày cậu được điểm cao vào trường Trần Cao Vân, ba cậu lấy tiền tiết kiệm ra đãi tiệc bà con trong khu vực để mừng việc con trai ông thi đậu. Chiếc xe đạp thuộc về Chuẩn, bạn bè cậu gọi nó là chiếc “Huy chương vàng” và cho bạn bè mượn chạy khắp thị trấn. Chuẩn có hai người bạn thân là “Phú ghẻ” và Cường. Phú ghẻ cũng học bên trường Trần Cao Vân trong khi Cường học bên trường Huỳnh Thúc Kháng. Vì nhà nghèo không có tiền mua quần áo mới nên mẹ Chuẩn phải chỉnh sửa lại quần cũ của bà cho cậu mặc đi học. Cái quần có miếng vá hình tam giác trên mông khiến Chuẩn xấu hổ, cậu không muốn ai thấy điểm nhạy cảm này. Trong lúc chào cờ, miếng vá trên quần Chuẩn bị mọi người nhìn thấy, họ gọi miếng vá đó là “tam giác Béc-mu-đa”. Chuẩn thường bị chọc ghẹo bởi “Liên móm”, bạn thân của Cẩm Phô và Thùy Dương. Liên móm chọc ghẹo Chuẩn trong khi Cẩm Phô đứng ra bênh vực cậu. Từ đó Chuẩn nhớ nhung và đem lòng yêu Cẩm Phô dù chưa thấy mặt cô. Cẩm Phô là con gái của hai vợ chồng chủ tiệm thuốc tây Hồng Phát, một trong ba nhà giàu nhất thị trấn, đặc biệt là nhà cô sát bên nhà Phú ghẻ. Chuẩn tình cờ gặp Cẩm Phô khi qua tìm Phú ghẻ, không may xe đạp của Cẩm Phô bị hỏng nặng sau cú tông của Chuẩn. Chuẩn càng vui mừng hơn khi biết Cẩm Phô cũng có tình cảm với mình. Ba mẹ của Cẩm Phô nghiêm khắc và dữ dằn hơn cả ba Chuẩn, không người bạn nào dám đến nhà Cẩm Phô. Một lần Chuẩn đánh liều đi thẳng vào tiệm thuốc để gặp Cẩm Phô, nhưng ba Cẩm Phô bất ngờ xuất hiện khiến Chuẩn phải giả vờ là người mua thuốc để rút lui. Biết được chỉ có một mình Cường mới có thể đến nhà Cẩm Phô để gặp thằng Luyện – em trai cô, Chuẩn phải nhờ Cường gửi tín hiệu hẹn hò cho Cẩm Phô. Chuẩn và Cẩm Phô bắt đầu hẹn hò ở quán chè Bà Thường. Chuẩn mua một cây đàn guitar, nhờ Phú ghẻ tập cho cậu đàn để có thể hát cho Cẩm Phô nghe. Nhỏ Châu và nhỏ Thảo là hai khán giả nghe Chuẩn đàn “thử nghiệm”, nhỏ Châu thấy buồn chán trong khi nhỏ Thảo cực kỳ thích, luôn luôn khen ngợi Chuẩn. Mãi mê tập đàn mà không quan tâm đến việc học ở trường, Chuẩn bị điểm kém khiến ba cậu nổi giận vô cùng. Ba cậu đã xé cuốn sách học đàn, đồng thời đập vỡ cây đàn của cậu. Một ngày nọ, Liên móm đem chuyện hẹn hò ở quán chè ra chọc ghẹo Chuẩn. Chuẩn nghi ngờ Phú ghẻ đã làm lộ chuyện hẹn hò của mình, nhưng thật ra thủ phạm chính là Cường. Cường giải thích rằng cậu kể chuyện hẹn hò của Chuẩn cho Thùy Dương nghe, rồi Thùy Dương kể lại với Liên móm. Liên móm liên tục chọc ghẹo Chuẩn khiến cậu buồn bã vô cùng. Chuẩn đem chuyện này tâm sự với Cẩm Phô và đòi chia tay, nhưng Cẩm Phô đề nghị cả hai đổi chỗ hẹn hò, từ quán chè chuyển qua nhà chị Cẩm Phiêu – chị gái của cô. Cả hai sẽ hẹn hò dưới vỏ bọc học chung để đảm bảo an toàn cho cuộc tình này. Phú ghẻ tiết lộ rằng Cẩm Phô học cực kỳ yếu và từng bị ở lại lớp, điều này càng khiến Chuẩn hoang mang hơn vì cậu và Cẩm Phô đều học yếu thì rất khó học chung. Nếu muốn học chung thì Chuẩn chỉ còn một lựa chọn duy nhất là phải giỏi hơn Cẩm Phô để có thể chỉ dạy cô. Từ đó Chuẩn cố gắng học chăm chỉ hơn, làm gia đình cậu bất ngờ, ba mẹ cậu vui lòng hơn. Chuẩn và Cẩm Phô bắt đầu gặp nhau tại nhà chị Cẩm Phiêu. Thời gian đầu dạy Cẩm Phô, Chuẩn thường la mắng lớn tiếng khiến cô nổi giận nói câu “tam giác Béc-mu-đa”, nhưng sau đó cô gửi thư xin lỗi Chuẩn. Cả hai tiếp tục học chung, lần này Chuẩn đã biết rút kinh nghiệm, giảng dạy bạn gái một cách nhẹ nhàng hơn. Từ khi Chuẩn cho Liên móm mượn cuốn sách thì cô không còn chọc ghẹo cậu nữa, ngược lại còn đối xử rất tốt với cậu. Nhờ có Chuẩn dạy mà Cẩm Phô trở thành học sinh giỏi, còn bản thân Chuẩn trở thành học sinh xuất sắc. Ba Cẩm Phô đã biết chuyện cả hai học chung, ông rất hài lòng vì Chuẩn đã giúp con gái ông học hành tiến bộ hơn. Chuẩn ngày càng hạnh phúc bên Cẩm Phô, Cường và Thùy Dương đã thành một đôi, còn Phú ghẻ và Liên móm có thể cũng sắp yêu nhau. Gần đến Tết Nguyên Đán, Chuẩn đem hoa đi bán kiếm được kha khá tiền, dự định mua quần áo mới cho nhỏ Châu và nhỏ Thảo, điều này làm nhỏ Thảo vừa vui vừa ngượng. Một ngày kia, Chuẩn bất ngờ khi thấy bạn bè đến nhà mình, nhóm bạn đầy đủ gương mặt quen thuộc như Phú ghẻ, Cường, Cẩm Phô, Thùy Dương, Liên móm và Luyện. Nhóm bạn biết Chuẩn có vườn hoa rất đẹp nên muốn đến xem thử. Ba Chuẩn kêu cậu vào trong nhà, cứ tưởng ông sẽ cho cậu một trận đòn vì tội rước bạn vào nhà, ngờ đâu ông tặng cho cậu cây đàn guitar mới. Được bạn bè đề nghị, Chuẩn đàn cho họ nghe và tặng cho mỗi người một cành hoa, riêng Cẩm Phô được cậu tặng một bó hoa hồng tươi thắm. Khi tặng hoa cho Cẩm Phô, Chuẩn nhìn qua nhà nhỏ Thảo thì thấy nhỏ Thảo chạy vụt vào trong nhà. *** Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trại Hoa Vàng của tác giả Nguyễn Nhật Ánh Trại Hoa Vàng là một cuốn tiểu thuyết ngắn gọn, nhẹ nhàng nhưng lại mang đến nhiều ý nghĩa sâu sắc. Câu chuyện kể về tình yêu tuổi học trò ngây ngô, trong sáng của Chuẩn và Cẩm Phô. Tuy nhiên, tình yêu của họ cũng gặp phải những thử thách, trắc trở, nhưng cuối cùng họ đã vượt qua tất cả và đến được với nhau. Câu chuyện được kể bằng giọng văn hóm hỉnh, hài hước của Nguyễn Nhật Ánh. Tác giả đã khắc họa thành công những nhân vật tuổi học trò với những suy nghĩ, hành động ngây ngô, đáng yêu. Chuẩn là một cậu học sinh học kém nhưng lại rất yêu hoa. Cậu có một tình yêu đơn phương với Cẩm Phô, một cô gái xinh đẹp, giỏi giang. Cẩm Phô cũng có tình cảm với Chuẩn, nhưng vì gia đình nghiêm khắc nên cô không dám công khai. Câu chuyện đã mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái, nhưng cũng khiến người đọc phải suy ngẫm về tình yêu tuổi học trò. Tình yêu tuổi học trò là thứ tình cảm trong sáng, hồn nhiên nhất. Nó có thể khiến con người ta thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn. Một số điểm nổi bật của tiểu thuyết Trại Hoa Vàng Câu chuyện được kể bằng giọng văn hóm hỉnh, hài hước, mang đậm dấu ấn phong cách của Nguyễn Nhật Ánh. Các nhân vật được khắc họa sinh động, chân thực, đặc biệt là những nhân vật tuổi học trò với những suy nghĩ, hành động ngây ngô, đáng yêu. Câu chuyện mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái, nhưng cũng khiến người đọc phải suy ngẫm về tình yêu tuổi học trò. Đánh giá chung Trại Hoa Vàng là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại học đường. Câu chuyện nhẹ nhàng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thực. Mời các bạn mượn đọc sách Trại Hoa Vàng của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Mùa Thu Lá Bay
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Lãng mạn Mùa Thu Lá Bay của tác giả Quỳnh Dao. Tóm tắt Mùa Thu Lá Bay là một tiểu thuyết lãng mạn của tác giả Quỳnh Dao, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1966.  Review Mùa Thu Lá Bay là một câu chuyện tình yêu đầy đau khổ và bi kịch. Tuy nhiên, câu chuyện cũng mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đánh giá Mùa Thu Lá Bay là một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy đau khổ và bi kịch. Câu chuyện mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đây là một câu chuyện đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại ngôn tình. Về mặt nghệ thuật, Mùa Thu Lá Bay được viết bằng một văn phong lãng mạn, sâu lắng. Quỳnh Dao đã rất thành công trong việc khắc họa tâm lý nhân vật, đặc biệt là tâm lý của những người đang yêu. Câu chuyện cũng có nhiều tình tiết bất ngờ, hấp dẫn, khiến người đọc không thể rời mắt. Tuy nhiên, Mùa Thu Lá Bay cũng có một số hạn chế. Câu chuyện có quá nhiều nhân vật, khiến cho mạch truyện đôi khi bị rối. Ngoài ra, kết thúc của câu chuyện cũng có phần hơi vội vàng, chưa được giải quyết thỏa đáng. Nhìn chung, Mùa Thu Lá Bay là một tiểu thuyết lãng mạn đáng đọc. Câu chuyện mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thực, sâu sắc về tình yêu và cuộc sống. *** Một buổi chiều mùa đông tại thị xã Đài Bắc. Mẫn Vân Lâu thẩn thờ lê bước. Mưa rơi trên mái tóc, trên mặt, trên áo, thấm qua làn vải tê buốt thịt da. Những bước chân hoang bật định, chàng không muốn nghĩ đến bất cứ một cái gì! Những vũng nước dưới chân, những chiếc xe phóng vút qua, tiếng còi, tiếng người chửi rửa... Mặc, đầu óc chảng bây giờ là một khoảng trốn tối mò! Gió rít bên tai, ánh đèn màu chói chang trước mắt... Tất cả đều vô nghĩa trước một bóng dáng, một tiếng gọi buồn buồn Hàn Ni và tiếng dương cầm không bao giờ dứt... Đôi tay thon gầy trắng xanh khẽ nhấn phím đàn, âm thanh trong sáng nhẹ nhàng, nhạc khúc "Người Thợ Rèn" của Handel. "U Mặc Khúc" của Tchaikovsky, "Người Thiếu Nữ Tóc Nâu" của Debussy, và "Bi Khúc" của Mozart... Những âm thanh lúc vội vã, lúc trầm buồn, khi mơ mộng, như khuân mặt của Hàn Ni, như tiếng hát, như những lời thì thầm tình tự Hàn Ni, Hàn Ni! Những âm thanh hổn dộn, những tiếng gọi mời, những lời thương nhớ chất ngất Hàn Ni! Mẫn Vân Lâu cắn môi, bao âm thanh hỗn dộn như xoắn lấy óc chàng, Hàn Ni! Hàn Ni! Vân Lâu đụng vào một người khách qua đường. Lập tức có tiếng hét bên tai chàng: - Có say chưa mà đi đứng chẳng trông thấy ai hết vậy! Đúng, Vân Lâu có uống rượu thật, nhưng chàng thấy mình đâu có say. Ta chưa say mà, hình bóng của Hàn Ni vẫn ngời ngời trong trí ta mà! Hàn Ni, Hàn Ni, Hàn Ni em! Vân Lâu loạng choạng bước, chàng không còn thiết đến gì ngoài tiếng gọi tuyệt vọng như vang bên tai. Hàn Ni! Hàn Ni! Hai ngọn đều thật sáng, rồi có tiếng xe thắng gấp. Vân Lâu ngỡ ngàng đứng lại, nhìn vào xe, tên tài xế này lải nhải cái gì thế? Mặc, ta không cần nghe, không cần biết, vì đầu óc chàng ngập đầy bóng dáng Hàn Ni và tiếng đàn... Hình như có đám người bu quanh, có người giữ lấy chàng. - Hắn say mèm rồi, đưa hắn đến bót đi! A, họ định làm gì thế? Vân Lâu vùng vẫy cố thoát ra. Chàng đẩy đứng đám đông sang một bên, rồi cắm đầu cắm cổ chạy, mặc cho tiếng hét phía sau đuổi tới: - Bắt lấy hắn! Bắt thằng say rượu lại đi!  Có những bước chân dồn dập đuổi theo, Vân Lâu chạy bán sống bán chết. Có tiếng còi xe cảnh sát, tiếng còi inh ỏi, tiếng người... Tất cả như một bản nhạc đại hợp tấu với những nhịp trống dồn dập. Đúng rồi đây là khúc nhạc cuồng nhiệt của Hung Gia Lợi. Những ngón tay lướt nhẹ trên phím ngà! Vân Lâu vẫn chạy, chàng có cảm tưởng như mình đang đuổi theo khúc nhạc. Đột nhiên, một bức tường chắn ngang trước mắt, Vân Lâu tối sầm mặt mũi. Như chiếc bóng xì hơi chàng ngã nhào xuống. Mặt chàng úp xuống mặt đất lạnh!... Mưa vẫn rơi nhưng lòng Vân Lâu có những ánh lửa cháy sáng không bao giờ bị dập tắt. Chàng mở mắt ra, đất đen và ẩm kề bên môi, ánh đèn màu phản chiếu trên giòng nước lấp lánh! Đẹp tuyệt, Vân Lâu hé miệng ra với nụ hôn đầm ấm. - Hàn Ni em! Hàn Ni? Nhưng Hàn Ni bây giờ ở đâu? Hình như... Đầu chàng đau như búa bổ. Vân Lâu cố gắng đừng lên, tựa người vào tường. Rồi chàng thảng thốt gọi lớn: - Hàn Ni! Mời các bạn mượn đọc sách Mùa Thu Lá Bay của tác giả Quỳnh Dao.
Hư Ảo Một Cuộc Tình
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Lãng mạn Hư Ảo Một Cuộc Tình của tác giả Quỳnh Dao. Như các bạn đã viết tác giả Quỳnh Dao là một cây bút ngôn tình luôn diễn tả sâu sắc nội tâm của các nhân vật, cuộc tình dù có ra sao, dù đó là tình yêu dang dở hay tình yêu trọn việc chắc hẳn những người khi yêu luôn có kỷ niệm đẹp. Hư Ảo Một Cuộc Tình cho dù đã qua người trong cuộc sẽ mãi khắc sâu, lúc yêu cuộc sống xung quanh tràn đầy màu xanh, còn lúc đánh mất tình yêu cuộc đời như địa ngục. Cùng dõi theo bước chân của tác giả để biết thế nào là tình cuộc tình vô thường. Mong các bạn luôn biết quý trọng tình yêu để khi mất đi không phải hối hận với những điều đã làm. Để tiếp nối cảm xúc, truyện Anh Chàng Ngọt Ngào cũng được đánh giá cao về mặt nội tâm và nội dung truyền đạt.  *** Tóm tắt Hư Ảo Một Cuộc Tình là một tiểu thuyết lãng mạn của tác giả Quỳnh Dao, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1966. Câu chuyện kể về mối tình tay ba giữa hai người bạn thân, cùng với một chàng trai. Review Hư Ảo Một Cuộc Tình là một câu chuyện tình yêu đầy đau khổ và bi kịch. Tuy nhiên, câu chuyện cũng mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Trước hết, câu chuyện cho thấy rằng tình yêu là thứ vô thường, có thể đến và đi bất cứ lúc nào. Thứ hai, câu chuyện cho thấy rằng chúng ta cần biết trân trọng những gì mình đang có.  Cuối cùng, câu chuyện cho thấy rằng tình yêu có thể vượt qua mọi trở ngại, kể cả thời gian và khoảng cách. Điều này cho thấy rằng tình yêu là thứ có thể tồn tại mãi mãi, bất chấp mọi thử thách. Kết luận Hư Ảo Một Cuộc Tình là một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy đau khổ và bi kịch. Câu chuyện mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đây là một câu chuyện đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại ngôn tình. Đánh giá Hư Ảo Một Cuộc Tình là một câu chuyện được viết rất thành công của Quỳnh Dao. Câu chuyện có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết lôi cuốn, và nhân vật được xây dựng rất sinh động. Đặc biệt, Quỳnh Dao đã thể hiện rất xuất sắc nội tâm của các nhân vật, khiến cho người đọc có thể cảm nhận được nỗi đau khổ và bi kịch của họ. Về mặt nội dung, Hư Ảo Một Cuộc Tình mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Câu chuyện cho thấy rằng tình yêu là thứ vô thường, có thể đến và đi bất cứ lúc nào; chúng ta cần biết trân trọng những gì mình đang có; và tình yêu có thể vượt qua mọi trở ngại, kể cả thời gian và khoảng cách. Về mặt nghệ thuật, Hư Ảo Một Cuộc Tình được viết bằng một văn phong lãng mạn và sâu lắng. Quỳnh Dao đã sử dụng rất nhiều ngôn từ miêu tả nội tâm, khiến cho người đọc có thể cảm nhận được những cung bậc cảm xúc của các nhân vật. Nhìn chung, Hư Ảo Một Cuộc Tình là một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy đau khổ và bi kịch. Câu chuyện mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đây là một câu chuyện đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại ngôn tình. Mời các bạn mượn đọc sách Hư Ảo Một Cuộc Tình của tác giả Quỳnh Dao.
Số Đen
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Số Đen của tác giả Camilo José Cela & Trương Võ Anh Giang (dịch). Số đen là câu chuyện về cuộc đời của anh nông dân người Tây Ban Nha là Pascual Duarte sinh ra trong một thế giới khắc nghiệt đầy trụy lạc, thù hận và đói nghèo. Câu chuyện được Pascual kể lại từ trong nhà tù nơi anh bị giam giữ chờ ngày hành quyết vì những tội giết người mà anh đã thực hiện trong suốt cuộc đời mình. Mặc dù đã có những động lực độc ác và dã man, Pascual vẫn giữ lại được cái nhìn đầy thơ trẻ về thế giới và niềm khao khát cháy bỏng để hiểu được số phận nào đã đưa anh vào con đường đầy máu. *** Thỉnh thoảng, không đều đặn và như thể bất ngờ, đã xuất hiện những cuốn tiểu thuyết mà tầm quan trọng không chỉ ở phẩm chất văn chương của tác phẩm, nhưng còn do tính độc đáo của đề tài và tính mới mẻ trong hình thức những tác phẩm đó. Như vậy, những tác phẩm này đã tạo một ảnh hưởng đáng kể đến một số đông các nhà văn, sau đó ảnh hưởng đến thị hiếu của quần chúng, và về lâu về dài cuối cùng tác phẩm đã có tác động làm thay đổi đường hướng của những trào lưu văn chương của cả một thời kỳ. Sẽ có những độc giả sành sỏi cho rằng nói như vậy, tôi muốn ám chỉ tới những tác phẩm rất khác biệt nhau về kỹ thuật cấu thành tác phẩm, về quan niệm cũng như về số độc giả đặc trưng của những tác phẩm đó vào thời điểm chúng xuất hiện…   Tuy nhiên, đôi khi vì những tình huống lịch sử, chính trị hoặc kinh tế, một số xứ sở tạm thời buộc phải đứng bên lề dòng tiến hóa không thể cưỡng lại được của toàn nhân loại. Bấy giờ, đời sống văn hóa của những xứ sở ấy phải cam chịu một thứ thoái hóa làm tê liệt trong một mức độ nào đó những biểu hiện tinh thần của đời sống văn hóa của nhân loại. Nhưng dẫu vậy, cuộc sống vẫn tiếp diễn, và một người quan sát chuyên chú và kiên trì sẽ chẳng hề chậm trễ để nhận ra những trăn trở dù yếu ớt, những vận động đầu tiên nhằm báo hiệu sự phục hưng của một nền văn hóa, một nền nghệ thuật và một nền văn học mà tiến trình đã bị ngăn chặn trong một thời gian bởi những tình huống bên ngoài…   Trong lĩnh vực tinh thần, những chấn động của cuộc nội chiến đã để lại những hậu quả bị đát, không thể cứu vãn được. Khi cuộc nội chiến kết thúc, một số khuôn mặt đáng kể nhất của nền văn hóa Tây Ban Nha biến mất…, hầu như trong toàn đất nước Tây Ban Nha không còn lấy một nhà trí thức có tầm cỡ. Đa số những nhà trí thức đã chọn lựa cuộc sống lưu vong, và thế hệ những nhà văn mới ở Tây Ban Nha - những người lẽ ra là bậc thầy của họ hoặc đã chết hoặc vắng mặt - bị bỏ mặc cho số phận… - Cela là một khuôn mặt lớn đầu tiên nổi lên sau cuộc nội chiến, và trong không khí nghèo nàn của văn học Tây Ban Nha, những tác phẩm của ông đã gây được tiếng vang lớn, không chỉ vì ông làm chủ được ngôn ngữ - điều này được chứng tỏ qua các tác phẩm đó - mà còn vì những tác phẩm của Cela đã thể hiện qua nội dung cũng như hình thức một nét độc đáo tương đối, nét độc đáo làm kinh ngạc đa số độc giả của ông, bởi họ tuyệt đối không biết những đổi mới trong nền tiểu thuyết thế giới, điều này tự nhiên thôi, vì sự cô lập của Tây Ban Nha đối với cộng đồng quốc tế trong hơn mười năm sau cuộc nội chiến, và còn vì những khó khăn mà thể chế chính trị ở Tây Ban Nha đã gây ra cho sự phát triển tinh thần ở đất nước này - một cơ chế chính trị mang màu sắc văn hóa khá đặc biệt và thù địch với sự tiến bộ, đã hoành hành bên trong xứ sở Tây Ban Nha.   - Thực vậy, với Số đen, công lao của Cela là gấp đôi: trước hết vì ý muốn lồng những tác phẩm của ông vào bối cảnh của tinh thần Âu châu mà không khước từ bất kỳ một nét đặc trưng nào của Tây Ban Nha… Qua nhân vật Pascual Duarte, Cela trình bày một quan điểm duy sinh hầu như thuần túy sinh học, nối kết hơn nữa với cái “hành xử” Tây Ban Nha nguyên sơ nhất. Trong mọi trường hợp, trong toàn cảnh văn hóa - và cả chính trị - của Tây Ban nha, tác phẩm Số đen đã giữ vai trò của sự truyền máu, đã vạch một con đường cho những kinh nghiệm của tương lai…   J.M. CASTELLET  *** Nhà văn Tây Ban Nha Camilo José Cela sinh trong một gia đình thượng lưu bản sứ, học nghành y nhưng thường xuyên nghe các bài giảng văn tại khoa Triết Đại học Madrid. Những năm 30, Camilo José Cela tham gia nội chiến Tây Ban Nha nhưng bị lao phổi nặng. Khỏi bệnh ông chuyển sang học Luật ở Madrid, và bắt đầu viết văn.  Năm 1934, ông viết bài thơ đầu tiên Đám tang tôi và từ đó cái chết là đề tài ám ảnh trong các tác phẩm của ông; Năm 1942, ông xuất bản cuốn tiểu thuyếtGia đình Pascual Duarte và nhanh chóng trở lên nổi tiếng; đuợc đánh giá là cuốn tiểu thuyết hay nhất Tây Ban Nha kể từ thời Don  Kihote. Camilo José Cela sáng tác rất nhiều thể loại: Tiểu thuyết, truyện dài, truyện ngắn, kí, kịch, thơ, truyện dịch, Ông còn soạn Từ điển bí mật, 11 tập, gồm những từ vựng kiêng húy, bị cấm đoán, tiếng lóng đường phố…, và Bách khoa tình dục, song tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết Tổ ongkể về cuộc sống của dân chúng ở thủ đô Madrid sau khi kết thúc nội chiến. Năm 1983 ông cho ra đời tiểu thuyết được coi là “Trào phúng đen” – Bản Mazurca cho hai người chết. Năm 1989, Camilo José Cela là nhà văn đầu tiên của Tây Ban Nha được tặng giải Nobel văn học cho những tác phẩm được viết theo lối văn súc tích, cô đọng thể hiện lòng trắc ẩn vô hạn đối với những phận người cay đắng và hoang mang trong cuộc chiến phi lí. Ông được coi là nhà văn nổi bật nhất của Tây Ban Nha sau chiến tranh.  *** Tóm tắt Tiểu thuyết Số đen kể về câu chuyện của anh nông dân người Tây Ban Nha là Pascual Duarte sinh ra trong một thế giới khắc nghiệt đầy trụy lạc, thù hận và đói nghèo. Câu chuyện được Pascual kể lại từ trong nhà tù nơi anh bị giam giữ chờ ngày hành quyết vì những tội giết người mà anh đã thực hiện trong suốt cuộc đời mình. Mặc dù đã có những động lực độc ác và dã man, Pascual vẫn giữ lại được cái nhìn đầy thơ trẻ về thế giới và niềm khao khát cháy bỏng để hiểu được số phận nào đã đưa anh vào con đường đầy máu. Pascual Duarte sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Tây Ban Nha. Anh sớm mồ côi cha và phải sống với người mẹ tàn nhẫn, người luôn đánh đập và hành hạ anh. Pascual lớn lên trong sự căm thù và bất mãn, và anh sớm trở thành một kẻ hung bạo, sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết mọi vấn đề. Pascual có một mối tình với Lola, một cô gái xinh đẹp nhưng lại bị bệnh tâm thần. Pascual yêu Lola tha thiết, nhưng anh cũng biết rằng mối quan hệ của họ là không thể. Lola đã giết chết mẹ mình, và Pascual bị buộc phải giết chết Lola để bảo vệ chính mình. Pascual tiếp tục giết người, lần lượt là người yêu cũ, cha dượng và một người bạn. Mỗi lần giết người, Pascual lại càng trở nên xa cách với thế giới xung quanh. Anh không còn biết phân biệt đúng sai, thiện ác. Cuối cùng, Pascual bị bắt và bị kết án tử hình. Anh bị hành quyết trong nhà tù, trong sự hả hê của đám đông. Review Số đen là một tiểu thuyết mang tính hiện thực tàn khốc, phản ánh một phần thực trạng xã hội Tây Ban Nha thời bấy giờ. Tiểu thuyết cũng là một tác phẩm tâm lý sâu sắc, khám phá bản chất của con người và những động lực dẫn đến tội ác. Nhân vật Pascual Duarte là một nhân vật phức tạp và đầy mâu thuẫn. Anh là một người tốt bụng, lương thiện, nhưng cũng là một kẻ hung bạo, tàn ác. Pascual là nạn nhân của hoàn cảnh, nhưng cũng là người tự đẩy mình vào con đường tội lỗi. Pascual là một nhân vật điển hình cho kiểu nhân vật anh hùng bi kịch của văn học thế kỷ 20. Anh là một kẻ thất bại, nhưng cũng là một kẻ đáng thương. Pascual là một hiện thân của những bi kịch của con người trong cuộc sống. Tác phẩm đã đạt được nhiều thành công và được đánh giá là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Tây Ban Nha. Điểm cộng Nội dung hấp dẫn, lôi cuốn Nhân vật phức tạp, đầy mâu thuẫn Ngôn ngữ mộc mạc, chân thực Đánh giá chung 5/5 sao Một số ý kiến đánh giá khác về tiểu thuyết Số đen "Số đen là một tiểu thuyết xuất sắc. Tiểu thuyết mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về bản chất của con người và những động lực dẫn đến tội ác." "Số đen là một tiểu thuyết bi kịch. Tiểu thuyết kể về câu chuyện của một con người bị đẩy vào con đường tội lỗi bởi hoàn cảnh và chính bản thân mình." "Số đen là một tiểu thuyết đáng đọc. Tiểu thuyết mang đến cho người đọc những cảm xúc mạnh mẽ và những suy ngẫm sâu sắc." Mời các bạn mượn đọc sách Số Đen của tác giả Camilo José Cela & Trương Võ Anh Giang (dịch).