Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Linh Hồn Chết - Nikolai Vasilyevich Gogol

Ngay sau khi ra đời, Những linh hồn chết của Gogol đã gây một cơn chấn động lớn trên toàn nước Nga. Rất nhanh chóng, cơn địa chấn này đã lan rộng ra nước ngoài. Theo viện sĩ B.L. Riftin, tập I tác phẩm Những linh hồn chết hoàn thành vào năm 1842, thì năm 1846, khi tái bản lần thứ 2, đã được dịch sang tiếng Đức, năm 1849 được dịch sang tiếng Tiệp. Năm 1854 xuất hiện bản dịch Những linh hồn chết bằng tiếng Anh. Tới năm 1858, cùng với thiên trường ca, tác giả Quan thanh tra đã nổi tiếng khắp châu Âu và phương Tây. Đánh giá về vai trò của Gogol đối với văn học Nga, nhà nghiên cứu I. Zolotuski khẳng định: Gogol là người đầu tiên có công đưa văn học Nga hội nhập với thế giới. Thiên tài của Gogol là một thiên tài nhiều mặt, ít thấy ở một nhà văn. Mới hai mươi sáu tuổi, Gogol đã có những tác phẩm mẫu mực của năm loại văn rất khác nhau, tựa hồ của nhiều nhà văn khác nhau: truyện dân gian quái dị với Những đêm trong thôn gần Đikanka, tiểu thuyết sử thi hùng tráng với Tarax Bunba, truyện châm biếm hài hước với Câu chuyện về sự bất hòa giữa Ivan Ivanovits và Ivan Nikiforovits, tiểu thuyết hiện thực phê phán với Một đôi vợ chồng trang chủ kiểu xưa và Cái áo khoác, hài kịch đả kích xã hội với Quan thanh tra. Với cái thiên tài nhiều mặt, mà mặt nào cũng lớn và đang độ phát triển, dồi dào sinh lực ấy, Gogol bắt tay vào viết tác phẩm chủ yếu của đời mình, lớn hơn tất cả các tác phẩm kia: Những linh hồn chết. Từ lúc ấy, cuộc đời của Gogol còn mười sáu năm nữa, nhưng chỉ còn có một mục đích, một công việc, một sứ mạng: hoàn thành Những linh hồn chết, phấn đấu gian lao, đau khổ khủng hoảng tinh thần, lịch sử mười sáu năm cuối của đời Gogol chính là lịch sử của Những linh hồn chết. Ý định viết tác phẩm lớn ấy đến với Gogol, như trong Sám hối của một tác giả, văn hào viết: “Chính Puskin làm cho tôi quan niệm vấn đề một cách nghiêm túc. Từ lâu Puskin khuyến khích tôi bắt tay viết một tác phẩm lớn; Puskin bảo tôi: “- Tại sao có cái tài đoán ra chân tướng con người để chỉ phác vài nét là lẽ ra như nó sống thật, mà anh lại không bắt tay vào viết một tác phẩm lớn? Như thế thật quả là một tội lỗi!”. Để kết luận, Puskin cho tôi đề tài mà chính anh dự định viết thành một trường ca và, theo lời anh, thì không bao giờ nhường lại cho bất kỳ một ai. Đó là đề tài của Những linh hồn chết”. Puskin từng khuyên Gogol sáng tác Những linh hồn chết thành một thiên “trường ca” - poema - Chữ “poema” đây không phải có nghĩa là một tập thơ, mà là một tiểu thuyết trường thiên có tính chất sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gogol cho in lên bìa chữ “poema” to hơn tên sách. Càng viết và càng nghĩ, Gogol càng thấy cái tầm rộng lớn của tác phẩm; vì vậy mà những cuộc phiêu lưu buồn cười của nhân vật chính Tsitsikôp hợp thành tình tiết của thiên trường ca đã được khoác một ý nghĩa biểu tượng: Tsitsikôp không phải chỉ là một tên bịp bợm đi mua nông phu chết, mà còn là Gogol đi tìm những “linh hồn sống”, nhưng chỉ gặp toàn những “linh hồn chết” - trong tiếng Nga cái từ “đusi” có cả hai nghĩa “những linh hồn” và “những nông phu”. Năm 1843, trong một bức thư Gogol viết rõ ràng: - “Quả thật có thể tin được điều người ta nói là: tất cả đều chết hết rồi, rằng ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho những linh hồn chết”.  Bởi vậy mà nhan đề của thiên trường ca trước dự định là Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp (Pôkhôjdênia Tsitsikôva) với phụ đề là Những linh hồn chết (miôrtvưe đusi) phải đổi lại là Những linh hồn chết với tiêu đề Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp. Mùa hè 1841 phần thứ nhất Những linh hồn chết được hoàn thành. Tháng chín Gogol mang về nước để xuất bản. Ngày 12 tháng 11 bản thảo nộp cho Ủy ban kiểm duyệt Mạc tư khoa và dĩ nhiên là gặp ngay phải vô số khó khăn. Nhờ phu nhân Xmirnôva và mấy bạn vương công thần thế bảo trợ văn học, Những linh hồn chết mới được phép in, chỉ phải chữa lại đoạn nói về đại úy Kôpêikin. Ngày 23 tháng 5 năm 1842, Những linh hồn chết xuất bản lần thứ nhất. Tờ Người đương thời, trong bài phê bình, đã suy tôn tác giả cuốn sách là đệ nhất văn hào Nga; quả là một danh hiệu chính đáng; từ trước Biêlinxki vẫn nói rằng Puskin sớm chết thì Gogol đã thay vào chỗ mà Puskin để lại trong văn học Nga. Với những điều hiểu biết của một nghệ sĩ thiên tài, Gogol đã “vẽ lại cuộc đời với bộ mặt thật của nó”, và cái bộ mặt của xã hội Nga với các tầng lớp thống trị của nó thời ấy là ghê tởm; thì Gogol đã bắt các đại diện của chúng ta, “giật bộ trang phục mỹ lệ và cái mặt nạ anh hùng” của chúng, bắt chúng “đem thân cho thiên hạ mua cười”. Chỉ với Những linh hồn chết, sự nghiệp của Gogol cũng đã xứng đáng đặt ngang hàng với sự nghiệp của một nhà văn lớn khác của thế giới: Xervantex với bộ Đông Kisôt. Thuộc thể tiểu thuyết phê phán và châm biếm phong tục, - thể tiểu thuyết Picaret theo thuật ngữ văn học, do cái từ Tây Ban Nha picarô, chỉ tên bịp bợm, mà ra, - thì Những linh hồn chết của Gogol, Đông Kisôt của Xervantex và Những di văn của câu lạc bộ Pickuych của Dickenx là ba kiệt tác đứng hàng đầu trong văn học thế giới, và so với các tác phẩm cùng thể tài châm biếm ấy thì Những linh hồn chết đậm tính chất chân thực, gần với cuộc đời hơn cả. *** Bốn Bức Thư Của Tác Giả {Bốn bức thư này in trong chương XVII của cuốn Trích thư từ gửi các bạn tôi xuất bản cuối năm 1846; nhưng những thư này chỉ là những lời thanh minh của tác giả, không phải là những thư gửi đi cho ai cả} I. Anh có tỏ ý phẫn nộ vì cái giọng quá quắt của một số lời chỉ trích Những linh hồn chết. Tôi thấy như thế không được đúng: việc đó cũng có mặt tốt: đôi khi cũng cần có người phỉ báng mình. Người nào đã mê say với những cái đẹp rồi thì không thấy được những cái xấu, cho nên cái gì cũng dung thứ cả; ngược lại người nào đã muốn dèm pha thì cố tìm cho ra những cái xấu của anh và nêu rõ cái xấu đó lên đến nỗi buộc lòng anh phải thấy. Người ta ít khi có dịp nghe sự thật lắm; cho nên chỉ cần được một phần nhỏ sự thật thôi, người ta cũng đã có thể dung thứ cái giọng phỉ báng của kẻ lên tiếng nói sự thật. Những lời phê phán của Bungarin Xenlôpxki, Pôlêvôi có nhiều cái đúng, kể cả lời họ khuyên tôi nên học tiếng Nga trước khi có tham vọng viết lách {Những linh hồn chết phần thứ nhất, ra đời năm 1842, bị những nhà phê bình lạc hậu và phản động ghen ghét la ó. Trong tờ Tín sứ Nga, nhà phê bình lãng mạn chủ nghĩa N.A Pôlêvôi cho rằng Những linh hồn chết chỉ là một bức biếm họa, không thể xem là nghệ thuật được và tác giả chưa biết viết văn, còn mắc nhiều lỗi ngữ pháp; Pôlêvôi viết: “- Hãy gác sang một bên những cảm hứng bồng bột của anh mà đi học tiếng Nga đi!”. Có người chế giễu chữ poema ở bìa sách và suy diễn ra, gọi cả những sách giáo khoa vật lý học và sách dạy làm vườn là poema. Nhưng những lối phê bình ấy làm cho quần chúng chân chính rất căm phẫn}. Quả nhiên, giá tôi giữ bản thảo trong ngăn kéo thêm một năm nữa, chứ đừng vội vã cho in; thì chính bản thân tôi cũng đã thấy rằng không thể nào đem nó ra mà xuất bản dưới một hình thức kém cỏi như vậy. Tuy những bài thơ châm biếm và những lời chế giễu lúc đầu có làm cho tôi khó chịu thật; nhưng vẫn rất bổ ích cho tôi. Ôi! Những lời dèm pha liên miên ấy, cái giọng phỉ báng và những lời chế giễu cay cú ấy, thật có lợi cho ta không biết bao nhiêu mà kể! Trong thâm tâm ta thường giấu nhiều tự ái ti tiện, nhiều tham vọng xấu xa, đến nỗi ta cần phải luôn luôn bị châm chích, đánh đập bằng đủ mọi thứ khí giới; và phải cảm ơn bàn tay đã đánh ta. Tôi những mong được phê phán nhiều hơn nữa, nhưng lại muốn rằng người phê phán không phải là những người làm văn học, mà là những người có kinh nghiệm về thực tế. Tiếc thay, ngoài những người làm văn học, không có một bộ óc thực tiễn nào lên tiếng cả. Tuy nhiên Những linh hồn chết cũng đã gây nên lắm xôn xao bàn tán, lắm lời đồn đại, đã xúc phạm đến lòng tự ái của khá nhiều người vì lối giễu cợt, vì tính xác thực, vì lối biếm họa. Tuy đầy rẫy những sự lầm lẫn, sai lệch hiển nhiên; nó cũng đả động đến một tình hình mà ai nấy đều được chứng kiến hàng ngày. Tôi lại còn xen vào đấy một số đoạn có tính chất khiêu khích, hy vọng rằng sẽ có người lên tiếng quát mắng tôi và trong cơn phẫn nộ, sẽ vô tình mách cho tôi biết cái sự thực mà tôi đang tìm kiếm. Tại sao chưa có ai lên tiếng cả? Ai ai cũng đều có thể làm việc đó, và có đủ cơ sở để làm việc đó. Người viên chức có thể công khai chứng minh cho tôi thấy rằng câu chuyện tôi kể là không xác thực, bằng cách kể ra vài ba sự kiện có thật đã xảy ra và như vậy là đã đưa ra một lời cải chính hùng hồn hơn bất cứ lời biện luận nào. Vả chăng, cũng bằng cách ấy, người kia cũng lại có thể xác nhận thêm những lời miêu tả của tôi. Việc dẫn sự kiện có sức thuyết phục hơn là những lời lẽ rỗng tuếch và những bài luận văn về văn học. Nhà buôn, trang chủ, nói tóm lại là bất cứ ai biết cầm bút, cũng đều có quyền làm như vậy; dù người ấy chỉ sống quanh quẩn trong nhà hay vẫn thường đi đây đó khắp đất nước Nga. Ngoài ý kiến cá nhân của mình ra, bất cứ người nào, dù giữ chức vụ gì, ở địa vị xã hội nào, nghề nghiệp, học vấn ra sao, cũng đều có dịp quan sát sự việc trên một quan điểm riêng. Với đề tài của Những linh hồn chết, lẽ ra quần chúng độc giả có thể viết nên một cuốn sách hay hơn Những linh hồn chết không biết bao nhiêu mà kể; một cuốn sách có thể dạy nhiều điều, không những cho tôi, mà ngay cho các bạn đọc nữa; bởi vì giấu giếm mà làm gì, chúng ta đều biết nước Nga rất ít. Chao ôi! Tại sao không có ai công khai lên tiếng! Thật có thể tưởng chừng như mọi vật đều đã chết; và ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho Những linh hồn chết! Thế mà người ta lại trách tôi không biết rõ nước Nga! Làm như thể do một phép lạ của Đức chúa Thánh thần tôi nhất thiết phải biết rõ tất cả những sự việc xảy ra ở bất cứ xó xỉnh nào; phải học cho kỳ hết, không cần ai chỉ dẫn cả. Tôi làm thế nào mà học hỏi được! Thử nghĩ một nhà văn như tôi, vì nghề nghiệp phải ngồi ru rú ở nhà, sống cuộc đời khổ hạnh, lại thêm bệnh tật nữa và buộc lòng phải sống xa nước Nga; thì còn học hỏi làm sao được? Tôi không thể học hỏi các nhà văn hay các nhà báo, vì họ cũng sống cô độc và quanh quẩn trong phòng giấy. Nhà văn chỉ có một người thầy: bạn đọc. Thế nhưng những bạn đọc ấy đã từ chối, không chịu dạy dỗ tôi. Tôi biết rằng tôi sẽ phải chịu trước Thượng đế một trách nhiệm ghê gớm vì đã không làm tròn bổn phận; nhưng tôi lại biết rằng những người khác cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm như thế. Và đây không phải là những lời nói suông: có Thượng đế chứng giám cho tôi, đây không phải là những lời nói suông. 1843 II. Tôi đã cảm thấy từ trước là những đoạn mạn đàm trữ tình trong thiên trường ca của tôi sẽ bị hiểu sai. Những đoạn ấy thiếu minh xác, ít ăn nhập với tình tiết và phong cách của cuốn truyện, đến nỗi khiến cho những người công kích tôi, cũng như những người bênh vực tôi, đều bị lầm. Người ta đã tưởng lầm rằng tất cả những đoạn nói về nhà văn nói chung, đều nhằm nói về tôi cả; tôi đã lấy làm xấu hổ khi thấy họ giải thích những đoạn ấy để bênh vực tôi. Chẳng qua, cũng đáng kiếp cho tôi! Lẽ ra, dù sao tôi cũng không nên cho xuất bản một tác phẩm tuy cắt khéo, nhưng khâu thì lại vụng, bằng chỉ trắng lên vải đen; như một bộ áo quần mà người thợ may vừa lược chỉ qua để thử. Tôi lấy làm lạ sao người ta ít có lời chê trách tôi về nghệ thuật và nghiệp vụ như vậy. Âu cũng tại những người phê phán tôi quá phẫn nộ, mà cũng tại họ không đủ sức khảo sát cách cấu tạo của một tác phẩm. Lẽ ra phải nêu rõ phần nào có vẻ dài một cách quái gở so với các phần khác; ở chỗ nào nhà văn đã tự phản mình, vì không nhất quán dùng cái giọng mà mình đã chọn từ đầu. Thậm chí cũng không có ai nhận thấy phần thứ hai của cuốn sách không được gọt giũa bằng phần đầu; nó chứa đựng những chỗ hổng lớn; những nét thứ yếu được khai triển quá mức, choán hết chỗ của những nét chính; các chương quá khác nhau, làm cho cuốn sách có tính chất vá víu, khiến người đọc không thấy tinh thần chung của nó. Nói tóm lại, lẽ ra nhà phê bình có thể có những lời phê phán sáng suốt và chính xác hơn, chê trách tôi nhiều hơn và một cách đích đáng hơn không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Đây tôi muốn nói đến cái đoạn mạn văn trữ tình đã bị các nhà báo công kích nhiều hơn cả, vì họ thấy nó biểu lộ một sự kiêu ngạo, một lòng tự mãn {Biêlinxki phê bình Những linh hồn chết, phần thứ nhất, ngay khi sách mới xuất bản, trong tạp chí Niên san của Tổ quốc, ca tụng khả năng hiện thực chủ nghĩa và tâm hồn nhiệt thành của tác giả: nhưng cho rằng tác phẩm có những đoạn tỏ lòng yêu nước quá huênh hoang}, một lối khoác lác xưa nay chưa từng thấy ở một nhà văn nào. Đó là đoạn mạn văn ở chương cuối: sau khi tả Tsitsikôp ra đi, tác giả bỏ nhân vật của mình ở giữa đường thiên lý, thay mình vào chỗ đó và ngạc nhiên trước vẻ đơn điệu chán ngắt của sự vật, trước khoảng không gian bao la hoang vắng và tiếng hát ai oán từ dải đất Nga vang lên suốt từ biển này sang biển kia; trong một phút cảm khái, đã lên tiếng hỏi bản thân nước Nga, van xin nước Nga cắt nghĩa mối cảm xúc khó hiểu đang làm lòng mình thắt lại: tại sao cứ có cảm giác như tất cả mọi sinh linh, mọi sự vật trong nước Nga đều như đang nhìn mình đăm đăm và chờ đợi ở mình một cái gì? Người ta đã thấy trong những lời lẽ đó bằng chứng của kiêu ngạo, một sự huênh hoang không tiền khoáng hậu; nhưng thật ra đây không phải là huênh hoang, cũng chẳng phải là kiêu ngạo, mà chỉ là sự diễn đạt một cách vụng về của một tình cảm chân thành. Ngay giờ phút này, tôi vẫn còn cảm thấy ấn tượng đó. Tôi không sao chịu đựng nổi những âm thanh ai oán, não lòng của một bài ca Nga khi nó rung lên trong không gian vô tận của thôn quê ta. Những âm thanh ấy ám ảnh tâm hồn tôi. Thậm chí tôi còn lấy làm lạ sao mỗi một người trong chúng ta lại không biết đến cái cảm giác đó. Ai là người trông thấy những không gian vắng lặng, lạnh lẽo ấy mà không thấy lòng mình se lại; ai là người trong những âm thanh thê thiết của bài dân ca Nga, không nhận thấy những lời trách móc đau xót đối với bản thân mình - tôi nói rõ: đối với bản thân mình - thì người ấy đã làm xong bổn phận của mình một cách trọn vẹn, trừ phi không có một tâm hồn Nga. Sự vật như thế nào, ta hãy cứ nhìn nhận nó như thế. Gần một trăm năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Hoàng đế Piôtr đệ nhất mở mắt ra cho chúng ta, dắt dìu chúng ta bước lên con đường văn hóa Âu châu, và đặt vào tay chúng ta đủ mọi phương tiện hành động: thế nhưng nông thôn của ta vẫn buồn tẻ và hoang vắng như xưa. Quanh ta mọi vật đều có vẻ ghẻ lạnh, thù địch; tưởng chừng chúng ta chưa phải đang ở trong nhà mình, mà chỉ là đang cắm trại trên đường trường; tưởng chừng đối với ta, nước Nga không phải là một nơi trú ẩn ấm áp, thân tình, mà là một ngôi trạm phủ tuyết lạnh ngắt; ở đấy chỉ thấy hiện ra một gã coi trạm lãnh đạm buông thõng một câu trả lời gắt gao: “- Không có ngựa!”. Tại sao lại như thế? Lỗi tại ai? Tại chính phủ hay tại ta? Nhưng chính phủ vẫn hoạt động không ngừng: chứng cớ là những tập quy chế, chỉ thị, sắc lệnh dày cộm, cái số khổng lồ những tòa nhà đã xây, những cuốn sách đã xuất bản; những thiết chế đủ loại, giáo dục có, từ thiện có, bác ái có; không kể những thiết chế mà ở nước ngoài không thấy chính phủ nào lập ra. Từ trên có những câu hỏi đưa xuống, ở dưới có những lời giải đáp đưa lên. Đôi khi ở trên đưa xuống những câu hỏi chứng tỏ sự đại lượng của một vài nhà vua đã dám hy sinh cả quyền lợi bản thân. Thế mà ở dưới đã trả lời ra sao? Tất cả đều tùy ở cách thức, ở nghệ thuật ứng dụng một tư tưởng sao cho nó thành hiện thực và đi hẳn vào đời sống. Một đạo dụ, dù nội dung có hay ho, dù lời lẽ có chính xác bao nhiêu chăng nữa, cũng vẫn chỉ là một tờ giấy không hồn; nếu ở dưới không tỏ ra có ý muốn đem ứng dụng nó theo một cách thức thích đáng, theo cái cách thức mà chỉ có người nào quan niệm sự công bằng dưới ánh sáng của Thượng đế, chứ không phải dưới ánh sáng của con người, mới tìm ra được. Nếu không, tất cả sẽ thành ra có hại. Chứng cớ là những tay gian lận và ăn hối lộ tinh ma của chúng ta vốn biết cách xoay xở với tất cả các quy chế; một đạo dụ mới đối với họ là một nguồn thu hoạch mới, một phương tiện mới để làm cho sự giải quyết công việc rối ren thêm, để thọc thêm một gậy vào bánh xe. Nói tóm lại, nhìn về đâu tôi cũng thấy rằng thủ phạm chính là những kẻ có bổn phận thi hành pháp luật. Có người vì quá ước ao danh vọng và huân chương, mà đâm ra hấp tấp. Lại có người vì muốn tỏ ra nhiệt thành và tận tụy - một thói xấu rất Nga, - mà cứ đâm đầu vào công việc, không chịu khó nghiên cứu, những tưởng mình có thể điều khiển công việc một cách thành thạo; nhưng hễ thất bại một lần là nản chí ngay, và sau đó, - cũng một thói xấu không kém tính chất Nga, - lập tức thờ ơ với công việc. Lại có người, khi lòng tự ái nhỏ nhen của mình bị tổn thương, liền để lọt vào tay một tên trùm bịp bợm cái cương vị mà ở đấy mình đã bắt đầu phấn đấu cho chính nghĩa. Nói tóm lại, trong chúng ta, ít có người biết yêu cái thiện đến mức có thể vì việc thiện mà hy sinh tham vọng, tự ái cùng tất cả những cái nhỏ nhen của một lòng vị kỷ dễ đâm ra cay cú đến mức có thể khép mình vào một luật lệ bất di bất dịch là phụng sự đất nước, chứ không phải phụng sự bản thân mình; luôn luôn nhớ rằng mình ở cương vị là để mưu cầu hạnh phúc cho người khác, chứ không phải cho bản thân. Ngược lại từ ít lâu nay người Nga chúng ta tuồng như có dụng tâm muốn phô trương tính vị kỷ và dễ chạnh lòng của mình ra. Không biết trong chúng ta liệu có những người mà sau khi làm tròn nhiệm vụ mình rồi, có thể đứng trước toàn thể thiên hạ tuyên bố rằng mình không có lỗi gì đối với nước Nga hết; rằng khắp những khoảng đồng không mông quạnh của đất nước này, không có cái gì có thể coi như một lời trách móc đối với mình cả; rằng mọi vật đều hài lòng về mình và không còn mong chờ gì hơn nữa không? Tôi không biết số người có thể làm như vậy có nhiều không. Tôi chỉ biết rằng riêng tôi, tôi đã nghe thấy lời trách móc thầm lặng đó. Giờ đây, nó vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Sự nghiệp văn chương của tôi có hèn kém thật, nhưng lẽ ra dù sao nó cũng có thể giúp tôi là một việc có ích hơn. Tuy lòng tôi xưa nay vẫn ấp ủ khát vọng làm điều thiện và chỉ vì khát vọng đó mà tôi cầm bút; những cái đó phỏng có gì quan trọng đâu! Tôi đã làm tròn nhiệm vụ ấy như thế nào? Chẳng hạn, cuốn sách vừa rồi của tôi, nhan đề Những linh hồn chết, liệu có gây được cái ấn tượng mà lẽ ra nó phải gây nên; nếu nó được viết cho đúng với yêu cầu không? Vì không biết diễn đạt những ý nghĩ của chính mình; tuy đó là những ý nghĩ khá giản đơn, tôi đã làm cho nó bị hiểu sai, và lại hiểu sai theo một hướng có phần tai hại. Lỗi tại ai đây? Tôi có nên viện cớ là đã nghe theo những thị hiếu xốc nổi của những kẻ tài tử ưa chuộng những phong cách hào nhoáng và trống rỗng không? Tôi có nên đổ lỗi cho hoàn cảnh và tuyên bố rằng vì cần kiếm kế sinh nhai mà phải cho in vội, in vàng tác phẩm của mình không? Không. Ai là người đã từng quyết chí làm tròn nhiệm vụ một cách trung thực thì không thể để cho hoàn cảnh chi phối mình được; nếu cần, thà ngửa tay ra ăn xin, chứ quyết không nhượng bộ trước những lời chê trách hời hợt hay những ước lệ giả dối của xã hội được. Người nào đã vì muốn tuân theo những ước lệ giả dối đó mà làm hỏng một tác phẩm có ích cho nước nhà, thì người đó không phải là người yêu nước. Chính vì tôi đã cảm biết được cái tính nhu nhược đáng hổ thẹn của tôi, cái tính hèn nhát đáng khinh của tôi, nỗi bất lực của lòng yêu nước của tôi; cho nên tôi mới nghe thấu được lời trách móc đau xót mà tất cả những sự vật đang ở trong nưóc Nga đã lên tiếng nói với tôi. Nhưng một sức mạnh cao cả đã nâng tôi dậy; không có lỗi lầm nào không bổ cứu được; và tuy lúc đầu tôi đã chán nản trước cảnh tượng những không gian hoang vắng, về sau chính cảnh tượng ấy đã làm cho tôi đầy nhiệt tình: tôi đã thấy khoảng không vô tận ấy là một môi trường hoạt động tuyệt vời. Và tự đáy lòng tôi đã thốt lên lời kêu gọi đất nước Nga: “- Chẳng phải Ngươi vốn có sứ mệnh sinh ra những bậc anh hùng đó sao? Ngươi hiến cho họ biết bao nhiêu là không gian để xây dựng sự nghiệp!” Đó không phải là một câu văn viết cho kêu để lòe người, cũng không phải là một lời huênh hoang. Không: lời kêu gọi đó tôi thốt ra tự đáy lòng, và đến nay lòng tôi vẫn còn rung cảm vì nó. Giờ đây, sống ở nước Nga bất cứ lúc nào người ta cũng có thể trở thành một bậc anh hùng. Mỗi địa vị, mỗi chức vụ đều đòi hỏi bản lĩnh anh hùng. Mỗi người trong chúng ta đã làm ô uế tính chất thiêng liêng của địa vị và chức vụ của mình (tất cả mọi chức vụ đều thiêng liêng), đến nỗi phải có những sự cố gắng anh dũng mới đưa được địa vị và chức vụ trở lại trạng thái cao cả thích đáng. Trực giác tôi đã cảm thấy được sự nghiệp cao quý ấy, sự nghiệp ngày nay chỉ dành cho dân tộc Nga mà thôi; vì chỉ có dân tộc Nga biết được chủ nghĩa anh hùng và thấy trải ra trước mắt mình những khoảng không vô tận như vậy. Chính vì thế mà tôi đã thốt lên lời than kia, lời than mà người ta đã tưởng lầm là một biểu hiện của tính kiêu ngạo, một lời huênh hoang. 1843 III. Tôi lấy làm lạ rằng một người am hiểu lòng người như anh mà lại có thể đi hỏi tôi những câu ngớ ngẩn chẳng khác gì những người khác. Phần lớn những câu hỏi ấy đều liên quan đến phần sau này của bộ sách: tò mò như vậy mà làm gì? Chỉ có mỗi một câu hỏi thật là tế nhị và xứng đáng với anh; và tuy cũng chưa dám chắc là có thể trả lời một cách thỏa đáng, tôi vẫn ước ao rằng có những người khác cũng hỏi tôi câu đó. Cụ thể là: tại sao những nhân vật trong các tác phẩm gần đây của tôi, nhất là trong Những linh hồn chết, tuy không phải là những bức chân dung của người thật, lại cũng chẳng có gì hấp dẫn cho lắm, mà sao vẫn có vẻ thân thuộc, gần gũi với chúng ta; tưởng như có thể tìm thấy ở các nhân vật đó những nét riêng của bản thân mình? Mới năm ngoái đây thôi, giá có ai hỏi như vậy, dù người đó là anh đi nữa, thì tôi sẽ lúng túng, khó trả lời. Nhưng bây giờ thì tôi xin thú hết: sở dĩ các nhân vật của tôi gần gũi với lòng người là vì chúng ở lòng người mà ra; tất cả những tác phẩm gần đây của tôi đều là lịch sử của tâm hồn tôi. Để anh hiểu rõ hơn những điều này, tôi xin giãi bày để anh rõ tôi là nhà văn như thế nào. Người ta đã bình luận về tôi khá nhiều: người ta đã xác định một số khía cạnh trong tài năng của tôi, nhưng vẫn chưa nhận ra nét căn bản của nó. Puskin là người duy nhất đã nhận thấy nét đó. Puskin vẫn nói với tôi rằng chưa có nhà văn nào có được đến mức như tôi, cái năng khiếu làm hiện rõ sự nhạt nhẽo của cuộc đời, làm cho sự tầm thường dung tục nổi lên, sắc sảo đến nỗi những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đập ngay vào mắt người ta. Đó chính là cái khả năng thiên bẩm trội nhất của tôi, cái khả năng mà quả nhiên không còn nhà văn nào có. Tôi bẩm sinh đã có khả năng đó, và sau một cơn khủng hoảng tinh thần, nó lại càng phát triển thêm. Và đó chính là điều mà dạo ấy tôi chưa thể thú nhận, dù là với Puskin cũng vậy. Trong Những linh hồn chết, khả năng đó còn thể hiện một cách mạnh mẽ hơn nữa. Sở dĩ Những linh hồn chết đã làm cho nước Nga hoảng sợ và đã gây nên nhiều tiếng xôn xao như vậy, không phải là vì nó phát hiện những ung nhọt hay những bệnh tật ở bên trong; đó không phải là vì nó bày ra cái cảnh đắc thắng của sự xấu xa và cái cảnh những người vô tội bị áp bức, khiến người ta sửng sốt. Không, các nhân vật của tôi không phải là những kẻ vô lại. Tôi chỉ cần thêm một nét dễ ưa vào một trong các nhân vật đó là bạn đọc sẽ vừa lòng với tất cả các nhân vật khác; nhưng vẻ tầm thường dung tục của toàn thể khiến bạn đọc ghê tởm. Các nhân vật của tôi nối đuôi nhau xuất hiện, nhân vật này lại tầm thường hơn nhân vật kia; và độc giả hoài công đi tìm một đoạn có thể an ủi mình, một nơi có thể dừng lại để thở; gấp sách lại, bạn đọc tưởng như vừa từ cái hầm ngột ngạt bước ra để trở lại với ánh mặt trời. Giá đó là những tên gian phi có lắm màu, lắm vẻ đẹp mắt, thì hẳn người ta đã bỏ quá cho tôi; đằng này lại là những kẻ rất mực tầm thường, nên người ta không dung thứ được. Sự vô nghĩa lý của người Nga đã làm cho bạn đọc hoảng sợ hơn là những thói hư tật xấu của họ. Đáng khen thay nỗi kinh hoàng đó! Đã thấy ghê tởm như vậy trước sự đê tiện, hẳn phải có những đức tính trái ngược với sự đê tiện. Vậy thì cái khả năng trội nhất của tôi chính là ở chỗ đó; và xin nhắc lại rằng cái khả năng ấy lẽ ra không phát triển mạnh như vậy nếu tâm trạng của tôi và quá trình diễn biến tinh thần của tôi không góp sức vào đấy. Trong các bạn đọc của tôi, không có ai biết rằng trong khi cười các nhân vật của tôi, họ cũng cười cả chính bản thân tôi đó. Tôi không có một tật xấu, một đức tính nào đủ mạnh để chế ngự các tật xấu, các đức tính khác; ngược lại, tất cả những tính xấu mỗi cái một tí, đều họp nhau trong con người tôi; tôi chưa từng thấy ai tập họp nhiều tính xấu như thế. Thượng đế đã phú cho tôi một bản tính rất phức tạp. Người đã cho tôi một vài đức tính; đức tính đẹp nhất mà tôi không biết làm thế nào để tạ ơn người, là ước vọng tu thân. Tôi chưa bao giờ thích thú với những thói xấu của mình và cũng may mà Thượng đế chí nhân đã cho tôi phát hiện dần từng thói xấu một chứ không phải đột nhiên khám phá ra tất cả một lúc, trong khi tôi chưa quan niệm được lòng từ bi vô cùng vô tận của Người; nếu không thì chắc chắn tôi đã treo cổ mà chết cho rồi. Trong khi tôi dần dần phát hiện ra những tính xấu của mình, thì một sự xui khiến kỳ diệu của bề trên làm cho tôi tăng thêm ý muốn trút bỏ những tính xấu đó đi; một cơn khủng hoảng tinh thần kỳ dị đã thúc đẩy tôi chuyển những tính xấu đó cho các nhân vật của tôi. Cơn khủng hoảng đó cụ thể ra sao thì anh cũng không nên biết làm gì; ví thử điều đó có chút gì bổ ích cho bất cứ ai, thì tôi đã nói ra từ lâu rồi. Từ dạo ấy, tôi bắt đầu lấy những tính xấu của tôi thêm vào các tính xấu của nhân vật. Tôi làm như thế này: tôi lấy tính xấu của tôi gán cho một người nào mà cương vị và chức vụ khác tôi, rồi theo dõi tác dụng của nó trong người ấy; tôi cố gắng hình dung người đó là một kẻ thù không đội trời chung của tôi, đã từng lăng nhục tôi một cách tàn tệ; tôi hằn học, chế nhạo, dè bỉu hắn. Giá có ai trông thấy những quái vật mà ngòi bút tôi đã vẽ ra lúc đầu, người đó hẳn phải rùng mình, sởn gáy. Tôi chỉ xin nói với anh rằng khi nghe tôi đọc những chương đầu của Những linh hồn chết dưới dạng thức nguyên sơ, thì Puskin, - tính vốn hay cười xưa nay và bao giờ cũng vui lên khi nghe tôi đọc, - lần này lại cau mặt, mỗi lúc một thêm ủ dột. Khi tôi đọc xong, Puskin thốt lên, giọng thảm đạm: “Trời ơi, nước Nga của chúng ta thật buồn quá!” ... Mời các bạn đón đọc Những Linh Hồn Chết của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chút Phận Linh Đinh
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Chút Phận Linh Đinh của tác giả Hồ Biểu Chánh.   Hiển Vinh và Thu Vân yêu nhau khi còn học ở Sài Gòn. Thu Vân có con với Hiển Vinh. Hiển Vinh xin cưới nàng, nhưng cha là ông Hội đồng Ðạt, vì quan niệm cổ hủ, không chấp thuận. Hiển Vinh buồn ra Hà Nội học và đem theo vợ con, nhưng Thu Ba, đứa con gái đầu lòng bị mắc bịnh bất ngờ nên phải ở lại Sài Gòn nhờ chị vú Hai Thình tạm giữ và sẽ đem ra Bắc sau khi hết bịnh. Ở Bắc Thu Vân sanh thêm Thu Cúc; Hiển Vinh tốt nghiệp trường thuốc và xin ở lại Hà Nội làm việc. Thời gian sau Hiển Vinh muốn qua Pháp học thêm bằng bác sĩ với hy vọng cha sẽ tha thứ. Chiếc tàu chở Hiển Vinh sang Pháp bị tàu lặn Ðức bắn chìm, hành khách không ai sống sót, Thu Vân buồn rầu đem con vào Nam, tính giao nó cho cha chồng nuôi rồi sẽ chết theo chồng. Vô tới Sài Gòn, Thu Vân tìm Thu Ba bị thất lạc và tình cờ gặp lại Hai Thình. Hai Thình cho biết Thu Ba đã bị đem bán cho người khác. Thu Vân buồn nản bị bịnh nên tạm ở nhà Hai Thình để tiếp tục tìm con, nhưng bị vợ chồng Hai Thình gạt lấy hết của cải. Cuộc sống linh đinh của hai mẹ con bắt đầu từ đó. Thu Vân dẫn Thu Cúc về quê chồng để giao cho ông Hội đồng nuôi dưỡng. Nhưng hai mẹ con sợ ông còn giận nên tạm xin vào làm ở lò gạch của ông để chờ cơ hội tốt thổ lộ. Tại đây Thu Cúc khám phá ra nhiều bí mật... *** Tóm tắt Chút Phận Linh Đinh là một tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh, được xuất bản năm 1935. Tác phẩm kể về cuộc đời đầy sóng gió của hai mẹ con Thu Vân và Thu Cúc. Thu Vân và Hiển Vinh là một đôi trai tài gái sắc, nhưng vì quan niệm cổ hủ của ông Hội đồng Đạt, cha của Hiển Vinh, hai người không thể đến được với nhau. Hiển Vinh buộc phải ra Hà Nội học và đem theo Thu Vân cùng đứa con gái đầu lòng, Thu Ba. Tuy nhiên, Thu Ba bị mắc bệnh bất ngờ nên phải ở lại Sài Gòn nhờ chị vú Hai Thình tạm giữ. Ở Hà Nội, Thu Vân sinh thêm Thu Cúc. Hiển Vinh tốt nghiệp trường thuốc và xin ở lại Hà Nội làm việc. Một thời gian sau, Hiển Vinh muốn qua Pháp học thêm bằng bác sĩ với hy vọng cha sẽ tha thứ. Tuy nhiên, chiếc tàu chở Hiển Vinh sang Pháp bị tàu lặn Đức bắn chìm, Hiển Vinh và tất cả hành khách đều thiệt mạng. Thu Vân đau buồn vô cùng. Cô quyết định đem Thu Cúc vào Nam, tính giao cho ông Hội đồng Đạt nuôi rồi sẽ chết theo chồng. Tuy nhiên, khi đến Sài Gòn, Thu Vân biết được Thu Ba đã bị Hai Thình bán cho người khác. Thu Vân và Thu Cúc đành tạm ở nhà Hai Thình để tiếp tục tìm con. Tuy nhiên, Hai Thình là một người tham lam và độc ác. Cô đã lừa gạt Thu Vân lấy hết của cải và đuổi cô ra khỏi nhà. Hai mẹ con Thu Vân đành bắt đầu cuộc sống linh đinh. Họ xin vào làm ở lò gạch của ông Hội đồng Đạt để chờ cơ hội tốt thổ lộ. Tại đây, Thu Cúc đã khám phá ra nhiều bí mật của gia đình chồng. Cảm nhận Chút Phận Linh Đinh là một tiểu thuyết có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã phản ánh chân thực cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tiểu thuyết cũng mang đến nhiều thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về tình yêu, và tình cảm gia đình. Tác giả Hồ Biểu Chánh đã phê phán mạnh mẽ xã hội phong kiến với những hủ tục lạc hậu, những bất công, áp bức. Đồng thời, tác giả cũng ca ngợi tình yêu chân thành, thủy chung, và tình cảm gia đình thiêng liêng. Tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn mang đậm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Hồ Biểu Chánh cũng rất thành công. Đánh giá Chút Phận Linh Đinh là một tiểu thuyết xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tiểu thuyết được đánh giá 4/5* vì những điểm mạnh sau: Giá trị nhân văn sâu sắc Mang đến nhiều thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về tình yêu, và tình cảm gia đình Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật thành công Tuy nhiên, tác phẩm cũng có một số hạn chế sau: Cốt truyện khá đơn giản, chưa có nhiều điểm nhấn Kết thúc truyện có phần hơi dễ đoán *** Hồ Biểu Chánh (1/10/1885 - 4/11/1958) tên thật Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên. Hồ Biểu Chánh là bút hiệu được ông ghép từ họ và tên tự. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, thuở nhỏ phải chịu nhiều vất vả, thiếu thốn. Sau này nhờ chăm chỉ học hành, ông thi đậu bằng Thành chung rồi làm việc cho chính phủ Pháp, dần dần được thăng tới chức Đốc phủ sứ. Ông bước chân vào làng văn từ rất sớm, bắt đầu bằng việc học chữ Hán và dịch truyện Tàu, kế đó sáng tác thêm ở rất nhiều thể loại như truyện thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo, tùy bút phê bình, kịch bản tuồng... Cho đến khi mất, ông đã để lại cho đời một gia tài văn chương đồ sộ với hơn 100 tác phẩm, trong đó có 64 cuốn tiểu thuyết, hầu hết đều được công chúng đón nhận hết sức nồng nhiệt. Mời các bạn mượn đọc sách Chút Phận Linh Đinh của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Ăn Theo Thủa Ở Theo Thời
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ăn Theo Thủa Ở Theo Thời của tác giả Hồ Biểu Chánh. "Lối 4 giờ chiều, nhờ mấy cây cồng lớn của làng trồng chung quanh nhà việc Tiểu Cần che áng mặt trời, nên cái sân rộng trước nhà việc, kêu là sân chợ cũ, có chỗ còn nắng, mà có chỗ đã mát. Một chút bán mì thánh, để gánh trên lề đường, đứng gõ sanh lắc cắc cụp. Một chị bán chè thưng đi dọc theo trước phố rao hàng tiếng nghe ngọt xớt. Sắp con nít tựu mấy chỗ có bóng mát mà trửng giỡn, đứa chạy rần rật, đứa la om sòm...". "Đời này chẳng còn luân lý nhơn nghĩa gì nữa hết. Phải gian xảo mới được người ta kính phục. Phải có tiền mới được người ta thương yêu" - Hà Tấn Phát, nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết này đã nhìn nhận về nhân tình thế thái như thế sau những trải nghiệm chán ngán về tình đời, tình người. Từ một thầy giáo trẻ hăm hở bước vào nghề, vào đời, anh đã vấp phải nhiều sự thật cay đắng... Viết bộ tiểu thuyết này, dụng ý của Hồ Biểu Chánh chính là "vẽ nẻo hẹp đường co, cho thiên hạ vui mà xông vào, hoặc may có người chán ngán mà giật mình trở bước"... *** Sự chuyển biến trong suy nghĩ và lối sống của thầy giáo Phát đã thể hiện một phương châm sống “Ăn theo thuở, ở theo thời”. Thế nhưng đây không phải là sự xu thời và chuyển biến theo lối tiêu cực. Hồ Biểu Chánh cũng đã gởi lại những nội dung giáo dục bổ ích. Thầy giáo Phát trẻ tuổi, vừa tốt nghiệp và được phân về dạy lớp nhứt ở Tiểu Cần. Ở trường thầy dạy giỏi, được học trò yêu mến. Trong cuộc sống thầy giữ gìn nhân nghĩa đạo đức ở đời. Thế nhưng trong cuộc sống mà luân thường đạo lý bị xem nhẹ và được đặt dưới kim tiền nên thầy Phát không những không được mọi người kính trọng, yêu mến mà còn bị xa lánh, xem thường. Sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, được quan sát và trải nghiệm thời cuộc, thầy Phát mới nhận ra rằng “Ăn theo thuở, ở theo thời” mới phù hợp với đời sống xã hội. *** Hồ Biểu Chánh- tên thật Hồ Văn Trung, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn Giao thời 1900 - 1930. Tiểu thuyết của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới,... *** Tóm tắt Ăn Theo Thủa Ở Theo Thời là một tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh, được xuất bản năm 1935. Tác phẩm kể về cuộc đời của Hà Tấn Phát, một thầy giáo trẻ hăm hở bước vào nghề, vào đời. Từ một chàng trai quê nghèo, Hà Tấn Phát đã vượt qua nhiều khó khăn để trở thành một thầy giáo. Tuy nhiên, anh sớm nhận ra rằng, cuộc sống của một thầy giáo ở làng quê không hề dễ dàng. Anh phải đối mặt với sự nghèo khó, sự lạc hậu của người dân, và sự áp bức của xã hội phong kiến. Hà Tấn Phát cũng vấp phải nhiều sự thật cay đắng về tình đời, tình người. Anh bị người bạn thân phản bội, bị người yêu bỏ rơi, và bị chính cha mẹ mình chối bỏ. Những trải nghiệm này khiến Hà Tấn Phát trở nên chán ngán với cuộc đời. Anh bắt đầu thay đổi cách sống của mình, trở nên gian xảo và bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích. Cuối cùng, Hà Tấn Phát cũng đạt được thành công trong sự nghiệp, nhưng anh cũng đánh mất đi những giá trị tốt đẹp của bản thân. Cảm nhận Ăn Theo Thủa Ở Theo Thời là một tiểu thuyết có giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm đã phản ánh chân thực cuộc sống của người dân làng quê Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Tiểu thuyết cũng mang đến nhiều thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về tình người. Tác giả Hồ Biểu Chánh đã phê phán mạnh mẽ xã hội phong kiến với những hủ tục lạc hậu, những bất công, áp bức. Đồng thời, tác giả cũng lên án những con người sống gian xảo, bất chấp thủ đoạn. Tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn mang đậm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Hồ Biểu Chánh cũng rất thành công. Đánh giá Ăn Theo Thủa Ở Theo Thời là một tiểu thuyết xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tiểu thuyết được đánh giá 4/5* vì những điểm mạnh sau: Giá trị hiện thực sâu sắc Mang đến nhiều thông điệp sâu sắc về cuộc sống, về tình người Ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật thành công Tuy nhiên, tác phẩm cũng có một số hạn chế sau: Cốt truyện khá đơn giản, chưa có nhiều điểm nhấn Kết thúc truyện có phần hơi dễ đoán Mời các bạn mượn đọc sách Ăn Theo Thủa Ở Theo Thời của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Siêu Thoát
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Siêu Thoát của tác giả Jodi Picoult & Trần Thị Nhật Trang (dịch). Jenna là một cô bé 13 tuổi, quyết tâm đi tìm người mẹ bị mất tích trong khu bảo tồn voi 10 năm trước đó. Lần theo cuộc tìm kiếm của Jenna và những người hỗ trợ em - một nhà ngoại cảm, một viên thám tử tư - câu chuyện đưa chúng ta vào thế giới loài voi vô cùng sống động, pha trộn với một chiều không gian khác - nơi nhà ngoại cảm có thể tiếp xúc với các linh hồn, và kết thúc không thể bất ngờ hơn. Một câu chuyện siêu thực gây xúc động sâu sắc về tình mẫu tử, tình đồng loại, với bút pháp xuất sắc của tiểu thuyết gia lừng danh Jodi Picoult. *** SIÊU THOÁT – CHUYỆN ĐỜI VOI VÀ CHUYỆN ĐỜI NGƯỜI Liệu những chương trình trên tivi, những gì bạn đọc được trong sách báo về các loài voi và cuộc sống của chúng là đầy đủ? Hãy để Jodi Picoult dẫn bạn vào thế giới huyền bí nhưng cũng hết sức chân thực về cuộc sống của loài voi.“Siêu thoát” là một cuốn tiểu thuyết được Jodi Picoult lấy cảm hứng từ những bài viết bà đọc được trên tạp chí National Geographic, kể về sự gắn liền của voi mẹ và voi con đến suốt đời, chỉ khi nào một trong hai chết thì mới thôi. Thêm vào đó là hoàn cảnh của gia đình bà, khi mà cả 3 cô con gái đều rời gia đình khiến bà cảm thấy cô đơn. “Siêu thoát” được nhà văn kể bằng ngôi thứ nhất nhưng với nhiều vai kể khác nhau. Tác giả đem đến cho ta những hiểu biết thú vị về các loài voi Châu Á, Châu Phi, những tập tính, thói quen, tâm lí của chúng cùng với mối quan hệ hết sức khăng khít của voi mẹ và voi con.  Trước tiên, Jodi Picoult đã khơi lên trong lòng các bạn đọc sự tò mò và thú vị qua những câu thơ: “Làm thế nào giải thích được vẻ đẹp của tôi Tao nhã nhưng hùng mạnh Một mầm sống trong tôi Cơ thể như được bơm căng lên bởi một cậu bé nghịch ngợm Đã có một thời tôi chỉ như một chú chim ưng Đã có một thời tôi nhỏ bằng một con sư tử Khi không là voi tôi mới nhận ra mình là ai. Kiệt sức rã rời, vẫn bị chủ mắng vì một trò mua vui bị hỏng Vì đôi chút buồn ngủ Vì đã tập luyện trong lều suốt cả đêm qua Người ta thường hay liên tưởng tôi với nỗi buồn sâu xa. Randall Jarrell so sánh tôi với một nhà thơ người Mỹ, Wallace Stevens. Tôi có thể thấy điều đó qua những vần thơ lộn xộn Nhưng trong tâm trí, tôi lại thấy mình là Elicot, Một người Châu Âu Một con người của sự rèn luyện Có ai mà ung dung được như thế Cam chịu âm thầm nhưng bồn chồn lo sợ Những cuộc trình diễn thăng bằng ngoạn mục Những tiết mục trên dây và leo lên chóp Không, tôi không thích những điều đó Loài voi chúng tôi tượng trưng cho tính khiêm tốn Trong những cuộc hành trình  u sầu đến chỗ chết Lặng lẽ không kèn không trống của chúng tôi Của những chú voi đã được học cách viết mẫu tự Hy Lạp bằng chân, Bạn có biết điều đó không? Tả tơi vì đau đớn, chúng tôi nằm ngửa nhìn lên trời, lăn lộn trên mềm cỏ, Không phải để cầu nguyện Mà như là một cách để quên đi. Cuộc hành trình dài đằng đẵng của chúng tôi Không phải là sự khiêm nhường mà là sự trì hoàn Đau đớn làm sao khi cơ thể nặng nề của tôi nằm xuống.” Đó là những lời tâm sự hết sức nhẹ nhàng mà thấm đượm bao nỗi buồn của chú voi trước những gì xảy ra ở hiện tại. Những lời đó tưởng chừng như là chú voi nói với chính bản thân nhưng thực chất lại là lời cảnh tỉnh cho con người, những việc làm tàn nhẫn mà con người đã làm đối với chúng, ép buộc chúng mua vui cho con người, v.v… Nhưng đâu đó, vẫn có những con người yêu quý và bảo vệ loài voi như Alice. Cô sinh ra và lớn lên gần gũi với thiên nhiên và động vật, đặc biệt là loài voi. Cô đã nghiên cứu, tìm hiểu, yêu thương và chăm sóc chúng, thậm chí vợ chồng cô còn xây một khu bảo tồn cho những chú voi, đưa chúng về chăm nom và yêu thương.  Tuy nhiên, “Siêu thoát” không chỉ là một câu chuyện về tình yêu thương giữa con người và loài voi mà còn là một câu chuyện kỳ bí về tình mẫu tử thiêng liêng cao cả. Jenna là một cô bé 13 tuổi đang tìm kiếm mẹ Alice mất tích 10 năm trước sau một tai nạn bi thảm ở khu bảo tồn. Đó là một nhiệm vụ đơn độc nhưng hết khó khăn và gian nan, vì ba em đang điều trị trong bệnh viện tâm thần và người chăm sóc em là bà ngoại em – người không hề muốn nhắc đến những chuyện này một chút nào. Jenna đã phải tìm hiểu và nhờ cậy Serenity Jones – một nhà ngoại cảm thất thế và Virgil Stanhope – một nhà thám tử tư nghiện rượu. Thế là cuộc hành trình của Jenna bắt đầu với những bí ẩn bị chôn vùi từ lâu nay dần được hé lộ qua những vết tích, bằng chứng còn sót lại suốt nhiều năm qua. Những hiểu lầm, thương tiếc, những câu chuyện cảm động đã dẫn dắt bạn đọc đi đến hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, để cuối cùng đi đến những kết luận không thể ngờ được.   Đối với tôi, đây là một câu chuyện hết sức cảm động và ý nghĩa không chỉ nói lên mối lên mối quan hệ giữa con người và loài voi mà còn là một câu chuyện tình mẫu tử thiêng liêng, đẹp đẽ. Tôi mong rằng câu “Siêu thoát”  sẽ đem đến cho bạn những điều ý nghĩa nhất.  Tsuki Nguồn: sachhay.vn *** Tóm tắt Jenna là một cô bé 13 tuổi sống tại thị trấn nhỏ Tuskegee, Alabama. Khi Jenna lên 3 tuổi, mẹ cô, Sarah, đã biến mất trong khu bảo tồn voi, nơi cô làm việc như một nhà khoa học. Kể từ đó, Jenna đã sống cùng ông nội và bà ngoại, nhưng cô luôn khao khát tìm thấy mẹ mình. Một ngày nọ, Jenna gặp gỡ một nhà ngoại cảm tên là Grace, người nói với cô rằng linh hồn của mẹ cô đang ở trong khu bảo tồn voi. Jenna quyết định đi tìm mẹ, và cô bắt đầu hành trình của mình với sự giúp đỡ của Grace và một viên thám tử tư tên là Virgil. Cuộc tìm kiếm của Jenna đưa cô đến với nhiều người và những câu chuyện khác nhau. Cô gặp gỡ những người làm việc trong khu bảo tồn voi, những người đã chứng kiến sự biến mất của mẹ cô. Cô cũng gặp gỡ những người có khả năng ngoại cảm, những người có thể giúp cô kết nối với linh hồn của mẹ cô. Càng đi sâu vào cuộc tìm kiếm, Jenna càng hiểu rõ hơn về mẹ mình và về thế giới của loài voi. Cô cũng học được cách đối phó với nỗi đau mất mát và cách tìm thấy sức mạnh để tiếp tục sống. Cảm nhận Siêu Thoát là một câu chuyện siêu thực gây xúc động sâu sắc về tình mẫu tử, tình đồng loại, với bút pháp xuất sắc của tiểu thuyết gia lừng danh Jodi Picoult. Câu chuyện được kể từ góc nhìn của Jenna, một cô bé 13 tuổi với tâm hồn nhạy cảm và trái tim đầy yêu thương. Jenna là một nhân vật rất dễ mến, và độc giả sẽ dễ dàng đồng cảm với cô bé trong hành trình tìm kiếm mẹ của mình. Tác giả Jodi Picoult đã xây dựng một thế giới loài voi vô cùng sống động và chân thực. Cô đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về loài voi, và điều đó thể hiện rõ trong tác phẩm của cô. Những chi tiết về tập tính, hành vi, và văn hóa của loài voi được miêu tả một cách tỉ mỉ và hấp dẫn, mang đến cho độc giả những hiểu biết mới về loài động vật này. Bên cạnh đó, câu chuyện còn mang đến những thông điệp sâu sắc về tình mẫu tử, tình đồng loại, và ý nghĩa của cuộc sống. Tình mẫu tử là một tình cảm thiêng liêng và bất diệt, vượt qua mọi rào cản của không gian và thời gian. Tình đồng loại là sức mạnh giúp con người vượt qua những khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Và ý nghĩa của cuộc sống là tìm kiếm và thực hiện những điều mình yêu thích, cũng như giúp đỡ những người xung quanh. Nhìn chung, Siêu Thoát là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, xứng đáng được đọc và thưởng thức. Đây là một câu chuyện sẽ khiến bạn xúc động, suy ngẫm, và thay đổi cách nhìn nhận về thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Siêu Thoát của tác giả Jodi Picoult & Trần Thị Nhật Trang (dịch).
Theo Đuổi Cassandra
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Lãng mạn Theo Đuổi Cassandra của tác giả Lisa Kleypas & Muse (dịch). Tất cả mọi thứ đều có giá của nó... Tom Severin - Ông vua ngành đường sắt, người có đủ sự giàu có và quyền lực để thỏa mãn bất kì niềm khao khát nào ngay khi nó vừa xuất hiện trước mắt anh. Bất cứ cái gì - hay bất cứ ai - đều sẽ là của anh nếu anh yêu cầu. Tìm được một người vợ hoàn hảo với anh thật ra là chuyện dễ như ăn kẹo vậy - và ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy Lady Cassandra Ravenel, anh đã quyết tâm phải có được cô. Nhưng nàng Cassandra xinh đẹp và thông minh cũng quyết tâm chỉ kết hôn vì tình yêu - thứ mà anh không thể cho cô. Mọi thứ ngoại trừ cô ấy… Severin là người đàn ông hấp dẫn và lôi cuốn nhất mà Cassandra từng gặp, ngay cả khi anh có một trái tim băng giá. Nhưng cô không có hứng thú chung sống trong thế giới giả tạo ngoài mặt của một người đàn ông tàn nhẫn, người luôn chơi để giành chiến thắng. Khi một kẻ thù mới xuất hiện để phá hoại thanh danh của Cassandra, Severin đã nắm lấy cơ hội mà anh luôn chờ đợi. Và như mọi khi, anh luôn đạt được điều anh muốn - hay là không? Có một điều mà Tom Severin vẫn chưa học được từ cô dâu mới của mình: Đừng bao giờ đánh giá thấp một Ravenel. Cuộc săn đuổi để nàng Cassandra gật đầu đồng ý lấy anh có thể đã kết thúc. Nhưng cuộc đua để chiếm lấy trái tim cô mới chỉ bắt đầu ... *** Tóm tắt Tom Severin, một nhà tài phiệt giàu có và quyền lực, luôn có được những gì anh muốn. Tuy nhiên, khi anh gặp Cassandra Ravenel, anh nhận ra rằng cô ấy là người duy nhất anh không thể chiếm được. Cassandra là một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh và độc lập, cô ấy không muốn kết hôn với một người đàn ông chỉ muốn lợi dụng cô. Severin quyết tâm có được Cassandra, anh ta sử dụng mọi thủ đoạn để buộc cô kết hôn với mình. Cassandra cuối cùng cũng đồng ý lấy anh, nhưng cô ấy chỉ làm vậy để bảo vệ danh tiếng của gia đình. Severin và Cassandra bắt đầu cuộc sống hôn nhân của họ với rất nhiều căng thẳng. Severin cố gắng chiếm lấy trái tim Cassandra, nhưng cô ấy chỉ càng xa lánh anh hơn. Tuy nhiên, khi một kẻ thù mới xuất hiện để đe dọa Cassandra, Severin đã phải đối mặt với thử thách lớn nhất trong cuộc đời anh: bảo vệ người phụ nữ anh yêu. Review Theo Đuổi Cassandra là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn cổ điển với những nhân vật hấp dẫn và cốt truyện lôi cuốn. Tác giả Lisa Kleypas đã xây dựng thành công một thế giới đầy xa hoa và hào nhoáng của giới thượng lưu Anh Quốc thế kỷ 19. Tom Severin là một nhân vật nam chính điển hình của tiểu thuyết lãng mạn: anh ấy là một người đàn ông giàu có, quyền lực và quyến rũ. Tuy nhiên, Severin cũng là một người đàn ông phức tạp và đầy mâu thuẫn. Anh ấy là một người đàn ông có trái tim băng giá, nhưng anh ấy cũng là một người đàn ông yêu thương và bảo vệ người phụ nữ anh ấy yêu. Cassandra Ravenel là một nhân vật nữ chính mạnh mẽ và độc lập. Cô ấy là một người phụ nữ có ý kiến ​​và không ngại đứng lên bảo vệ bản thân. Cassandra là một người phụ nữ đáng ngưỡng mộ và là một người bạn đồng hành tuyệt vời cho Severin. Cuốn tiểu thuyết có những tình tiết kịch tính và bất ngờ. Kleypas đã khéo léo đan xen những tình tiết lãng mạn với những tình tiết hồi hộp, tạo nên một tác phẩm hấp dẫn và khó quên. Đánh giá chung Theo Đuổi Cassandra là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn cổ điển đáng đọc. Cuốn tiểu thuyết có những nhân vật hấp dẫn, cốt truyện lôi cuốn và những tình tiết kịch tính. Mời các bạn mượn đọc sách Theo Đuổi Cassandra của tác giả Lisa Kleypas & Muse (dịch).