Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Bỏ Thế Giới Vàng - Jack London

Nếu hỏi: “Văn chương ảnh hưởng thế nào đến một con người?”, c'u trả lời xác đáng phải là: “Vô cùng lớn lao!”. Đó là khi người đọc và nh'n vật biểu trưng cho cái tôi của nhà văn đồng cảm tuyệt đối. Điều đó thay đổi hoàn toàn cuộc đời, cái nhìn của người đọc. Tôi tìm thấy nó trong tác phẩm Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London. Mọi việc vẫn bắt đầu từ tủ sách thần thánh của ba. Đó là ngày tôi bỏ qua các cuốn tiểu thuyết của Jack London để đọc Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata. Ba tôi không cấm nhưng sớm cảnh báo: – Con có thể đủ sức đọc hết nhưng chưa đủ kiến thức để hiểu nội dung của nó! Ở cái tuổi đang lớn với đầu óc chứa đầy ương bướng nổi loạn, tôi kiên trì đọc Người Đẹp Ngủ Mê rồi không sao thấu nổi. Ba mới chìa cho tôi cuốn Từ Bỏ Thế Giới Vàng: – Đ'y là cuộc đời thực mà con nên đọc qua! Chất ương bướng ở tuổi mười ba đã ngấm đòn sau khi đầu hàng trước tính dục, bản ngã trong thế giới Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata, tôi ngoan ngoãn bước vào nơi hoàn toàn thay đổi cái nhìn, ý thức về cuộc đời. Nó ảnh hưởng đến sau, sau này và mãi mãi. Đến lúc viết những dòng này, thành một con người hoàn toàn đứng trên đôi ch'n của mình, từ bỏ được “thế giới vàng” phù phiếm của mình, tôi viết với sự biết ơn s'u sắc tác giả Jack London đã sáng tạo ra Ánh Sáng Ban Ngày, nh'n vật trung t'm của tiểu thuyết. Và hơn hết, tôi nhận ra từ phúc phần ở tủ sách thần thánh của ba mình. Từ Bỏ Thế Giới Vàng với nh'n vật trung t'm Ánh Sáng Ban Ngày. Anh ta có tên hẳn hoi là Elam Harnish, nhưng đã từ l'u không còn ai buồn nhớ chơi đến cái tên đó. Họ gọi anh là Ánh Sáng Ban Ngày, do thói quen sôi động và đem sự sôi động đến mọi người chung quanh, đặc biệt ưa giật chăn những kẻ ngủ lười với bài hát “Trời đã sáng bét ra rồi kìa, mấy ông bạn đi tìm linh cảm ở sông Stewart? Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa!”. Tiểu thuyết vẽ ra thế giới những kẻ đào vàng ở miền cực. Nơi lý lẽ thuộc về kẻ mạnh và nòng súng nếu anh may mắn bóp cò nhanh hơn đối phương. Ở đó đức tin về Chúa chỉ mang tính tượng trưng, nơi quá xa xăm mà ánh sáng công lý vươn tới được, chỉ những gã đàn ông liều lĩnh, khẳng khái ưa đem mạng mình đánh cược với Mẹ Thiên Nhiên mới sống nổi. Và Ánh Sáng Ban Ngày là kẻ liều lĩnh, khẳng khái, can đảm nhất trong số đó. Anh ta lăn lộn qua mọi khó khăn, đánh liều khai phá những nơi mà mọi tay can đảm đều chần chừ. Hầu như khi đến tận cùng giới hạn, anh luôn tìm mọi cách vượt qua bằng sự khéo léo, sức mạnh cơ bắp, khối óc minh mẫn và sự liều lĩnh đã thành nết. Sau khi trúng được vố to nhất trong những năm đằng đẵng “đãi tuyết tìm vàng”, Ánh Sáng Ban Ngày quyết định từ bỏ vùng cực, quay về thế giới văn minh để làm ăn. “Một anh ngố rừng”, một “con hưu sừng tấm đầu đàn thô lậu”….và hàng loạt những từ ngữ ví von khác mà người đọc có thể nghĩ ra để ví von, Ánh Sáng Ban Ngày trúng ngay quả lừa đau đớn mất sạch cả gia tài. Anh, kẻ đến Mẹ Thiên Nhiên cũng phải chào thua để nhường đường nhất định không cam chịu bị những tay thành thị ẻo lả trong các bộ độ vét lừa lọc, đã dùng đúng cách d'n đào vàng lấy lại tất cả những gì thuộc về mình. Vố đau này khiến Ánh Sáng Ban Ngày hoàn toàn trở nên thay đổi t'm tính. Anh nhận ra những kẻ thành thị làm ăn toàn là các tay chơi bạc bịp, mà trong việc chơi bài, bịp bợm thì phải bị xử lý thích đáng kèm theo thái độ khinh khi rõ ràng. Điều này khác hẳn thế giới vùng cực hoang sơ của anh, các tay đào vàng chơi bài với sự thẳng thắn và lòng tin tuyệt đối vào nhau. Lắm lúc tiền cược lên đến vài chục ngàn đô-la nhưng ký nợ chỉ vẻn vẹn là mẫu giấy nhỏ, thậm chí chẳng hề viết tên con nợ. Nhưng chưa từng có ai quỵt nhau hay gian dối bao giờ. Ánh Sáng Ban Ngày là tay đánh bạc gan dạ và ngay thẳng. Một khi thế giới văn minh chơi bịp thì anh sẽ dùng chính lối đó để đối xử lại. Anh về San Francisco, mau chóng trở thành con cá mập hung hãn trong thế giới kinh doanh, bằng chiến thuật đơn giản là xé xác để mau chóng th'u tóm và leo lên đỉnh cao của Thế Giới Vàng Thực Sự. Thế giới hoang sơ vùng cực không làm anh chai sạn nhưng thế giới văn minh thị thành đã khiến bản chất của anh từ từ chuyển sang khô cứng, độc ác và hầu như vô cảm. May thay, một cô nàng nhỏ nhắn và mỏng manh tới mức Ánh Sáng Ban Ngày có thể dùng tay kéo dài và thắt nút đã 'm thầm, len lỏi một cách vô hình vào cuộc đời anh. Dede, người phụ nữ từ chối yêu anh chỉ vì anh quá giàu. Người phụ nữ chỉ muốn có một đức ông chồng bình thường, ngày này qua ngày khác sống bên cạnh mình để cùng chia sự nghèo khó trong hạnh phúc. Người phụ nữ ấy cứu rỗi hoàn toàn cuộc đời tưởng chừng như hoang phế của Ánh Sáng Ban Ngày, thổi bùng những bản tính tươi đẹp bị cuộc sống thị thành chôn vùi, trả lại cho “niềm tự hào của vùng cực” một gã đàn ông từng khiến Mẹ Thiên Nhiên phải nghiêng mình cúi chào. Một gã đàn ông mà nàng đã yêu say đắm từ ngày đầu tiên vì chất đàn ông luôn tràn ra bên ngoài. Ánh Sáng Ban Ngày từ bỏ cái Thế Giới Vàng tài chính của mình, cùng Dede về vùng đồi đã mua từ trước sống cuộc đời nông d'n yên bình với chăn nuôi, trồng trọt. Ngày trước chỉ cần hất tay, anh đã mua được cả San Francisco, còn b'y giờ muốn mua một bộ dụng cụ nhỏ thì anh phải canh nhặt từng quả trứng gà để tích góp, đôi khi đi sửa chữa giúp hàng xóm hòng có đủ tiền. Đ'y là giai đoạn hạnh phúc nhất trong đời Ánh Sáng Ban Ngày. Nhưng cuộc sống vẫn luôn muốn thử thách lòng tham con người, ít ra là lòng tham ở kẻ từ đỉnh cao giàu sang trở thành gã nông d'n tầm thường ở Ánh Sáng Ban Ngày. Lần nọ có một đoạn ống nước bị vỡ ở triền đồi, Ánh Sáng Ban Ngày vô tình phát hiện ra mạch vàng trong lúc sửa chữa. Bản tính một tay đào vàng khét tiếng trỗi dậy, anh lần mò, đào xới, cuối cùng thấy được vàng nổi lên tận ch'n cỏ. Đúng là một Thế Giới Vàng đích thực. Tuy nhiên, Ánh Sáng Ban Ngày đã đánh đổi quá nhiều để có được tình yêu bình dị đến tầm thường từ Dede. Và cô quan trọng với anh tới mức chẳng có Thế Giới Vàng nào đủ sức cám dỗ. Anh lặng lẽ sửa chữa đoạn ống nước, trở về và nói với người vợ yêu quý của mình rằng: “Em biết b'y giờ anh đang tính gì không? Anh vừa nảy ra một kế hoạch. Anh sẽ mua bạch đàn về trồng trên khắp bờ dốc đó. Những c'y bạch đàn sẽ giữ cho đất khỏi lở nữa. Anh sẽ trồng bạch đàn sát vào nhau như eo ấy, đến độ một con thỏ đói cũng khó lòng mà len qua được. Khi những c'y bạch đàn đã bám rễ rồi thì trời cũng không thể làm lở đất ở đó được nữa.”. Đúng, anh đã chôn, đã chối bỏ Thế Giới Vàng đó để giữ những điều bình dị bên cạnh mình. ….. Tôi đã sống thời tuổi trẻ sôi động như Ánh Sáng Ban Ngày, điên cuồng khám phá cuộc sống thực tại nghiệt ngã giống như anh, đạp lên những kẻ muốn đạp mình xuống bằng sức mạnh của cơ bắp lẫn trí óc của một thằng đàn ông đúng nghĩa. Tuy chưa đến được đỉnh Thế Giới Vàng như Ánh Sáng Ban Ngày nhưng nhờ có anh, tôi sớm nhận ra những thứ phù phiếm. Ở tuổi ba mươi, chưa đủ già nhưng không quá trẻ, tôi chọn cái kết cuộc đời của mình như Ánh Sáng Ban Ngày, từ bỏ mọi thế giới vàng cám dỗ để làm một anh nông d'n tầm thường. Với tôi, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London không đơn thuần là một cuốn tiểu thuyết. Ở đó, tôi đọc được những bài học, cách hành xử của một người đàn ông ch'n chính với cuộc đời. Ở đó, có tình yêu bao la, có sự thức tỉnh hòng chối bỏ. Và ở đó, là cuộc đời tôi muốn sống và đang sống với niềm hạnh phúc vô bờ bến dù thiếu một nàng Dede mỏng manh và nhỏ bé đến tầm thường. Xin gởi cho những t'm hồn yêu sách ch'n chính. Nếu bạn muốn tìm một quyển sách có đủ chất phiêu lưu, biến chuyển t'm lý, hiện thực xã hội, tình yêu ch'n thành, giác ngộ và thức tỉnh, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London nhất định không làm bạn thất vọng. Và nếu bạn muốn biết đoạn đời sau của Ánh Sáng Ban Ngày sẽ hạnh phúc như thế nào, hãy lên với rừng núi của tôi, tôi luôn dành cho bạn chiếc ghế trang trọng nhất, và sẵn sàng kể cho bạn nghe Ánh Sáng Ban Ngày đã Sống-Yêu-Từ Bỏ như thế nào. *** Quán Tivoli đêm nay thật lặng lẽ. Có khoảng năm, sáu người đang tụ tập tại chiếc quầy rượu chạy dọc một bên căn phòng lớn làm bằng những thân gỗ ghép không được kín lắm. Phía bên kia căn phòng là một dãy bàn cờ bạc. Bàn tài xỉu không có ai cả. Ở bàn faro chỉ có độc một người đang chơi. Ở bàn rulet, con quay chẳng buồn hoạt động bởi vì anh chàng hồ lì đứng bên chiếc lò sưởi rực lửa đang mải tán gẫu với một thiếu nữ mắt đen, thân hình và vẻ mặt rất ưa nhìn, được mọi người tử Juneau đến Fort Yukon quen gọi la Mộng Trinh(1). Ở bàn xì phé có được ba người, nhưng họ chỉ chơi cò con vì hình như không có hứng. Trên sàn nhảy ở phía sau căn phòng lớn này chỉ có ba cặp đang nhảy một cách uể oải theo tiếng rền rĩ của chiếc dương cầm và chiếc vĩ cầm. Thật ra thị trấn Vùng Cực này không phải bị bỏ hoang, mà cư dân ở đây thì cũng chẳng phải nghèo tiền bạc. Những người đào vàng ở Lạch Da Hươu cũng như ở các vùng khác về phía tây đều đã trở về đây. Công việc đãi vàng trong mùa hạ vừa qua rất có kết quả, nên túi của họ đều nặng trĩu vừa vàng cục vừa vàng bụi. Vào thời gian này, người ta chưa biết đến sông Klondike(2), và những người thợ mỏ ở dọc theo sông Yukon(3) chưa biết cách đốt lửa cho đất mềm ra cho dễ đào. Bởi thế, về mùa đông, đám thợ mỏ nghỉ việc, quay về trú đông ở các trại lớn như thị trấn Vùng Cực này cho qua đêm dài Bắc Cực. Thì giờ rỗi rãi, túi lại rủng rinh tiền, nên họ thường đến các quán rượu tìm vui. Ấy thế mà đêm nay, quán Tivoli cứ như bị bỏ hoang. Ðứng bên lò sưởi, Mộng Trinh ngáp dài không thèm đưa tay che miệng, và nói với Charley Bates: - Nếu cứ cái điệu này mãi thì đến phải đi ngủ mất thôi. Mà có chuyện gì với cái trại này vậy nhỉ? Bộ mọi người chết hết rồi à? Bates chẳng buồn mở miệng trả lời, cứ lặng lẽ cuốn thuốc. Dan McDonald, chủ quán Tivoli kiêm chủ các sòng bạc ở đây, rầu rĩ băng ngang căn phòng trống trải, đến nhập bọn với hai người đang đứng bên lò sưởi. Mộng Trinh quay sang hỏi hắn: - Bộ có ai chết hay sao vậy? - Hình như thế. - Vậy thì có lẽ cả cái trại này chết hết rồi cũng nên. - cô gái nói với vẻ dứt khoát rồi lại ngáp dài. McDonald nhe răng cười, gật đầu, và mở miệng định nói thì cánh cửa cửa trước bỗng mở tung và một người chợt hiện ra trong ánh đèn. Ðưa tay lấy cây chổi con móc trong cửa, người mới đến phủi tuyết bám trên đôi giày da đanh kiểu thổ dân Bắc Mỹ và trên đôi vớ cao kiểu Ðức. Hẳn là anh ta trông cũng cao lớn nếu như ngay lúc đó không có anh chàng khổng lồ người Gia Nã Đại gốc Pháp từ phía quầy rượu bước lại nắm chặt lấy anh ta. - Kìa Ánh Sáng Ban Ngày! Lạy chúa, bọn này mong cậu đến mòn con mắt! - À, Louis, xin chào. Các cậu về lúc nào vậy? - Người mới đến đáp lại. - Nào, ta đi làm một ly đi, rồi cậu kể cho tớ nghe toàn bộ câu chuyện ở Lạc Khúc Xương nhé. Chà, quỷ tha ma bắt cậu đi, bắt tay cái nữa nào. Cái anh bạn đi với cậu đâu rồi? Tớ đang tìm hắn đây. Một người khổng lồ nữa từ phía quầy rượu cũng bước lại đưa tay ra bắt tay người mới đến. Anh chàng này tên Olaf Henderson, cũng là dân đào vàng chung với French Louis ở Lạch Khúc Xương. Cả hai đều là người to lớn nhất vùng, và mặc dù họ chỉ cao hơn người mới đến khoảng nửa cái đầu thôi, thế mà đứng giữa họ anh ta trong loắt choắt hẳn đi. - Ôi chào Olaf, tớ tìm cậu mãi đấy, hiểu không? - Người được gọi là Ánh Sáng Ban Ngày nói. - Ngày mai là sinh nhật của tớ, và tớ sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa luôn, hiểu không? Nào, bây giờ đi uống với tớ một ly cái đã, rồi tớ sẽ cho các cậu biết. Người mới đến dường như đem theo cả hơi ấm tràn ngập căn phòng. Mộng Trinh kêu lên: - Ðúng là Ánh Sáng Ban Ngày rồi! Nàng là người đầu tiên nhận ra anh ngay khi anh vừa bước vào vùng sáng của căn phòng. Sự xuất hiện của Ánh Sáng Ban Ngày làm cho cả căn phòng hình như bỗng sáng và vui tươi hơn hẳn. Những người phục vụ trong quán tíu tít hẳn lên. Người ta cất cao giọng hát hơn. Có kẻ còn bật cười nữa. Nhịp luân vũ nhanh hẳn lên, và những cặp đang khiêu vũ, như lấy phải cái nhộn nhịp chung, cũng bắt đầu quay tít như thể họ đang bốc hứng. Ðã từ lâu mọi người đều biết rằng hễ ở đâu có Ánh Sáng Ban Ngày là ở đó không thể buồn nản được. Tại quầy rượu Ánh Sáng Ban Ngày xoay người lại thì thấy Mộng Trinh đứng cạnh lò sưởi đang nhìn anh với vẻ đón chào nồng nhiệt. - Kìa, Mộng Trinh, cô bạn cũ, - anh gọi. - Kìa, cả Charley nữa. Chuyện gì thế? Sao mặt mày lại ủ ê như người chết không có đất chôn vậy? Lại đây uống cái gì đi nào. Tất cả lại đây nào, hỡi những kẻ chết chưa có đất chôn kia, muốn uống gì thì cứ việc gọi. Nào, mọi người. Ðêm nay là đêm của tớ, và tớ sẽ làm chủ nó. Ngày mai tớ đã ba mươi tuổi, thế là già mất rồi. Ðây là giây phút cuối cùng của tuổi trẻ. Tất cả đã sẵn sàng cả rồi chứ? Nào, vô nào, vô. - Khoan đứng lên đã, Davis, - anh quay qua gọi với người chào faro, lúc này đang đẩy ghế ra sau dợm đứng lên. - Tớ muốn chơi với cậu một ván để xem tớ hoặc cậu ai sẽ phải trả tiền rượu cho mọi người ở đây nào. Móc trong túi áo khoác ra một gói vàng bụi nặng trịch, anh đặt nó vào số lớn. - Tớ đặt năm mươi đô-la trị giá bằng vàng bụi đây! - anh nói. Nhà cái bàn faro chia hai lá. Số lớn ăn. Nhà cái nguệch ngoạc số tiền thắng vào một mảnh giấy trong lúc người chung tiền cân một dúm vàng bụi tương đương với năm mươi đô là rồi trút nó vào bao của Ánh Sáng Ban Ngày. Lúc này điệu luân vũ đã chấm dứt. Ba cặp nhảy lúc nãy cùng với anh chàng nhạc công kéo vĩ cầm và anh chàng nhạc công chơi dương cầm theo nhau bước ra khỏi phòng rượu đúng lúc Ánh Sáng Ban Ngày quay lại và nhìn thấy họ. - Lại đây uống nào, mấy ông bạn, - anh ta kêu lên, - lại đây uống nào, và muốn kêu gì thì kêu. Ðêm nay là đêm của tớ, không phải lúc nào cũng có được Lại. đây uống nào, máy ông bạn cố tri, tớ nói thật đấy, vì đêm nay chính là đêm của tớ. - Một đêm chó đẻ - Charley Bates nói xen vào. - Ðúng đấy, con ạ - Ánh Sáng Ban Ngày vẫn cứ vui như không, - Một đêm chó đẻ, nhưng nó là đêm của ta, bởi vì ta là con sói đực già. Nghe ta tru đây này. Và anh cất tiếng tru thật to giống hệt như một con sói rừng xám cô độc đến nỗi Mộng Trinh phát run lên vội đưa hai ngón tay nút chặt lấy tai. Ngay lập tức Ánh Sáng Ban Ngày bế bổng nàng lên đưa vào sàn nhảy. Ba cặp nhảy lúc nãy cũng theo họ vào, rồi tất cả cùng quay cuồng theo điệu vũ xoay tròn ầm ĩ, của vùng Virginia. Ánh Sáng Ban Ngày là trung tâm của sự náo nhiệt ấy, là ngọn lửa hừng hực, đến đâu là châm chọc, cười đùa ầm ĩ đến đó, nên giúp họ thoát khỏi cái vùng lầy ủ ê đã dìm họ trước khi anh đến. Rất ít người biết rằng Ánh Sáng Ban Ngày tên thật là Elam Harnish, bởi lẽ ngay từ những ngày đầu tiên đi mở đất, người ta đã gọi anh bằng biệt hiệu đó vì thấy anh có thói quen vừa lôi bạn bè mình ra khỏi chăn êm nệm ấm vừa làu bàu là trời đã sáng bét ra rồi. Trong số những người tiên phong tiến vào vùng đất hoang ở vùng Bắc Cực xa xôi này thì anh được liệt vào hạng cố cựu nhất. Mặc dù cũng có những người đã đến vùng đất này sớm hơn anh như Ai May hoặc Jack Mc Question chẳng hạn, nhưng thường thì họ đến đây từ vùng Vịnh Hudson về phía đông băng ngang qua rặng Thạch Sơn. Còn anh đã dám vượt qua vùng đèo Chilcoot và Chilcat. Vào mùa xuân năm 1883, cách đây mười hai năm, dù lúc đó mới chỉ có mười tám tuổi anh đã cùng với năm người bạn của mình vượt qua đèo Chilcoot. Ðến mùa thu thì anh trở về, năm người bạn trước kia nay chỉ còn có một. Bốn người kia đã bỏ mạng trong cái bất trắc của vùng đất bát ngát lạnh lẽo chưa được ghi lên bản đồ ấy. Từ đó cho đến suốt mười hai năm sau, Elam Harnish vẫn tiếp tục mò mẫm tìm vàng trong cảnh tối tăm của vùng Bắc Cực. Thật chưa có ai mò mẫm tìm vàng một cách kiên trì và bướng bỉnh như anh. Anh đã lớn lên với vùng đất này và chẳng biết đến vùng đất nào khác nữa. Ðối với anh, nền văn minh cũng chỉ giống như một giấc mơ đã qua lâu lắm rồi, và những trại Bốn Mươi Dặm hoặc trại thị trấn Vùng Cực thực sự là những đô thị lớn. Không phải anh chỉ lớn lên với vùng đất này mà thôi, mà còn giúp xây dựng nó nữa, dù rằng hiện giờ nó cũng vẫn còn hoang sơ lắm. Anh đã tạo nên lịch sử và địa dư của vùng đất; những kẻ đến sau anh chỉ cần viết về những chuyến đi của anh và vẽ lại những con đường mòn mà chính chân anh đã vạch ra là đủ. Thường thì anh hùng ít sùng bái anh hùng, vậy mà những con người sinh sống ở vùng đất mới này vẫn xem anh là một anh hùng già dặn, mặc dù anh vẫn còn rất trẻ. Về thời gian, anh đã đến đây trước họ. Về công việc, anh đã làm nhiều hơn họ. Về sức dẻo dai bền bỉ, mọi người đều công nhận là anh có thể giết chết được cả những tay sừng sỏ nhất. Hơn nữa, họ còn coi anh như một kẻ táo gan, ngay thẳng và thuộc giống người da trắng. Ở bất cứ vùng đất nào mà cuộc đời chỉ là một trò may rủi không đáng bận tâm thì con người thường tự nhiên quay sang cờ bạc để tiêu khiển và nghỉ ngơi. Ở dọc sông Yukon, bọn đàn ông đặt cả cuộc đời họ vào canh bạc ăn vàng. Rồi những ai lấy được vàng từ lòng đất lại đem vàng ra đánh bạc với nhau. Elam Harnish cũng không phải là một ngoại lệ bởi vì anh đáng mặt đàn ông nhất trong bọn đàn ông, và trong người anh, cái bản năng thôi thúc chơi canh bạc của cuộc đời rất mạnh mẽ. Chính môi trường sống của anh đã quyết định hình thức của canh bạc ấy. Anh sinh ra trong một nông trại ở Iowa, sau theo bố di cư đến Ðông Oregon và sống suốt qua ng đời niên thiếu ở cái vùng mà người ta kéo tới tìm vàng đó. Bởi vậy, anh đã chẳng học được gì ngoài cách chịu đấm ăn xôi. Trong canh bạc này dĩ nhiên lòng can đảm và sức bền bỉ là cần thiết, nhưng các con bài lại do Thần Số Mệnh chia. Cứ từ tốn mà đánh thì cũng kiếm được chút đỉnh, nhưng chút đỉnh thì lại chẳng bỏ công. Bởi vậy người ta thường đánh lớn. Elam Harnish thích đánh tất cả để có thể thắng được tất cả và một khi đã không thắng được tất cả thì dù có thắng lớn đến đâu chăng nữa anh cũng vẫn tự coi mình là người thua cuộc. Trong suốt mười hai năm đào vàng vừa qua trên vùng Sông Yukon, Elam Harnish tự coi mình là người thất bại. Thật ra chỉ mới mùa hè trước đây thôi, ở Lạch Da Hươu anh đã đào được hai mươi ngàn đô-la, chưa kể con số tương đương như vậy vẫn còn nằm trong lòng đất. Nhưng anh như anh đã tuyên bố, đó cũng chỉ như gỡ lại tiền đặt cuộc trước mà thôi. Anh đã đặt cuộc cuộc đời mình trong mười hai năm trời, và cái số bốn mươi ngàn đô-la vừa gỡ được đó chẳng đủ để đền bù. Nó chỉ đủ để trả một chầu nhậu và nhảy nhót ở quán Tivoli, vi rút chút đỉnh cho qua mùa đông ở trại thị trấn Vùng Cực và mua lương thực dự trữ cho năm tới là sạch bách. Sau khi điệu vũ xoay tròn chấm dứt, Elam Harnish lại hò hét mời mọi người ra uống rượu. Cứ mỗi ly rượu là một đô-la. Một ounce(4) vàng đổi được mươi sáu đô-la. Trong phòng có ba chục người tất cả đều nhận lời mời uống rượu của Elam Harnish, và cứ sau một bản nhạc họ lại được mời uống. Ðêm nay là đêm của anh, nên anh không cho phép ai trả tiền cho bất kỳ món gì. Thật ra Elam Harnish không phải là một kẻ ưa rượu. Ðối với anh Whisky chẳng có ý nghĩa gì cả. Anh quá mạnh mẽ, quá tràn trề sinh lực; con người anh, trí óc anh hoàn toàn không có tâm sự nặng nề gì để buộc anh phải trở thành con sâu rượu. Anh có thể đi cả năm trời không uống một giọt cà phê rồi đấy. Chỉ có điều là anh thích sống hợp quần, mà ở khu vực sông Yukon cách duy nhất để biểu lộ tính hợp quần của mình là kéo nhau vào quán uống rượu, nên Elam Harnish cũng đành phải làm như vậy. Ngay từ khi anh còn là một thanh niên sống ở các vùng mỏ vàng miền Tây, người ta đã làm như thế, nên bây giờ anh cho đó là cách đúng đắn nhất để thể hiện tính hợp quần của mình. Thật ra ngoài cách đó anh chẳng còn biết cách nào nữa cả. Dù quần áo cũng chẳng có gì khác với những người chung quanh, trông anh vẫn nổi bật hẳn lên. Chân đi giày da hươu mềm có đính hạt theo kiểu thổ dân, quần yếm bình thường, áo khoác may bằng vỏ chăn. Anh đeo găng tay da dài hở ngón trong có lót len, và bên hông lủng lẳng một đai da quàng qua eo và vài theo kiểu dân miền sông Yukon. Ðầu đội nón lông thú, vành nón cuộn lên để hở những dây cột nón lòng thòng. Gương mặt xương xương, hơi dài, má hóp làm lưỡng quyền nhô hẳn lên trông giống gương mặt của thổ dân trong vùng. Người ta lại càng có lên tưởng ấy khi nhìn vào làn da cháy nắng và đôi mắt đen láy tinh tường của anh, mặc dù rõ ràng là cái màu da đồng ấy và đôi mắt ấy chỉ người da trắng mới có. Anh trông già hơn tuổi ba mươi. Thế nhưng nếu anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh lại rất "trẻ con". Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào nét mặt mà thôi thì khó có thể nói được tại sao trông anh lại già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi ấy toát ra từ toàn bộ con người anh. Từ những điều anh đã phải chu đựng để sinh tồn, và nó vượt quá sức chịu đựng của một con người. Anh đã sống một cuộc đời trần trụi và mã anh liệt, và người ta có thể thấy được phần nào cái cuộc đời ấy âm ỉ trong cặp mắt, vang lên trong giọng nói hoặc như thủ thỉ thốt lên từ đôi môi anh. Mà môi anh thì mỏng, lúc nào cũng mím chặt che khuất hàm răng trắng đều. Tuy nhiên đôi môi trông cũng đỡ khe khắt hơn nhờ ở hai bên mép cong lên làm cho chúng có một vẻ dịu dàng, cũng giống hệt như những nếp nhăn ở hai bên khoé mắt đã làm cho khuôn mặt anh lúc nào trông cũng có vẻ như đang cười cợt. Những nét duyên dáng ấy đã giúp anh thoát được vẻ cay độc, kết quả tất yếu của một đời sống man dã. Mũi anh gầy, cánh mũi nở thanh trông rất hợp với khuôn mặt. Trán anh hẹp nhưng cao và đều đặn. Mái tóc anh cũng giống như tóc thổ dân, bởi vì nó thẳng và đen nhánh, óng ánh cái màu tóc mà chỉ những con người khó mạnh mới có được. - Ánh Sáng Ban Ngày bộ tính đốt sáng cả đêm nay chắc? - McDonald nói rồi cười to giữa những tiếng la ó hò reo của đám người đang nhảy nhót. Olaf Henderson nói thêm: - Mà nó cũng dám làm như thế đấy, Louis nhỉ? Nói có chúa, chắc chắn là nó làm như thế đấy - French Louis đáp - Ðúng là một cậu con trai làm bằng vàng ròng. McDonald nói chen vào: - Rồi khi đến Ngày Ðãi Vàng cuối cùng, lúc Ðức chúa Trời xúc một xẻng cát bỏ vào trong nồi đãi, hẳn là sẽ thấy có cả nó lẫn ở trong ấy đấy. - Nói nghe hay lắm - Olaf Henderson vừa lẩm bẩm vừa nhìn tay chủ sòng bài một cách thán phục… - Ừ, hay thật - French Louis cũng khẳng định - cũng xứng đáng để chúng ta uống mừng một ly, phải không. ... Mời các bạn đón đọc Từ Bỏ Thế Giới Vàng của tác giả Jack London.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giải Mã Tâm Linh -Sự Sống Sau Cái Chết Linh Hồn - Có Hay Không? - Jeffrey Long, M.D. & Paul Perry
Bằng chứng khoa học thuyết phục nhất về đời sống sau cái chết : "Có đời sống sau cái chết không?"... Bác sĩ chuyên khoa xạ trị ung thư Jeffrey Long lý luận: "Nếu bạn tìm hiểu các bằng chứng khoa học thì câu trả lời ở đây chắc chắn là có. "Nghiên cứu nội dung các trải nghiệm cận tử suốt hàng chục năm qua... ông rút ra kết luận gây nhiều tranh cãi đó." "Cuốn sách giá trị tìm hiểu về trải nghiệm cận tử này trình bày những bằng chứng thuyết phục cho thấy rằng ý thức con người không bị ràng buộc bởi những hoạt động của não bộ." *** Paul Perry là một nhà báo và nhà sản xuất phim tài liệu nổi tiếng. Ông là thành viên của Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Gannett tại Đại học Oregon ở Eugene, Oregon, Mỹ và là Tổng biên tập của tạp chí American Health. Paul Perry từng được Hoàng gia Bồ Đào Nha phong tặng *** Năm 1984, tôi tình cờ đọc được khái niệm về Trải nghiệm Cận tử (TNCT) trong một tạp chí y học nọ. Vài năm sau, tôi lại nghe vợ của một người bạn kể về TNCT khi cô ấy sắp qua đời do phản ứng sốc thuốc trong lúc được gây mê. Hơn mười năm sau, năm 1998, tôi bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này và thành lập Tổ chức Nghiên cứu về Trải nghiệm Cận tử (NDERF: Near Death Experience Research Foundation) và trang web NDERF.org ra đời từ đó. Một trong những mục tiêu của tôi khi thành lập trang web này là thu thập nhiều TNCT rồi tổng hợp lại bằng 1 bảng câu hỏi để dễ phân loại và nghiên cứu từng yếu tố liên quan đến TNCT. Với bảng câu hỏi này, tôi có thể nghiên cứu các yếu tố độc lập trong TNCT hoặc toàn bộ TNCT. Tôi nghĩ rằng mình phải rất nỗ lực mới có thể mong thành công phần nào, cuối cùng hóa ra tôi lại thành công trên mức mong đợi. Trong 10 năm đầu tiên, hơn 1.300 người trải nghiệm TNCT đã dành nhiều thời gian quý báu để tham gia trả lời hơn 100 câu hỏi chi tiết trên trang web NDEFR. Họ là những người đến từ nhiều chủng tộc, tín ngưỡng, và hầu như khắp mọi nơi trên trái đất. Việc có nhiều người sẵn lòng chia sẻ TNCT của mình cùng người khác cho thấy rằng các trải nghiệm này thực sự ảnh hưởng lớn đến từng cá nhân. Họ mô tả trải nghiệm của mình bằng nhiều cách khác nhau, có người cho rằng “không thể nói được” không thể tả được “không bao giờ quên được”, “trên cả tuyệt vời”,... Hơn 95% cảm thấy TNCT của mình là “rất thật”, trong khi những người còn lại thì cho rằng “có thể thật”. Không một ai cho rằng “hoàn toàn không thật”. Một số người cho rằng không những họ đã trải qua những sự kiện rất thật mà còn xem đó là một sự trải nghiệm kỳ diệu trong đời mình. Dưới đây là chia sẻ của một người suýt chết trong một lần tự sát: Tôi cảm thấy bình yên. Không chút đau đớn. Tôi thấy cuộc đời mình tràn ngập tình yêu của Chúa. Tôi không còn chút bận tâm nào với những gì tôi đã làm thậm chí với cả hành động tự sát vừa rồi. Sức mạnh của tình yêu thật sự đã thay đổi hành vi của tôi. Chính hồng ân của Chúa, chấp nhận hoàn toàn, và tình yêu trọn vẹn đem lại niềm vui trong tôi. Tôi tìm được tình yêu trong tôi không chỉ từ ánh sáng của Chúa rọi vào tim tôi, mà tình yêu đó chính là một phần gắn liền con người tôi. Trong tôi tràn ngập tình yêu. Tôi cảm nhận được sự hân hoan trong khoảnh khắc ấy. Tôi không thể diễn tả hết cảm xúc kỳ diệu này. Tôi đã nghe sự mô tả như thế này từ nhiều người có TNCT. Bạn hãy hình dung xem - một trải nghiệm khởi đầu bằng nỗi khiếp sợ khi sự sống bị đe dọa và hóa thành một sự kiện kỳ diệu và bí ẩn? Tôi là một nhà khoa học, và vì thế NDERF của tôi cũng làm việc rất khoa học. Tại NDERF, chúng tôi nghiên cứu tất cả các yếu tố của TNCT nơi hơn một nghìn người khác nhau. Để có được kết luận chính xác chúng tôi luôn tuân thủ nguyên tắc cơ bản của khoa học là: những gì có thật sẽ không thay đổi trong mọi tình huống khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu từ NDERF, có một điều rất đáng lưu ý nơi nội dung TNCT. Những nghiên cứu ở đây cho thấy rằng những gì người ta khám phá qua TNCT về Thượng đế, tình yêu, kiếp sau, những khó khăn trần tục, sự tha thứ, và nhiều khái niệm khác không hề chịu sự tác động của sự thay đổi về nền văn hóa, chủng loài, và tín ngưỡng của từng cá nhân. Đồng thời, những khám phá này không phải là những niềm tin đã tồn tại trước đó, không phải là các giáo điều xưa cũ, hay bất kỳ sự hiểu biết trần tục nào. Trong một thế giới hiện đang tồn tại quá nhiều thứ gây tổn hại đến tâm hồn con người như thế này, khám phá trên quả là một tin tốt lành. Những vấn đề của cá nhân và xã hội mà nhân loại hiện đang phải đối mặt - ma túy, nghiện rượu, trầm cảm, bạo lực, lo lắng, xung đột tôn giáo, phân biệt chủng tộc v.v... - có thể bị ảnh hưởng sâu sắc bởi một trải nghiệm phổ biến và có tác động mạnh như thế. Vì TNCT xảy ra với mọi người trên thế gian, TNCT sẽ là yếu tố tâm linh đưa chúng ta xích lại gần nhau, trải nghiệm này nhắc nhở chúng ta về tính tương tác tâm linh giữa người và người. Ít ra thì tổ chức nghiên cứu NDERF cũng góp phần nâng cao kiến thức của chúng ta về mối quan hệ tâm linh này. Những nghiên cứu của NDEKF cũng rất đáng giá khi nó giúp chúng ta có được sự hiểu biết sâu sắc về những gì sẽ xảy ra khi chúng ta qua đời. Đã từ lâu tôi không còn tin rằng chết là chấm dứt sự tồn tại. Tôi đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu vấn đề này. Tôi được sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa học. Cha tôi là trưởng khoa Dược lý tại Đại học Iowa và đã từng được đề cử giải Nobel. Chính cha tôi và những thành viên khác trong gia đình đã giúp tôi phát huy tối đa niềm đam mê khoa học của mình. Tôi đã vận dụng khoa học để nghiên cứu hơn 1300 trường hợp chia sẻ cùng NDERF, tôi tin rằng với 9 loại bằng chứng được trình bày trong quyển sách này sẽ chứng minh một điểm chung là: có sự sống sau cái chết. Bảng câu hỏi và những tài liệu khác trong sách này đều có trên website NDERF (http://www.nderf.org/afterlife). Bảng câu hỏi này tập trung vào các khái niệm được trình bày trong suốt quyển sách này. Do vậy tôi khuyến khích bạn đọc hết quyển sách này trước khi bạn điền vào bảng câu hỏi. ĐIỀU GÌ XẢY RA TRONG TRẢI NGHIỆM CẬN TỬ Trước khi tiếp tục, tôi cần phải giải thích Trải nghiệm Cận tử là gì. Trải nghiệm Cận tử (TNCT) là những sự kiện xảy ra với một người sắp chết, hoặc chết lâm sàng. Người có Trải nghiệm Cận tử được gọi là các(cận tử nhân". Năm 1975, tiến sĩ Raymond Moddy là người đầu tiên nghiên cứu và mô tả lại một cách khoa học về Trải nghiệm Cận tử trong quyển sách tiên phong trong lĩnh vực này, cuốn Life after Life, sau đó các bác sĩ và các nhà nghiên cứu khác cũng tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hiện tượng này. Không có một định nghĩa nào về Trải nghiệm Cận tử được chấp nhận hoàn toàn. Nghiên cứu của NDERF định nghĩa rõ hai từ “cận tử” và “trải nghiệm”. Tôi cho rằng một người được xem là “cận tử” khi họ có nguy cơ chết nếu sự tổn hại về thể xác của họ không được khắc phục kịp thời. Các cận tử nhân thường rơi vào trạng thái hôn mê và chết lâm sàng, có nghĩa là không còn nhịp tim và hơi thở. Còn “trải nghiệm” phải diễn ra ngay thời điểm họ sắp chết. Ngoài ra, trải nghiệm này cũng phải thật rõ ràng, không phải là những mảnh ký ức được chắp vá rời rạc. Quyển sách này sẽ trình bày kết quả nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu Trải nghiệm Cận tử NDERF. Nghiên cứu này là kết quả của cuộc khảo sát 613 cận tử nhân mới nhất đã điền đầy đủ vào bảng câu hỏi mới nhất của NDERF. Phiên bản này bao gồm rất nhiều câu hỏi được sắp xếp theo cấp độ trải nghiệm TNCT khác nhau. Bảng câu hỏi gồm có 16 câu hỏi về nội dung của sự trải nghiệm và là phương pháp nghiên cứu hợp lý nhất để phân biệt đâu không phải là TNCT và đâu chính là TNCT. Tất cả 613 các cận tử nhân mà tôi sẽ trình bày dưới đây đều có điểm từ 7 trở lên, là số điểm được cho là phù hợp với Trải nghiệm Cận tử. Khảo sát đầu tiên của NDERF nghiên cứu phản ứng của 413 cận tử nhân. Bảng câu hỏi điều tra theo cấp độ này đã không được sử dụng trong lần khảo sát đầu tiên. Không có 2 Trải nghiệm Cận tử nào giống hệt nhau. Tuy nhiên, khi nghiên cứu nhiều Trải nghiệm Cận tử, chúng ta nhận thấy các yếu tố chung thường xảy ra ở TNCT. Những yếu tố này thường xảy ra theo trật tự cố định. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng TNCT có thể có một số hoặc tất cả 12 yếu tố sau: 1. Trải nghiệm thoát xác (OBE): linh hồn thoát ra khỏi cơ thể. 2. Dâng trào cảm xúc. 3. Xuất hiện các tình cảm tích cực mãnh liệt. 4. Đi vào hoặc xuyên qua một đường hầm. 5. Đi vào vùng ánh sáng rực rỡ huyền bí. 6. Gặp các linh hồn khác, các nhân vật huyền bí hoặc người thân và bạn bè quá cố. 7. Cảm giác không gian hoặc thời gian bị biến đổi. 8. Hồi tưởng lại cuộc đời. 9. Bước vào một thế giới thoát tục (“giống thiên đàng”). 10. Có được những hiểu biết đặc biệt. 11. Tiếp cận một ranh giới hay một rào cản. 12. Trở về thể xác dù tự nguyện hoặc không tự nguyện.   Mỗi yếu tố trên đều được mô tả một cách tỉ mỉ qua từng trường hợp cụ thể cũng như tỷ lệ sẽ các cận tử nhân đã từng trải qua yếu tố trên mà tôi đã thu thập qua hơn mười năm nghiên cứu. Mời các bạn đón đọc Giải Mã Tâm Linh -Sự Sống Sau Cái Chết Linh Hồn - Có Hay Không? của tác giả Jeffrey Long, M.D. & Paul Perry.
Nhật Ký Mang Thai - Yoko Ogawa
Một cô gái âm thầm sử dụng những quả bưởi có chất bảo quản, nấu thành mứt cho chị ăn trong suốt thời gian thai kỳ (Nhật ký mang thai). Một thầy giáo mất hai tay và một chân với những dẻ xương sườn biến dạng xiết chặt khu vực của tim và phổi, đang ẩn dật trong khu ký túc xá vắng lặng (Ký túc xá). Một người đàn ông có thể đứng hàng giờ mỗi ngày ngắm nhìn nhà ăn để chìm đắm trong mớ ký ức giằng xé (Nhà ăn buổi chiều tà và bể bơi dưới mưa)… Bản thân các nhân vật trong cuốn truyện đã hé mở những điều bất an ngay từ đầu, và tác giả không chút ngại ngần dẫn dắt độc giả bám theo những điều nghi hoặc sắp xảy đến. Với giọng văn dịu dàng mà sắc sảo, Yoko Ogawa đã thể hiện những chuyển động tâm lý tinh tế trong các nhân vật, dẫn dắt người đọc băng qua những cảm nhận về bề mặt tới sự thật hiện hữu của thế giới thực. Các nhân vật đều như tiềm ẩn thứ mầm ác được che khuất, giống như chúng ta vẫn thường bỏ qua những suy nghĩ bất chợt lóe lên bên trong. Yoko Ogawa theo đuổi những gì “không nhìn thấy được” ấy bằng thứ văn xuôi chậm rãi, khung cảnh tĩnh lặng cùng linh cảm sầu muộn về nỗi bất an sâu xa. Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp ám ảnh của Nhật ký mang thai. *** — “Yoko Ogawa là một nhà văn có thể diễn tả một ách uyển chuyển và sắc sảo những nét tâm lý khó nắm bắt nhất của con người” – Kenzaburo Oe — “Sự hư cấu của Yoko Ogawa tựa như một liều thuốc gây ảo giác nhẹ. Rất lâu sau khi đọc, câu chuyện vẫn sẽ còn đọng lại, làm thay đổi quang cảnh trước mắt bạn, khiến sự điềm nhiên của bạn lung lay, gieo vào đầu óc bạn sự nghi hoặc đối với ngay cả những người bạn thường hay gặp. Tài năng của bà vừa hé lộ vừa lưu giữ sự bí ẩn về bản chất con người” – Kathryn Harrison, tác giả của The Kiss — “Giống như tiểu thuyết gia Nhật Bản Kenzaburo Oe, những mẩu đối thoại rời rạc của Yoko Ogawa đã chạm tới niềm bất an sâu thẳm nhất trong tiềm thức cùng với sự tỉnh tại tuyệt đối” – the Pedestal Magazine. ***     Sinh năm 1962 tại tỉnh Okayama, thuở nhỏ, Ogawa say mê văn học thiếu nhi thế giới. Trong một cuộc phỏng vấn, bà từng nhắc tới các tác phẩm Không gia đình, Pippi tất dài, Ann ở Green Gables v.v. như những trước tác mà bà yêu thích nhất. Lên trung học, cuộc gặp gỡ tình cờ với Nhật ký Ann Frank đã mang lại cho Yoko một nhận thức hoàn toàn mới lạ đối với văn chương: biểu đạt thành lời nội tâm của bản thân chính là một dạng thức tự do mà con người có được. Đây có lẽ là tác phẩm có ảnh hưởng sâu nặng nhất đối với lối viết đi sâu vào những diễn biến tâm lý tinh tế của con người mà Ogawa không ngừng theo đuổi sau này. “Tôi đưa ra hết, tôi viết hết,” nhà văn đã từng nói. “Khi cuốn sách kết thúc thì không còn gì nữa, không còn gì hết”. Năm 1986, Ogawa bắt đầu viết tiểu thuyết, sau khi thôi công việc thư ký để kết hôn với một kỹ sư của một hãng luyện thép. Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của bà gồm: Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien), Nhật ký mang thai (giải Akutagawa), Giáo sư và công thức toán (giải Yomiuri), Mai táng Brahman (giải Izumi), Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki), Tình yêu bên lề, Quán trọ Hoa Diên Vỹ...Trong số các tác phẩm của Yoko Ogawa, Giáo sư và công thức toán hẳn là tiểu thuyết nồng hậu và gây xúc động nhất.  Sau đó, tiểu thuyết được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi vào năm 2006.      Thông Tin Giải Thưởng   * 1988: Giải Kaien cho tác phẩm đầu tay, Sự phân hủy của bướm (Disintegration of the butterfly, Agehacho ga kowareru toki, 揚羽蝶が壊れる時) * 1990 Giải Akutagawa cho Nhật ký mang thai (Pregnancy Calendar, Ninshin karendaa, 妊娠 カレンダー) * 2004 Giải Yomiuri cho Giáo sư và công thức toán (The Professor and his Beloved Equation, Hakase no aishita sushiki, 博士の愛した数式; dịch sang tiếng Anh với tên The Gift of Numbers) * 2004 Giải Izumi Prize cho Tang lễ của Brahman (Burafuman no maisō, ブラフマンの埋葬) * 2006 Giải Tanizaki cho Cuộc diễu hành của Meena (Meena's March, Mīna no kōshin, ミーナの行進) Những tác phẩm của Yoko Ogawa  - Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki) - Giáo sư và công thức toán - xuất bản 2009 (giải Yomiuri) - Quán trọ hoa diên vỹ - Mai táng Brahman (giải Izumi) - Nhật ký mang thai (giải Akutagawa) - Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien) *** Đ i làm về, tôi thấy trên bàn ăn mẩu giấy anh rể nhắn lại. “Chị trở dạ. Anh đưa chị vào viện"? Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ ngắn ngủi ấy. Chiếc thìa còn dính mứt nằm chỏng chơ bên cạnh. Tôi ném nó vào trong bồn rửa bát, suy nghĩ giây lát phải làm gì tiếp theo. Tôi đọc lại mẩu giấy lần nữa rồi đi ra ngoài.Quang cảnh trước mắt toàn là nắng. Những tấm kính trước của xe ô tô và những cột nước phun lên từ đài phun nước trong công viên làm tôi lóa mắt. Tôi nhìn xuống dưới, vừa quệt mồ hôi vừa bước đi. Hai đứa trẻ đội mũ cói chạy vụt lên phía trước tôi. Cổng chính của trường tiểu học đóng kín, sân trường vắng vẻ trải rộng. Đi qua khỏi cổng trường là tới một hàng hoa nhỏ. Cả người bán lẫn người khách hàng đều chẳng thấy đâu. Trong tủ kính, mấy bó thạch thảo rung lên khe khẽ. Rẽ khỏi góc phố, cuối đường là viện M. Đúng như những gì chị nói, chỉ có thời gian ở đây là dừng lại. Hình ảnh về một bệnh viện bị gói kín trong kí ức bấy lâu hiện ra nguyên vẹn ngay trước mắt. Bên cạnh cổng là cây long não đại thụ, cửa kính mờ đục, chữ trên bảng hiệu bong gần hết. Không một bóng người, chỉ có bóng nắng của tôi in đậm trên đường. Từ đây men theo tường rào phía sau, chắc chắn có cánh cổng phụ sắp hỏng. “Hẳn là cánh cửa ấy vẫn sắp hỏng như ngày xưa", không hiểu sao tôi lại có thể hình dung rõ ràng đến thế. Chẳng sai tẹo nào, vẫn là cánh cửa bị bung mất một bên bản lề. Tôi vừa tránh để mắc áo vào đinh vừa lách mình qua khe cửa, trước mắt là khoảng sân có bãi cỏ. Khẽ đưa chân dẫm lên đám cỏ xanh được cắt tỉa gọn gàng, cảm giác xốn xang trong lồng ngực sống dậy. Tôi lấy tay ngăn mồ hôi trên trán và nhìn lên. Tất cả dãy cửa sổ bằng kính đều sáng đến lóa mắt. Tôi từ từ lại gần tòa nhà, mùi sơn từ khung cửa sổ bay thoang thoảng. Không một bóng người, không một ngọn gió, ngoài tôi ra chẳng có gì chuyển động. Không cần những thùng các tông tôi cũng có thể ngó được vào trong phòng khám. Không có cả bác sĩ lẫn y tá. Bên trong mờ tỏ như lớp học nấu ăn sau giờ tan trường. Tôi nheo mắt lần lượt xác định từng thứ một: Lọ đựng thuốc, máy đo huyết áp, bức hình hướng dẫn dẫn tư thế sửa ngôi thai, máy siêu âm. Tấm kính áp vào mặt âm ấm.Tôi mơ hồ nghe thấy tiếng trẻ sơ sinh khóc. Tiếng khóc bé nhỏ run rẩy và nghèn nghẹn vọng lại từ phía bên kia ánh mặt lấp loáng. Lắng tai nghe, tiếng khóc ấy xoáy thẳng vào màng nhĩ. Đáy tai đau nhói. Tôi đưa mắt về phía tầng ba. Một người đàn bà trong bộ đồ sản phụ đang nhìn ra xa. Những đường cong của bờ vai hắt trên tấm kính. Mái tóc xõa xượi rủ xuống trán, để lại những khoảng tối trên gương mặt xanh xao, thành ra tôi không chắc có phải là chị hay không. Người đàn bà khẽ mấp máy đôi môi thâm xám, chớp mắt. cái chớp mắt yếu đuối như lúc khóc. Khi tôi cố nheo mắt nhìn thì bị tia nắng hắt ra từ ô của kính chắn mất tầm nhìn. Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Mang Thai của tác giả Yoko Ogawa.
Bóng Em Xa Hơn Chân Trời - Michelle Celmer
Garett ước gì thời gian đưa chàng trở lại đêm vũ hội ấy, cái đêm chàng gặp Louisa lần đầu. Người con gái xinh đẹp đã nhẹ nhàng đi vào đời chàng bằng những bước chân thanh thoát như cánh bướm, đi vào tim chàng bằng tính cách vừa dạn dĩ vừa ngây thơ. Vì một sai lầm ấu trĩ, chàng để mất nàng. Đời chàng từ đấy thành quạnh hiu trống trải đến tàn nhẫn. Mỗi đêm khó ngủ, chàng lại nhớ nàng... Khi lần lại ảo ảnh êm đềm của dĩ vãng, chàng dần dần hiểu ra hạnh phúc tròn đầy không chỉ đơn thuần là sự hấp dẫn giới tính, mà còn là sự hòa hợp về cảm xúc của hai tâm hồn. Khi nỗi nhớ trở nên nhức nhối, khi nhu cầu về nàng biến thành một phần tất yếu của cuộc đời, chàng liều mình đi gặp nàng lần nữa, mong cứu vãn tình yêu chàng muộn mằn phát hiện... *** Garrett choàng tỉnh khỏi giấc ngủ ngon và ngồi bật dậy trên giường. Chàng quờ tay tìm Louisa, nhưng chỉ gặp chăn đệm lạnh ngắt. Chàng vừa mơ một giấc mơ về máy tính của chàng, hình như Louisa hỏi mượn dùng nó. Hay việc đó xảy ra thật? Chàng và nàng nói chuyện về tránh thai, sau đó chàng bắt đầu gà gật ... Đúng, nàng hỏi dùng máy để đặt mua đồ cho trẻ sơ sinh. Rồi chàng nhận ra nguyên nhân khiến mình choàng tỉnh. Chàng đã đóng email chưa nhỉ? Chàng hất chăn và sờ soạng quanh phòng để tìm quần. Nếu chàng chưa đóng, liệu nàng có chú ý đến các tiêu đề gắn tên nàng không nhỉ? Và nếu chú ý thấy, liệu nàng có đọc không? Garrett xỏ chân vào quần, chưa kip kéo khoá đã lao vụt ra khỏi phòng ngủ. Chàng nửa đi nửa chạy suốt dọc hành lang cho tới thư phòng. Khi đẩy tung cửa, vào giây phút bắt gặp nàng ngồi đó với khuôn mặt u ám, chàng biết nàng không chỉ trông thấy email, mà còn đã đọc nó. Trời đánh thánh vật. - Tại sao chàng không xoá đám thư ấy đi? Tại sao còn lưu bằng chứng lại? ... Mời các bạn đón đọc Bóng Em Xa Hơn Chân Trời của tác giả Michelle Celmer.
Đùa Với Thần Ái Tình - Michelle Celmer
Charles Mead có thói quen tuyển trợ lý đẹp, quen đưa họ vào giường ngay trong tuần làm việc đầu tiên, và cũng có thói quen không chung đụng với ai quá một lần. Chuỗi thói quen ấy đưa đến kết quả là chàng thường xuyên phải tuyển trợ lý mới. Victoria Houghton đang làm quản lý tại khách sạn gia đình thì cha nàng phá sản, theo sắp xếp của ông nàng được nhận vào cụm kinh doanh hoàng gia, nhưng vì yêu cầu an ninh nên tạm thời chỉ làm nhân viên thường. Chuỗi sự kiện này đẩy nàng đến vị trí trợ lý của Charles. Chàng cao to, nàng nhỏ nhắn. Chàng nóng bỏng, nàng thờ ơ. Chàng ưa châm chọc, nàng ưa chống đối. Sự hội tụ của các thái cực tạo ra sức hút khó lường. Mỗi ngày họ bị cuốn lại một gần nhau. Lần đầu tiên, Charles lạc mất mình vì ham muốn ngay giữa văn phòng. Lần đầu tiên chàng biết thế nào là khát khao vô tận. Và lần đầu tiên, con báo hung mãnh mê chinh phục đã phải quy thuận mãnh lực đẹp đẽ của tình yêu. *** Khi chuông cửa nhà của Charles vang lên vào cuối ngày thứ năm, anh chắc chắn đó là Victoria, đến để nói với anh là cô đã đổi ý. Nhưng thay vì cô, anh thấy Ethan đứng ở trước hiên nhà. Ethan nhìn anh từ đầu đến chân, nhận thấy đầu tóc bù xù, quần áo nhầu nhĩ, và râu ria bốn ngày không cạo của anh. “Lạy Chúa toàn năng, trông chú như quỷ ấy!” Thích hợp làm sao, xét việc anh cảm thấy thế nào. Anh đứng sang một bên để cho Ethan có thể bước vào, sau đó đóng cửa lại phía sau lưng. “Tôi nghĩ tôi bị bệnh gì đó.” “Hy vọng đó không phải là bệnh truyền nhiễm,” Ethan nói một cách cảnh giác. “Lizzy sẽ giết tôi nếu tôi tha vi trùng về nhà. Cô ấy sẽ trở dạ bất cứ lúc nào, chú biết đấy.” Chỉ khi lòng kiêu hãnh bị thương tổn có thể lây lan sang người khác. “Tôi nghĩ là anh an toàn.” “Có lẽ là cái gì đó liên quan đến Victoria phải không? Người ta nói là cô ấy đã nhận một công việc ở Anh Quốc.” Trước cái nhìn kinh ngạc của Charles, Ethan nói, “Chú nghĩ là chúng tôi không nghe thấy à? Tôi đoán là chú không thể thuyết phục cô ấy ở lại đúng không? Và cái cách hai người hôn nhau tại bữa tiệc, tôi nghĩ chú đã bỏ qua yêu cầu của chúng tôi là không ngủ với cô ấy.” “Anh bực mình à?” Anh ta nhún vai. “Hãy cứ cho là tôi không ngạc nhiên.” “Nếu điều này có ý nghĩa, thì tôi nghĩ là cũng chẳng khác biệt gì. Victoria là người phụ nữ ương bướng nhất trên đời này.” Anh đi vào trong bếp, nơi anh để đồ uống, và Ethan theo sau. “Tuy nhiên, anh đến đây làm gì?” “Chú không đến chơi bóng quần, thiên tài ạ. Tôi gọi đến văn phòng và thư ký của chú nói chú vắng mặt từ thứ sáu tuần trước.” “Đúng vậy.” Charles nhấp một ngụm scotch và ra hiệu về phía chai rượu. “Muốn một ly không?” Ethan lắc đầu. “Sao, đã có chuyện gì?” ... Mời các bạn đón đọc Đùa Với Thần Ái Tình của tác giả Michelle Celmer.