Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Bình An (1972)

Thể loại: Tình cảm lãng mạn, truyện vừa, thời chiến, HE... Số chương: 5 chương full Lần đầu gặp nhau, không hiểu sao anh ấy lại la tôi, thế nhưng sau lại cứu tôi. Lần thứ hai gặp nhau, anh lại mở lời với tôi, nhưng lại hỏi một câu mà tôi chẳng biết nên trả lời thế nào. Anh nói:  - Tôi muốn đồng chí Hoa bày tỏ với người đồng chí thầm thương. Làm sao mà tôi nói được, người tôi thầm thương vừa mới nói như vậy xong, sao tôi có thể bày tỏ bây giờ. Nhưng mà anh không biết tôi có tình cảm với anh sao?! Đến lần gặp thứ mấy cũng không nhớ nữa, anh hôn tôi xong lại hỏi: "Đồng chí Hoa đồng ý nhập hộ khẩu vô nhà tôi không?" với lời hứa "cho em sống đời bình an". Rồi đêm tân hôn, tôi ôm anh khóc lớn, nói anh hứa không bắt nạt em mà! Anh cười bảo, khờ quá làm chuyện vợ chồng thì đàn bà phải đau... Câu chuyện tình đáng yêu và dễ thương của cô quân y với anh chàng Tiểu đội trưởng, lấy bối cảnh năm 1972 trước ngày giải phóng mùa xuân năm 1975. Về thanh xuân, về tình yêu và tình vợ chồng trong thời chiến, đáng trân trọng lẫn gìn giữ. Cùng những sự kiện nổi bật diễn ra ở miền Nam suốt 3 năm trước khi đất nước thống nhất, như Mùa hè đỏ lửa hay việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa... ...... *Tư liệu tham khảo: Wiki tiếng Việt "Chiến tranh Việt Nam". *** Đó là đầu xuân 1972, năm ấy tôi mười tám tuổi, làm y tá trong quân y rồi theo phẫu sư đoàn đóng trong rừng An Giang dưới miền Tây. Tôi băng bó và chăm sóc vết thương cho nhiều thương binh cả nam lẫn nữ nhưng chung quy tôi vẫn là đứa con gái mới lớn, chưa từng tiếp xúc gần gũi với đàn ông, dù bác sĩ giao việc gì tôi cũng cố gắng làm hết, duy cái chuyện lau rửa vết thương nơi chỗ kín cho nam thương binh nằm liệt giường thì tôi không làm được! Tôi cố chấp lắc đầu trước mặt bác sĩ, và trước mặt anh chàng Tiểu đội trưởng. Tiểu đội hơn chục người vừa bị địch xung kích, mấy đồng đội của anh ta bị thương nặng do trúng đạn hoặc trúng bom mới được khiêng về đây hai hôm trước. Đây là lần đầu chúng tôi giáp mặt nhau. Anh ta cao phải tới thước tám, thân hình to lớn trong áo bộ đội lấm đất, đầu đội nón kết, khuôn mặt sáng sủa ưa nhìn với nước da hơi ngăm, ánh mắt hướng vào tôi nghiêm nghị khó chịu: - Tại sao đồng chí không làm? - Tiểu đội trưởng, em là gái chưa chồng, chỗ đó của đàn ông... sao em có thể? - Đã gia nhập quân ngũ, chấp nhận làm y tá thì đồng chí phải săn sóc thương binh dù với mọi vết thương, ở bất cứ vị trí nào. Đồng đội tôi xả thân chiến đấu, còn đồng chí ở đây phân biệt nam nữ, vậy có đúng không? Tôi nhìn anh ta, thầm nghĩ ngoài chiến trường có cái khổ của chiến trường, nơi quân y cũng có cái khó của quân y, anh ta tại sao không thể thông cảm cho một đứa con gái mới làm y tá hơn một năm như tôi? Bác sĩ đứng giữa khó xử, anh Khánh từ đâu chạy lại, bảo để anh làm giúp tôi vì anh là y tá nam, sẽ dễ hơn! Tôi thấy anh cười gật đầu với mình, liền nói câu cảm ơn. - Đồng chí cứ vậy sao thành y tá thành thạo được? Tôi không thích đứa con gái suốt ngày chỉ biết khóc khi ở ngoài chiến trường khói lửa này. Tiểu đội trưởng quay lưng rời đi, tôi bặm môi, chị Miên đứng kế bên an ủi: - Thôi để ý chi, người ta là Tiểu đội trưởng, đòi hỏi nghiêm khắc là chuyện thường. Nghe đâu, tiểu đội anh ta cũng khá lắm đó. Giỏi vậy sao bị địch xung kích bị thương tới mấy người? Tôi không nói ra lời đó chỉ quay lại công việc của mình, trước khi rời lán, tôi còn nghe loáng thoáng chị Miên nói với anh Khánh, Tiểu đội trưởng hình như tên Khởi! Tôi biết anh ta đề cập đến chuyện khi nãy tôi đứng trong góc bếp khóc thầm. Tôi khóc vì nhớ nhà chứ không phải vì tôi sợ! Tía tôi hi sinh trong một lần làm nhiệm vụ, mùa đó miền Tây địch bắn phá cầu đường dữ dội hòng ngăn tiếp tế từ quân ta, tía tôi cùng mấy đồng chí giao thông chung vai quyết giữ đường lên biên giới. Cả đời tía tôi bảo vệ những con đường, những vòng bánh xe chở quân, chuyển hàng từ hậu cần ra tiền tuyến. Má có mình tôi, hồi đó đi làm ruộng má đau đẻ giữa chừng. Má nói lúc mở mắt ra thì nghe tiếng tôi khóc rồi, xung quanh thấy mấy bông dại nở nhụy, thế là đặt luôn cái tên Nhụy Hoa. Nhiều người đọc trại, cứ gọi tôi là nhị này nhị nọ miết. Má bảo tôi hãy như hoa dại, kiên cường khoe sắc, cả đời vui vẻ hồn nhiên. Mong mỏi của má khó thành khi năm mười bảy, tôi xin má đi bộ đội, má không nói gì ngoài việc đồng ý. Má biết thời chiến tranh, những lứa thanh niên luôn xung phong đi bộ đội, góp sức mình trong việc giải phóng nước nhà. Má bảo tôi cẩn thận với con trai, đừng quên nhiệm vụ của mình, môi trường quân đội kỷ luật, đứa con gái như tôi sẽ được rèn giũa nghiêm khắc. Tôi kiên quyết là vậy, thế mà ngày ra đi nước mắt chảy mãi không ngừng. Tôi chọn quân y, chẳng cần phải ra tận chiến trường cầm súng giết địch, ở đây tôi có thể chăm sóc cho nhiều người, giúp họ xoa dịu những cơn đau do chiến tranh bom đạn khốc liệt gây ra. Tôi học trong lớp y tá quen được nhiều đồng chí nữ, có người đang độ xuân xanh cũng có người đã lấy chồng đẻ con. Lớp học nam nữ học chung, và tôi biết anh Khánh. Người đen nhẻm, tốt tính, hay cười. Anh chăm lo cho tôi lắm, tôi xem anh như anh trai. Cái duyên thế nào khi khóa học trôi qua, tôi với anh lại về cùng một đơn vị, thế là thân càng thêm thân. Tôi hay gửi thư cho má, lúc đầu ở đây tôi nhớ nhà lắm, dần dần thì nguôi ngoai. Quân y làm việc liên tục, ca trực không lúc nào ngơi nghỉ, nhiều đêm vừa đặt lưng xuống chiếu nhắm mắt chưa bao lâu đã nghe tiếng bom dội lại, biết ngay thể nào cũng có thương binh chở đến. Hơn một năm, qua những ca trực vất vả tới sáng, tôi cũng quen rồi. Chiều chiều ngơi tay chút, chị Miên rủ tôi qua lán mấy anh nam nói chuyện cho vui. Nơi đây chỗ nào tôi cũng dám đi, riêng có chỗ này thì e dè, vì mỗi lần tới đây đều thấy toàn đàn ông con trai, họ thấy tụi tui lại chọc ghẹo liên tục. Vài lần tôi từ chối mà chị Miên có chịu đâu, bảo anh Khánh ở bển trông em qua đấy hoài! Tôi sang đó chỉ nói được dăm ba câu với ảnh, chẳng làm gì khác. Hôm nay qua tới nơi, tôi không những thấy mấy anh quân y mà còn vài bộ đội chiến đấu với cả Tiểu đội trưởng tên Khởi kia. Nhóm bộ đội thân thiện nói râm ran kể đủ thứ chuyện đánh Mỹ, anh chàng Tiểu đội trưởng ở trong lán, lâu lâu nhìn ra ngoài và vừa thấy tôi lại quay mặt đi. Chị Miên để ý người ta hay sao mà cứ hỏi: - Ảnh ít nói quá hả? - Anh Khởi cũng hòa đồng lắm, không xét nét cấp trên cấp dưới, bình thường thì vui vẻ nhưng ra tới chiến trường thì nghiêm túc dữ thần. - Ảnh nhiêu tuổi, có vợ chưa? - Mới ngoài hai mươi, chưa vợ. Nhiều cô đòi thương mà ảnh từ chối hoài hà. - Thế chị hỏi kỹ vậy, định hỏi cưới Tiểu đội trưởng tụi này hả? - Ờ thì ảnh gật cái là tui hỏi cưới liền! Chị Miên bông đùa, ai nấy đều cười rần rần trước tánh bạo dạn của chị. Từ trong lán Tiểu đội trưởng đi ra, tôi thấy mọi người lập tức im bặt, chắc sợ đội trưởng la cho một trận vì biết nãy giờ mình trở thành mục tiêu bị bàn tán cỡ nào. - Tôi vô rừng có chút việc, mấy đồng chí ngồi đây coi mắt tới đồ đạc giúp tôi. - Đồ quan trọng lắm hả Tiểu đội trưởng? - Mấy cái đó mất, tôi không làm lại được. Dõi theo bóng dáng anh ta khuất sâu trong rừng, mọi người tiếp tục câu chuyện dở ban nãy. Tự dưng tôi tò mò nhìn vô lán, trên chiếc bàn nứa ọp ẹp là một cuốn sổ cũ, mấy lá thư rồi vài thứ lỉnh kỉnh. Tôi nghĩ chắc thư tình của anh ta. Không khí đang vui vẻ thì thình lình máy bay đến. Đằng sau những ngọn cây cao vút, bọn địch ập tới chẳng khác gì sấm sét. Một bộ đội liền đứng dậy nói rõ ràng nhưng không quá lớn: "Chúng đánh tọa độ đó!", một thứ ánh sáng lạnh chớp giật, đất bên dưới rùng mình một cái. Tất cả chúng tôi nằm sát xuống nín thở, tiếp theo đất đá cùng mấy cành cây lớn từ trên đầu đổ ào xuống. Máy bay địch vẫn ở trên cao, hết đợt này lại đến đợt khác! Loạt bom không thả trực tiếp xuống chỗ này, mà cách một khoảng nhưng đủ để rung chuyển mấy cái lán dựng siêu vẹo tại đây. Không ai bảo ai, chúng tôi lập tức đi tìm chỗ nấp. Trong đầu tôi khi ấy bất giác nhớ tới Tiểu đội trưởng, phía rừng nơi anh ta vừa đi về gần với chỗ đánh tọa độ của địch, không biết anh ta may mắn thoát được không. Rồi mắt liếc nhanh về bàn nứa, có mấy thứ đồ quan trọng anh ta nói giữ hộ. Mặc xung quanh cây lớn đổ ào, tôi chui vô lán, quýnh quáng lấy cuốn sổ với thư từ, kèm theo vài thứ khác. Một tiếng bom dội ầm, tôi giật mình thụp xuống, chợt có ai đó nắm vội tay tôi kéo giật lại, nhìn qua mới phát hiện là Tiểu đội trưởng. "Chạy mau!", anh ôm chặt lấy tôi chạy vội ra khỏi lán. Máy bay địch còn quay mòng trên đầu kèm theo từng đợt pháo sáng rực. Tìm được khe đá an toàn, anh ta đẩy tôi vào bên trong núp, còn mình đứng nửa thân ngoài nửa thân trong. Tiếng ầm ầm dội ở ngoài, địch bắn hai mươi ly nghe rát cả tai. Khe đá chật chội tối om, và tôi cảm nhận hơi ấm truyền vào lòng bàn tay mình. Vai tôi với vai Tiểu đội trưởng đụng nhau, tay anh ta vẫn nắm chặt tay tôi, đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc gần gũi với con trai đến vậy. Tôi nhìn sang bên, ánh sáng yếu ớt của buổi chiều cùng pháo sáng trên cao giúp tôi nhìn rõ bóng dáng to lớn đang che chắn ngoài cửa khe. Vị đội trưởng trong tấm áo bộ đội mạnh mẽ lẫn quyết liệt khi bảo vệ tôi. Hình ảnh đó như đập vào trong tâm trí tôi, rất lâu về sau... Máy bay cuối cùng cũng bay đi. Bắt đầu nghe âm thanh lào xào, chắc mọi người đã trở lại dãy lán, tôi với Tiểu đội trưởng cũng đi ra. Không bị dội bom nhưng cành cây đổ xuống làm vài cái lán bị sụp. Chúng tôi nhanh chóng chạy về chỗ lán của phẫu sư đoàn, may chỗ này chưa bị thiệt hại nhiều. Đứng một lúc, tôi phát hiện vai phải của Tiểu đội trưởng chảy máu, màu đỏ thấm đẫm vải áo. - Tiểu đội trưởng, anh bị thương rồi kìa! - Vết thương nhẹ thôi, không sao. - Rồi anh ta nhìn tôi - Nghe tiếng máy bay, tôi chạy vội về thấy ai nấy đều tìm chỗ nấp, sao đồng chí còn chạy vô lán? Bấy giờ mới sực nhớ, tôi đưa ra cái túi vải cũ sờn mà ban nãy kịp bỏ đồ vào trong đó, trả lại cho anh ta và nói rõ: - Hồi nãy anh đi có nhờ coi giúp những thứ này, anh nói rất quan trọng nên em mới quay vô lán để lấy cho anh. Tôi thấy Tiểu đội trưởng ngây người một thoáng, vẻ mặt giống kiểu vừa bất ngờ vừa ngạc nhiên, tiếp theo anh ta đón lấy cái túi vải rồi mở ra xem, tôi nghĩ là mình đã lấy đủ hết. Sau đó anh ta nhìn lại tôi, giọng dường như nhẹ nhàng hơn chút: - Đây là nhật ký của tôi với mấy lá thư gia đình gửi, vài kỷ vật của đồng đội, đúng là quan trọng nhưng không đến mức khiến đồng chí phải mạo hiểm như vậy. Nghe anh ta nói thế bất giác tôi thấy chàng trai này hiền lành đến lạ, lúc này trông anh thật khác với sáng nay khi quở trách tôi. - Tại em nghĩ chạy vô lấy ít đồ chắc cũng không sao. - Đồng chí nhỏ nhắn vậy mà gan lớn quá. - Nhưng hồi sáng Tiểu đội trưởng nói em chỉ biết khóc. Thật tình tôi chỉ buột miệng nhắc lại thôi, nào ngờ Tiểu đội trưởng trở nên khó xử liền đưa tay lên gãi đầu, nhưng anh ta quên mất mình đang đội nón kết thành ra càng thêm bối rối, tôi trông thế mà buồn cười vô cùng. - Sáng nay tôi không đúng khi nặng lời với đồng chí. Tôi thấy đồng đội đau đớn vì bị thương nên sốt ruột, không thông cảm khi đồng chí là một cô gái. - Cái đó em hiểu, điều em không thích là Tiểu đội trưởng nói em chỉ biết khóc. - Ban nãy thấy đồng chí liều mình thì tôi biết cô can đảm cỡ nào rồi. Không nghĩ Tiểu đội trưởng khó tính đó lại khen mình, tôi ngượng ngùng cười. - Đồng chí tên gì? - Nhụy Hoa, cái tên nghe hơi buồn cười, má đẻ em trong bụi hoa dại nên đặt vậy. - Tôi thấy cũng hay, thế đồng chí biết tên tôi chưa? - Nghe mọi người nói Tiểu đội trưởng tên Khởi. - Phong Khởi, là nổi gió đó. Đồng chí thấy ở đâu nổi gió thì ở đấy có tôi. - Tiểu đội trưởng cũng biết nói đùa nghen. - Quê đồng chí Hoa ở đâu? - Em ở Vĩnh Long. - Ủa vậy là đồng hương rồi, tôi cũng ở Vĩnh Long đây. Tôi nghe tiếng anh cười khẽ, cùng lúc một đồng chí bộ đội đi tới hỏi về hành trình ngày mai, anh gật đầu xong quay qua tôi nói rằng: - Mai tiểu đội tôi phải rời khỏi đây, chẳng biết chúng ta có còn gặp lại không. - Quân y tụi em thường đâu có ở một nơi, chỗ này bị địch đánh tọa độ lần thứ ba rồi, có lẽ sẽ phải dời đi chỗ khác. Phong Khởi tỏ vẻ tiếc nuối, mà cũng lạ, lòng tôi cũng mang chút nuối tiếc. - Thôi, trong thời chiến gặp gỡ nhau vậy cũng là cái duyên. Đồng chí bảo trọng, mong có ngày gặp lại, đến lúc đó hi vọng đồng chí trở thành y tá giỏi giang. - Tiểu đội trưởng, anh cũng bảo trọng. Tôi dứt lời, Phong Khởi liền đưa tay lên mái tóc rối của tôi, khoảnh khắc ấy tim tôi đập nhanh kỳ lạ. Mãi đến khi anh lấy xuống một bông hoa dại vô tình vướng vào tóc lúc nào chẳng hay, thả rơi nó vào lòng bàn tay tôi. Anh cười, nhìn thật duyên, đôi mắt long lanh hơn cả những vì sao trên trời đang dần về đêm. Lúc anh quay đi, tôi không hiểu cảm giác xao xuyến này của mình là gì... Chỉ biết rằng, tôi đã ép khô bông hoa dại ấy, cất vào sổ tay giữ cho riêng mình. Hôm sau, Phong Khởi cùng tiểu đội lên đường, còn rất nhiều những trận chiến đang chờ đợi họ. Phẫu sư đoàn chúng tôi cũng chuyển đến chỗ khác. Sau lần đó, lòng tôi tràn đầy hi vọng lẫn chờ đợi, dẫu thứ mình đợi thật mơ hồ. Thời chiến, gặp gỡ rồi chia xa là điều rất hiển nhiên. Không ai trong chúng tôi biết được định mệnh phía trước của mình là gì, sẽ ra sao. Dù vậy, những con người mang trong mình trái tim thanh xuân này vẫn tiếp tục hành trình gian khổ vì lý tưởng lẫn khát vọng về một tương lai hòa bình. ...[Và năm ấy, xảy ra một sự kiện lớn, đó là Chiến dịch Xuân - Hè, còn gọi là "Mùa hè đỏ lửa 1972", bước ngoặt vô cùng quan trọng gần như thay đổi cục diện chiến tranh miền Nam bấy giờ. Chiến dịch kéo dài gần một năm, bắt đầu từ tháng ba năm 1972 đến tháng giêng năm 1973 do Quân Giải phóng miền Nam hòng chống lại chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc tấn công diễn ra với quy mô lớn, tiến thẳng vào tuyến phòng ngự quan trọng ở Quảng Trị - Thừa Thiên Huế, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Thời điểm đó mây Quảng Trị nhuộm một màu đỏ, Tây Nguyên khói lửa ngày đêm, những con đường miền Tây ngập tràn lửa đạn, một phần các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh được giải phóng với mười tám tháng ròng rã của chiến dịch Nguyễn Huệ trước khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết.] ... Thắng trận nhưng thương vong cũng không ít. Ngoài tiền tuyến bộ đội chiến đấu ngày đêm, nơi hậu cần quân y chúng tôi không biết một ngày phải tiếp nhận bao nhiêu thương binh, trải qua bao nhiêu cuộc phẫu thuật xuyên đêm. Kỳ lạ thay, dù mệt mỏi đến đâu, hay trong những giấc ngủ chập chờn, thì tôi vẫn luôn nhớ về một hình bóng rất xa xôi. Nhớ ngày hôm đó, hình ảnh chàng trai đẩy tôi vào khe đá và đứng chắn bên ngoài bảo vệ, nhớ nụ cười của anh, đôi mắt sáng lấp lánh, cả bông hoa dại anh lấy xuống từ mái tóc tôi... Thời chiến đầy gian khổ mà cũng kỳ diệu thay, người ta có thể mang trong mình bóng hình không bao giờ gặp lại, hay một lời hứa chưa từng được nói ra, vậy mà vẫn chẳng cách nào quên được. Mời các bạn đón đọc Đời Bình An (1972) của tác giả Võ Anh Thơ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nữ Sinh - Nguyễn Nhật Ánh
Một sự bất ngờ, Gia được cử về làm giáo viên chủ nhiệm lớp Xuyến, Thục, Cúc Hương. Ba cô hoảng hồn vì thời gian qua đã “hành hạ” Gia bằng đủ trò nghịch ngợm của mình. Hùng quăn không dám đến lớp vì đã có lần đón đường ném đá Gia gây thương tích. Không chịu nổi người dượng ghẻ. Hùng bỏ nhà ra đi. Với tấm lòng cao thượng. Gia đón Hùng về nhà ở chung với mình. Cuối cùng ba cô bạn cũng tìm ra chỗ ở của Gia. Họ sôi nổi bàn chuyện đi cắm trại và xem phim cho cả lớp. *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Vâng, khi vừa xuất hiện trước sân cờ anh đã trông thấy ba cô học trò của anh. Và họ, họ cũng ngay lập tức nhận ra anh và anh nhìn thấy vẻ kinh ngạc sững sờ hiện rõ trên khuôn mặt từng người. Anh vội vã mỉm cười với các cô gái, cố tạo ra một dáng vẻ bình thường nhưng sự cố gắng của anh hình như không đạt được kết quả. Ba cô gái đều cố tránh nhìn về phía anh, họ ngó lơ chỗ khác, kể cả Xuyến, cô lớp trưởng tinh quái và ngang ngạnh. Có lẽ họ áy náy về những trò nghịch ngợm của họ đối với anh. Nhưng, anh nghĩ, dù sao mọi chuyện cũng sẽ nhanh chóng trôi qua và mối quan hệ giữa anh và các cô gái sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Anh cũng không nghĩ mình sẽ được phân công làm chủ nhiệm lớp của Xuyến, Thục và Cúc Hương. Đối với anh, điều đó quả thật bất ngờ. Năm ngoái, sau khi ra trường, hầu hết bạn bè cùng lớp anh đều được phân công đi các tỉnh. Chỉ có hai người, trong đó có anh, nhận nhiệm sở tại thành phố. Nhưng thời gian điều động, bố trí công tác không hiểu sao mất rất nhiều thời giờ. Đến khi anh xuống tới trường, học kỳ một đã sắp kết thúc. Anh đành phải chờ nhận lớp và đầu học kỳ hai. Trong thời gian đó, buổi chiều anh vào trường để giúp đỡ bộ phận văn phòng sắp xếp sổ sách đồng thời làm quen với môi trường mới. Buổi sáng, anh được nghỉ. Nhưng là một sinh viên trẻ mới ra trường, trong lòng đầy ắp nhiệt tình và hoài bão, anh muốn tận dụng các buổi sáng rảnh rỗi để tiếp xúc và tìm hiểu học trò theo cách riêng của mình. Vì vậy mà anh thường đến quán cây Sứ. Chính ở đó, anh đã gặp bọn Thục. ... Mời các bạn đón đọc Nữ Sinh của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Mắt Biếc - Nguyễn Nhật Ánh
Mắt biếc là một tác phẩm của tác giả Nguyễn Nhật Ánh trong loạt truyện viết về tình yêu của thanh thiếu niên của tác giả này cùng với Thằng quỷ nhỏ, Cô gái đến từ hôm qua... Đây được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu về Nguyễn Nhật Ánh, từng được dịch để giới thiệu với độc giả Nhật Bản. Mắt biếc kể về cuộc đời của nhân vật chính tên Ngạn. Ngạn sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng tên là làng Đo Đo (thuộc xã Bình Quế - huyện Thăng Bình - tỉnh Quảng Nam - cũng là nguyên quán của tác giả). Lớn lên cùng với Ngạn là cô bạn hàng xóm có đôi mắt tuyệt đẹp tên là Hà Lan. Tuổi thơ của Ngạn và Hà Lan gắn bó với bao nhiêu kỉ niệm cùng đồi sim, đánh trống trường... Tình bạn trẻ thơ dần dần biến thành tình yêu thầm lặng của Ngạn dành cho Hà Lan. Đến khi lớn hơn một chút, cả hai phải rời làng ra thành phố để tiếp tục học. Khi tấm lòng của Ngạn luôn hướng về Hà Lan và về làng, thì Hà Lan không cưỡng lại được cám dỗ của cuộc sống xa hoa nơi đô thị và ngã vào vòng tay của Dũng. Việc Hà Lan ngã vào vòng tay Dũng - một thanh niên nhà giàu, sành điệu, giỏi võ nhưng rất thiếu đứng đắn - đã làm cho Ngạn đau khổ rất nhiều, nhưng điều Ngạn cần là hạnh phúc của Hà Lan. Mỗi khi Dũng làm Hà Lan tổn thương cô lại tìm Ngạn để nói lên bầu tâm sự, điều đó lại càng làm cho Ngạn buồn thêm. Có lần Ngạn đã đánh nhau với Dũng vì Hà Lan và kết quả tất nhiên là Ngạn thua nhưng nó đã làm cho Ngạn bớt đi tính anh hùng, sẵng sàn đánh nhau mỗi khi Hà Lan bị bắt nạt. Và cũng từ đó những cảm xúc mỗi khi Hà Lan tìm đến Ngạn để giải bầy niềm tâm sự giảm đi. Hà Lan mang thai, nhưng bị Dũng ruồng bỏ. Cô đành gửi con về cho bà ngoại chăm sóc và đặt tên là Trà Long. Tuy hiểu rõ tình yêu của Ngạn dành cho mình, Hà Lan vẫn không đáp lại vì cô hiểu rõ mình muốn sống theo một lối sống hoàn toàn khác với Ngạn. Bằng tình yêu của mình dành cho Hà Lan, Ngạn hết lòng yêu thương và chăm sóc cho Trà Long. Trà Long lớn lên trở thành cô giáo trường làng, và vô cùng yêu quý Ngạn. Trong khi ai cũng nghĩ rằng Trà Long sẽ là sự nối tiếp những gì mà Hà Lan đã bỏ dở trong đời Ngạn, thì Ngạn quyết định ra đi vì anh nhận ra rằng Trà Long chỉ là cái bóng của Hà Lan mà thôi. *** "Giọng văn trong Mắt biếc rất hay và nhẹ nhàng. Câu chuyện tình cảm trong sáng. Sau khi đọc truyện này, tôi bỗng muốn đi Việt Nam". - Nhà thơ TAKATSUKI FUMIKO (Nhật Bản) "Tôi rất đồng cảm với nội tâm của nhân vật Ngạn trong tác phẩm Mắt biếc. Tôi đã rơi nước mắt trước tâm hồn vô tư và sự hy sinh của Trà Long, qua đó tôi suy nghĩ nhiều về bối cảnh xã hội Việt Nam". - Nhà văn INAZAWA JUNKO (Nhật Bản) *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Những ngày sau đó là những ngày nặng nề. Tôi đã kịp trấn tĩnh để hiểu rằng những lời nói của Hà Lan là những phán quyết khắt khe của định mệnh. Những phán quyết đó, tôi không mong gì thay đổi. Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi biết Hà Lan hẳn đã hiểu rõ lòng tôi từ lâu. Nó cũng biết tình tôi dành cho nó không bến không bờ. Nhưng nó thích xa đi, tôi thích quay về, hai người hai thiên hướng khác nhau, đời chia hai ngả, gần hai mươi năm qua khổ ai nấy chịu. Hà Lan đã tự chọn lấy con đường riêng cho mình, con đường đó không có tôi. Bây giờ, sau hai lần gãy đổ, mộng ước không thành, chút duyên lỡ nó không nỡ dành cho tình tôi vằng vặc. Hèn gì đôi mắt nó đêm nào nhìn tôi chan chứa. Nhìn một lần rồi mãi mãi quay lưng. Tình bạn thuở thiếu thời bao năm qua vẫn chỉ là tình bạn, lòng tôi cứ hoài trinh bạch quạnh hiu. Tôi nhớ Hàn Mặc Tử: Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn kia bỗng dại khờ Một thời gian dài, tôi tưởng tôi đã chết. Nhưng tôi không chết được. Trà Long đã học xong lớp chín, chuẩn bị ra thành phố, tôi cố nén buồn thương để lo cho nó. ... Mời các bạn đón đọc Mắt Biếc của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Kamanita: Kẻ Hành Hương - Gjellerup Karl
Câu chuyện về mối tình ngang trái giữa chàng thương nhân Kamanita tài hoa và nàng Vasitthi xinh đẹp diễn ra trên đất Ấn thời Đức Phật còn tại thế. 45 phần truyện là dòng chảy cuộc đời từ hiện tại đến quá khứ, từ quá khứ đến khởi thuỷ kiếp luân hồi của nhân vật; là sự đan xen chuyện kể đời thường với những câu chuyện ngụ ngôn, những ẩn dụ triết học trong đối thoại hay thuyết pháp của Đức Phật. Dòng chảy này tạo nên một ranh giới mơ hồ giữa truyền thuyết và sáng tạo tiểu thuyết; giữa câu chuyện Đức Phật kể về những người đã được Ngài giác ngộ và câu chuyện những người được giác ngộ kể về Ngài. Cái vẻ hư thực đó của tác phẩm trở thành điểm tựa để người đọc tìm thấy niềm tin, rằng triết lý đạo Phật có thể tìm thấy trong những sự kiện của đời người, rằng mỗi người sẽ là tia sáng dẫn đường của chính mình, là chỗ dựa của chính mình và rằng cái để suy ngẫm là những gì vĩnh cửu chứ không phải là cái chỉ tồn tại một mai. Do đó, dẫu là truyền thuyết hay tiểu thuyết, tác phẩm vẫn có sức ám ảnh lớn, ghi tạc vào tâm thức con người, rằng: Con đường giải thoát mở ra cho tất cả mọi người, cả những người không theo Đạo. Những người không theo Đạo - trong số đó có chúng ta. Vậy nên nếu đọc Kamanita, kẻ hành hương, hãy trầm tư lắng nghe câu chuyện này, biết đâu sẽ giác ngộ được một chân lý nào đó cho chính mình. *** Karl Adolph Gjellerup là nhà văn, nhà thơ Đan Mạch được trao giải Nobel Văn học năm 1917 cùng với Henrik Pontoppidan, cũng là nhà văn Đan Mạch. Karl Gjellerup xuất thân trong một gia đình mục sư. Ba tuổi cha mất, ông đến Copenhagen ở với bác họ đằng mẹ. Gjellerup sáng tác từ rất sớm, vừa tốt nghiệp trung học ông đã viết hai vở kịch Spicio Africanus và Arminius nhưng đều không được in. Năm 1874, ông vào học Đại học Copenhagen, khoa Thần học, nhưng về sau lại trở thành người vô thần: điều này thể hiện qua các tác phẩm như Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878, ký bút danh Epigon), Antigonos (1880) v.v. Tác phẩm: Spicio Africanus (1875), kịch Arminius (1875-1876), kịch Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878), tiểu thuyết Antigonos (1880), tiểu thuyết Arvelighed og moral (Truyền thống đạo lý, 1881) Rödtjörn (Cây sơn tra, 1881), tập thơ Germanernes laerling (Cậu học trò của những người Đức, 1882), tiểu thuyết G-dur (Gam sol trưởng, 1883), truyện Romulus (1883), tiểu thuyết En klassisk maaned (Tháng cổ điển, 1884) Brynhild (1884), bi kịch Saint Just (Thánh Just, 1885), kịch Thamyris (1887), kịch thơ Hagbard og Signe (Hagbard và Signe, 1889), bi kịch văn xuôi và thơ Min kaerligheds bog (Cuốn sách tình yêu của tôi, 1889), tập thơ Minna (1889), tiểu thuyết Herman Vandel (1891), kịch Kong Hjarne (Vua Hjarne, 1892), kịch Wuthhorn (1893), kịch Hans Excellence (Đức Ngài, 1893), kịch Pastor Mors (Mục sư Mors, 1894), tiểu thuyết Möllen (Chiếc cối xay, 1896), tiểu thuyết Ved graensen (Tại vùng biên giới, 1897), tiểu thuyết Tankelaeserinden (Nhà tiên tri, 1901), tiểu thuyết Die opferfeuer (Ngọn lửa hiến tế, 1903), kịch Pilgrimen Kamanita (Kamanita, người hành hương, 1906), tiểu thuyết Die weltwanderer (Những kẻ hành hương vĩnh cửu, 1910), tiểu thuyết Reif für das leben (Đến tuổi trưởng thành, 1913), tiểu thuyết Guds venner (Những người bạn của Chúa trời, 1916), tiểu thuyết Der goldene zweig (Cành vàng, 1917), tiểu thuyết Mời các bạn đón đọc Kamanita: Kẻ Hành Hương của tác giả Gjellerup Karl.
Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác - Mạc Ngôn
La Tiểu Thông là một cậu bé luôn miệng nói dối, một đứa trẻ ba hoa nói khoác, một đứa trẻ đạt được thỏa mãn trong khi nói chuyện. Trong dòng chữ lưu hỗn loạn ấy, câu chuyện vừa là thể chuyển tải của ngôn ngữ, vừa là sản phẩm phụ của ngôn ngữ... Câu chuyện mà cậu ta kể khi mới bắt đầu còn có một chút "chân thực", nhưng càng về sau càng là một sáng tác vừa thực vừa hư... Khi La Tiểu Thông kể chuyện về chính mình, nếu xét về tuổi tác thì cậu ta không như một đứa trẻ, nhưng thực ra lại là một đứa trẻ. Cậu ta là thủ lĩnh của những nhi đồng trong nhiều truyện "Góc nhìn nhi đồng" của tôi... Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách "Chuyện Của Cậu Bé Hay Nói Khoác" để hiểu rõ hơn về nhân vật này. *** Buổi sáng sớm cách đây mười năm trước. À, mà khi ấy là năm nào ấy nhỉ? Khi ấy cậu bao nhiêu tuổi? Lan Đại hòa thượng, một người đã từng đi nhiều nơi, hành tung bí hiểm, tạm thời tá túc tại ngôi miếu bỏ hoang mở to mắt, hỏi tôi bằng một giọng âm trầm nghe như vọng về từ một nơi rất xa. Giữa ngày tháng bảy nóng như nung mà tôi bất chợt rùng mình. Đó là năm 1990, khi ấy tôi mười tuổi, thưa đại hòa thượng. Tôi lẩm bẩm trả lời hòa thượng bằng một giọng khác hẳn. Đây là ngôi miếu nhỏ có tên là thần Ngũ Thông nằm giữa hai dãy phố sầm uất, đông đúc, nghe nói tổ tiên của Lão Lan trưởng thôn của thôn tôi đã bỏ tiền ra xây ngôi miếu này. Tuy ngôi miếu nằm kề ngay bên đường nhưng hương khói quanh năm lạnh lẽo, luôn tỏa ra một mùi cũ kỹ ẩm mốc. Chỗ khe tường đổ do người ta trèo vào đã thành lối đi, một người phụ nữ mặc chiếc áo màu xanh, xung quanh viền hoa màu đỏ đang gần như phủ phục ở đó. Tôi chỉ nhìn thấy khuôn mặt to, đầy, trắng như phấn và một cánh tay trần trắng muốt đang chống cằm của người ấy. Chiếc nhẫn trên ngón tay của bà ta ánh lên dưới ánh nắng mặt trời. Người phụ nữ này khiến tôi nhớ đến ngôi nhà ngói lớn được cải tạo thành trường học của nhà đại địa chủ Lan trong thôn tôi trước thời kỳ giải phóng. Trong nhiều truyền thuyết và nhiều sự tưởng tượng bắt nguồn từ truyền thuyết, người phụ nữ như thế này thường xuyên ra vào ngôi nhà nhiều năm thiếu sự chăm sóc tu sửa và phát ra những tiếng kêu nghe rợn cả tóc gáy vào nửa đêm gà gáy. Hòa thường ngồi ngay ngắn trên chiếc bồ đoàn cũ kỹ trước bức tượng thần Ngũ Thông bị người đời lãng quên từ lâu, vẻ mặt bình thản, như một con ngựa đang chìm trong giấc mộng. Tay của hòa thượng lần theo tràng hạt màu tím đỏ, trên mình hòa thượng là bộ quần áo dường như được dệt bằng giấy bị nước mưa thấm ướt, chỉ cần chạm khẽ vào nó sẽ tan thành mảnh vụn. Đôi tai của hòa thượng bu đầy ruồi, chỉ duy cái đầu trọc lóc và khuôn mặt trơn nhẫy là không có con nào. Phía trước sân là một cây ngân hạnh sum suê, trên cây ríu rít tiếng chim, trong tiếng chim hình như còn xen lẫn cả tiếng của một đôi mèo. Đôi mèo này ngủ trong hốc cây và rình bắt những chú chim trên cành. Tiếp theo tiếng kêu vui sướng của con mèo là tiếng kêu thảm thiết của con chim bị bắt và tiếng kêu kinh hoàng hoảng hốt của bầy chim. Tôi ngửi thấy mùi máu tanh, không, chính xác hơn là tôi nghĩ tới mùi máu tanh, nghĩ tới cảnh tượng kinh hoàng sặc mùi máu. Lúc này con mèo đực đang dùng đôi móng giữ chặt con mồi đầy máu, quay sang phía con mèo cái như muốn khoe chiến công. Con mèo cái bị mất chiếc đuôi trông rất giống một con thỏ. *** Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật tỉnh Sơn Đông. Là tác giả tạo nên cơn sốt văn học Trung Quốc tại Việt Nam thông qua một loạt các tiểu thuyết được chuyển ngữ và xuất bản từ thập kỷ trước như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận… Mạc Ngôn đã để lại dấn ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi tài năng văn chương không thể phủ nhận. Giải thưởng Nobel Văn học năm 2012 một lần nữa khẳng định địa vị quan trọng của Mạc Ngôn trong nền văn học thế kỷ 20 của Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Tác phẩm chính Báu vật của đời, nguyên tác: Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀), (1995) Cao lương đỏ, nguyên tác: Hồng cao lương gia tộc (红高粱家族), (1998) Đàn hương hình (檀香刑). Cây tỏi nổi giận (Bài ca củ tỏi Thiên Đường) Củ cải đỏ trong suốt. Rừng xanh lá đỏ (Rừng vẹt) Tửu quốc (Rượu chảy như suối) Châu chấu đỏ. Tổ tiên có màng chân Con Đường Nước Mắt Hoan Lạc Bạch Miên Hoa Trâu Thiến Sống Đọa Thác Đày Người Tỉnh Nói Chuyện Mộng Du Khác Ma chiến hữu, nguyên tác: Chiến hữu trùng phùng (战友重逢), (2004), một tác phẩm đề cập đến lính Trung Quốc hy sinh trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979. Giải thưởng Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc, tháng 12/1995 cho truyện "Báu vật của đời". Giải Mao Thuẫn cho tác phẩm Đàn hương hình Giải Nobel Văn học năm 2012.   Mời các bạn đón đọc Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác của tác giả Mạc Ngôn.