Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Người Đàn Bà

NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ là câu chuyện đầy đau đớn, dữ dội về số phận của những người phụ nữ yếm thế trong xã hội Palestine. Họ không có tiếng nói ngay trong gia đình mình, lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ và chỉ quẩn quanh bên căn bếp, chăm lo con cái. Xuyên suốt câu chuyện là sự câm lặng của ba thế hệ phụ nữ. Thế hệ đầu thoát khỏi sự chiếm đóng của Israel trong xung đột Palestine và Israel, chạy trốn đến nước Mỹ với mong muốn tránh khỏi cuộc sống ở trại tị nạn. Thế hệ thứ 2 đồng ý một cuộc hôn nhân sắp đặt với người Mỹ gốc Palestine với hi vọng đất Mỹ tự do thì tiếng nói của nữ giới sẽ được tôn trọng hơn trên đất Palestine. Thế hệ thứ 3, suýt nữa thì rơi vào bánh xe đổ của các thế hệ trước, nếu cô ấy không phát hiện ra bí mật kinh khủng của gia đình mình và số phận của người mẹ đáng thương... Mỗi thế hệ đều có giấc mơ và khát vọng về sự tự do và nữ quyền, nhưng không phải ai cũng có thể đấu tranh đến tận cùng. Lấy bối cảnh ở một nước Mỹ đầy khát khao cùng những lời hứa hẹn rộng mở, để kể một nền văn hóa với hủ tục cực đoan, khép kín và kiểm soát đối người phụ nữ, NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ là một cái nhìn sâu sắc về sự tuyệt vọng, thống khổ của phụ nữ gốc Palestine. Dù vậy, ẩn chứa bên trong họ là sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm để tìm lại tiếng nói và phẩm giá của mình. Với những trang sách đầy mê hoặc, lôi cuốn và hấp dẫn đến phút cuối cùng, NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ đã được Amazon bình chọn là cuốn sách viết về phụ nữ hay nhất năm. *** Review sách Những Người Đàn Bà Tác giả: Etaf Rum Đôi nét về tác giả: Etaf Rum sinh năm 1989 là Một tiểu thuyết gia trẻ tuổi người Mỹ gốc Palestine. Cô sinh ra và lớn lên trong một gia đình người Ả Rập truyền thống ở Brooklyn New York Review sách: Các vấn đề về con người vẫn luôn là đề tài để các tác giả khai thác, bởi có lẽ chẳng có gì phong phú, đẹp đẽ và xấu xa như con người. Chúng ta ngay cả sự sống, ngay cả bi kịch, cũng là thứ thôi thúc sự viết, sự tìm tòi. Trong đó đề tài “thân phận người phụ nữ” được đào sâu nhiều khía cạnh trong nhiều thời đại bối cảnh. Mình thường nói vui với bạn, cái gọi là “thân phận phụ nữ” sao mà phải viết nhiều thế. Nhưng có lẽ sự phân biệt giới tính đã làm cho phụ nữ trở nên khốn khổ, mà đặc biệt là những người phụ nữ sinh ra giữa chế độ hủ tục của tôn giáo, định kiến xã hội. Những người đàn bà là một cuốn sách như thế, khai thác đề tài thân phận người phụ nữ. Cuốn sách “Những người đàn bà” Lấy bối cảnh ở một nước Mỹ đầy khát khao cùng những lời hứa hẹn rộng mở, để kể một nền văn hóa với hủ tục cực đoan, khép kín và kiểm soát đối người phụ nữ. Cuốn sách kể về câu chuyện đầy đau đớn, dữ dội về số phận của ba người phụ nữ, thuộc ba thế hệ khác nhau, mỗi người đều an bài cuộc đời mình cho những nỗi đau câm lặng trong xã hội Palestine. Họ luôn khao khát mưu cầu sự sống, tình yêu và hạnh phúc nhưng số phận đã bóp nghẹt họ, tước đi tất cả bao gồm cả sự sống. Họ không có tiếng nói ngay trong gia đình mình, lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ và chỉ quẩn quanh bên căn bếp, chăm lo con cái. ‘Nơi tôi sinh ra, vô thanh là một trạng thái đặc biệt của nữ giới, thường tình như một bộ ngực nở nang và cần thiết như chúng tôi mang trong mình sự sinh sôi cho những thế hệ sau này” Họ là những người phụ nữ Palestin ngoài việc sinh nở và ở nhà chăm con,thì gần như đánh mất hoàn toàn chức năng của bản thân mình. Dưới một đời sống không lối thoát được truyền từ đời này sang đời khác, cuốn sách này mang lại nhiều sự u tối về số phận con người. Không chỉ người phụ nữ, ngay cả những người đàn ông, những người tưởng chừng được làm mọi thứ cùng tràn ngập bế tắc. Bởi họ phải gồng gánh trên vai hàng ngàn gánh nặng về cơm áo gạo tiền. Từ ngay trong những tác phẩm văn học trong quá khứ mà chúng ta đã từng được tiếp xúc, “bị kịch cự tuyệt quyền làm người” đã được nhắc tới, và có lẽ là thứ bi kịch đau khổ và tuyệt vọng vô cùng. Xuyên suốt câu chuyện là sự câm lặng của ba thế hệ phụ nữ.  Thế hệ đầu thoát khỏi sự chiếm đóng của Israel trong xung đột Palestine và Israel, chạy trốn đến nước Mỹ với mong muốn tránh khỏi cuộc sống ở trại tị nạn. Thế hệ thứ 2 đồng ý một cuộc hôn nhân sắp đặt với người Mỹ gốc Palestine với hi vọng đất Mỹ tự do thì tiếng nói của nữ giới sẽ được tôn trọng hơn trên đất Palestine. Thế hệ thứ 3, suýt nữa thì rơi vào bánh xe đổ của các thế hệ trước, nếu cô ấy không phát hiện ra bí mật kinh khủng của gia đình mình và số phận của người mẹ đáng thương Mỗi thế hệ đều có giấc mơ và khát vọng về sự tự do và nữ quyền, nhưng không phải ai cũng có thể đấu tranh đến tận cùng. Những người đàn bà là một cái nhìn sâu sắc về sự tuyệt vọng, thống khổ của phụ nữ gốc Palestine. Dù vậy, ẩn chứa bên trong họ là sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm để tìm lại tiếng nói và phẩm giá của mình Với giọng văn mô tả thực và sống động, Etaf Rum đã mang lại cả nền văn hoá Ả rập đến cho người đọc. Một nền văn hoá cổ hủ không chút giấu diếm, truyền thống trọng nam khinh nữ được bộc lộ một cách khéo léo khiến bản thân dễ dàng cảm thấy đồng cảm được với mỗi nhân vật trong truyện. Một chút thương xót, một chút ngưỡng mộ, có đôi khi thấy hơi bất lực và khó chịu với sự nhu nhược của người phụ nữ thế hệ xưa. Cũng không phải tự nhiên Amazon lại cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của năm viết về người phụ nữ hay nó thuộc trong những cuốn New York Times best seller. Có thể khi đọc tác phẩm này chúng ta sẽ vẫn thấy được phảng phất đâu đó sự đồng điệu và quen thuộc, vì chính tại Việt Nam này cũng đã và vẫn đang tồn tại cái nền văn hoá, truyền thống cổ hủ đấy. Chắc cũng khó có ai có thể tưởng tượng được cái sự thật trần trụi ấy lại được tái hiện lại qua giọng văn trẻ như vậy. So với một tác phẩm đầu tay thì Etaf Rum đã thực sự làm nên một điều kì diệu, văn phong tưởng chừng như đơn giản nhưng lại có một chút tính toán. Để mà đánh giá thì mình thấy đây là một tiểu thuyết hay với nội dung cuốn hút người đọc, những cú plot twist và sự bất ngờ sẽ đến với các bạn từ phần nọ sang phần kia. Nhằm muốn bộc lộ rõ được bản chất của những câu chuyện đáng khinh bỉ ấy, nhà văn đã vẫn giữ nguyên một số từ ngữ đặc trưng của nơi đây. Một cuốn tiểu thuyết thực sự mang lại thật nhiều suy nghĩ cho người đọc. *** Tôi sinh ra đã thiếu đi giọng nói, trong một ngày lạnh lẽo, u ám ở phố Brooklyn, New York. Không ai nhắc đến tình trạng của tôi. Tôi không biết mình bị câm cho đến nhiều năm về sau, khi tôi mở miệng xin điều mình muốn, để rồi nhận ra không ai có thể nghe thấy mình. Nơi tôi sinh ra, vô thanh là một trạng thái mặc định của nữ giới, thường tình như một bộ ngực nở nang và cần thiết như việc chúng tôi mang trong mình sự sinh sôi của những thế hệ sau này. Nhưng tất nhiên, chúng tôi sẽ không bao giờ tiết lộ cho bạn điều đó. Ở nơi tôi sinh ra, phụ nữ chúng tôi đã học cách che giấu đi những trạng thái của mình. Chúng tôi được dạy phải im lặng và chỉ có sự im lặng mới cứu được chúng tôi. Phải đến tận bây giờ, sau rất nhiều năm, tôi mới nhận ra điều này là sai lầm. Phải đến tận bây giờ, khi viết ra câu chuyện này, tôi mới cảm nhận được giọng nói của chính mình. Bạn chưa bao giờ nghe về câu chuyện này. Dù bạn có đọc bao nhiêu sách, hay biết bao nhiêu chuyện trên đời thì tôi vẫn tin chưa có ai kể cho bạn nghe một câu chuyện như thế. Ở nơi tôi sinh ra, chúng tôi giữ những câu chuyện cho riêng mình. Kể những câu chuyện ấy cho thế giới bên ngoài là một điều mà chưa ai dám làm bởi nó vừa nguy hiểm vừa đáng hổ thẹn. Nhưng, bạn đã thấy chúng tôi. Hãy dạo bước trong thành phố New York vào một chiều nắng đẹp. Đi xuống Manhattan*cho đến khi những con phố bắt đầu cong lại và rối rắm như những con phố ở Cựu Lục Địa*. Rẽ sang phía Đông, đi qua cầu Brooklyn*, khi ngoái lại, bạn sẽ thấy đường chân trời mỏng tang của Manhattan đang ở ngay phía sau mình. Phía bên kia, giao thông vẫn đang ùn tắc. Vẫy một chiếc taxi vàng và đi xuống đại lộ Flatbush, tuyến đường huyết mạch chính của Nam Brooklyn, bạn tiếp tục hướng Nam cho tới đại lộ số Ba. Nhà ở đây nhỏ hơn, chỉ xây ba hoặc bốn tầng, với những kiến trúc xưa cũ. Cây cầu Verrazano hẹp lửng lơ giữa tâm nhìn như một chú hải âu khổng lồ, hai cánh dang rộng, ở phía xa xa chân trời Manhattan hiện lên lờ mờ như một ảo ảnh. Hướng về phía Nam một lúc, qua những kho hàng cũ tân trang lại thành những quán cà phê và những quầy bán hàu thời thượng, những cửa hàng kim khí tư nhân nhỏ đã có ở đó hằng bao nhiêu thế hệ. Khi những quán cà phê kiểu Mỹ bắt đầu thưa thớt dần, bạn biết là mình đã gần tới nơi. Đi chéo qua phía Đông hai dãy nhà đến đại lộ số Năm, ở đây, bạn sẽ thấy khu Bay Ridge. Cái khu phố rộng ba dặm của chúng tôi là điểm hội tụ văn hóa của Brooklyn. Trên những dãy phố của chúng tôi, bạn sẽ gặp những người Mỹ Latin, Trung Đông, Ý, Nga, Hy Lạp và gốc Á, tất cả đều nói tiếng mẹ đẻ và gìn giữ truyền thống văn hóa của riêng mình. Tranh tường và graffiti*phủ đầy trên tường. Những lá cờ sặc sỡ màu sắc treo trên các ô cửa sổ và ban công. Mùi thơm ngọt ngào của bánh rán churros*, trộn lẫn với mùi thịt xiên nướng shish kebab* và mùi hoa khô trộn - tất cả tạo nên một món hầm hợp chủng. Bước ra khỏi góc phố cắt giữa đường Bảy Mươi Hai và đại lộ số Năm, bạn sẽ thấy xung quanh mình nào là tiệm bánh, những quầy bar hookah*và những chợ thịt của người Hồi giáo. Tiếp tục đi xuống hàng cây đường Bảy Mươi Hai cho đến khi bạn tới một căn nhà cũ trông không có gì khác với những căn còn lại với gạch đỏ phai màu, cửa nâu bụi bặm, số 545. Đây là nơi mà gia đình tôi sống. Nhưng thực ra mà nói, câu chuyện của chúng tôi không bắt đầu từ phố Bay Ridge. Để tới đó, chúng ta cần lật về trước khi tôi tìm thấy giọng nói của mình, trước cả khi tôi được sinh ra. Chúng tôi chưa ở căn nhà trên đường Bảy Mươi Hai, chưa ở Brooklyn, chưa ở Mỹ. Chúng tôi còn chưa lên máy bay từ Trung Đông tới vùng trời mới này, chưa bay qua Đại Tây Dương, chưa biết một ngày chúng tôi sẽ có chuyến đi này. Ấy là năm 1990 và chúng tôi đang ở Palestine. Đó là khi câu chuyện bắt đầu. ***   Isra (BIRZEIT*, PALESTINE) Mùa xuân năm 1990 Ngày nào cũng vậy, suốt phần lớn mười bảy năm của cuộc đời mình, Isra đều nấu ăn với mẹ. Cô thường cuộn từng lá nho trong những buổi chiều ấm áp, hay nhồi mì bí ngòi hoặc ninh những nồi súp đậu láng khi trời mát mẻ và vườn nho ngoài hiên trở nên trống không. Trong kia sẽ là mẹ cô tất tả với căn bếp, như thể cả hai đang thủ thỉ một bí mật gì đó. Hơi nước quẩn quanh hai mẹ con, cho tới khi hoàng hôn buông những vệt nắng màu cam qua cửa sổ. Nhìn ra ngoài, từ đỉnh núi, gia đình Hadid có thể ngắm nhìn quang cảnh của cả miền quê - những triền đồi bao phủ bởi những mái nhà gạch hoa đỏ, tươi sáng, dày dặn và có nét gì đó hoang dại. Isra hay mở toang cửa sổ vì cô yêu mùi của quả vả và hạt hạnh nhân ùa vào mỗi sáng, cả tiếng sột soạt từ nghĩa địa râm ran mỗi tối. Tối đã muộn và tiếng gọi lời cầu nguyện maghrib* đã đến gần, nghĩa là chuyện bếp núc cũng sắp phải xong. Isra và mẹ sẽ đi vào nhà vệ sinh, xắn tay áo lên và rửa đi chút nước sốt đỏ còn dính lại trên ngón tay của mình. Isra đã bắt đầu quỳ xuống cầu nguyện bên cạnh mẹ từ nầm cô lên bảy, năm lần mỗi ngày. Gần đây, cô bỗng mong chờ tới những lần cầu nguyện này hơn, để được đứng bên cạnh mẹ, vai chạm vai, chân sượt qua chân mẹ. Đây là thời gian duy nhất trong ngày mà Isra được cảm nhận sự tiếp xúc của con người. Cô nghe thấy tiếng adhan* đặc sệt gọi họ đến để cầu nguyện. “Lời cầu maghrib hôm nay phải chờ sau mất rồi!” - Mẹ của Isra nói bằng tiếng Ả Rập, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ bếp: “Khách của chúng ta đã tới.” Vừa nghe thấy tiếng gõ cửa, bà chạy vội đến bồn rửa, rửa tay thật nhanh và lau khô tay bằng một cái giẻ sạch. Đi ra khỏi bếp, bà cuốn chiếc áo choàng màu đen quanh vóc dáng bé nhỏ của mình và đội một cái khăn hijab* cùng màu để che đi mái tóc đen dài. Dù mẹ chỉ mới ba mươi lăm tuổi nhưng Isra nghĩ bà trông già hơn thế nhiều, bởi những nếp nhăn của một đời lao động vất vả hằn trên gương mặt. Mẹ nhìn thẳng vào mắt Isra: “Đừng có quên rửa tay cho sạch mùi tỏi trước khi ra chào khách.” Isra rửa tay cố không làm dính bẩn vào bộ váy choàng kaftan* màu hồng mà mẹ đã chọn cho cô. “Trông con có được không mẹ?” “Trông được.” - Mẹ nói, quay mặt chuẩn bị đi: “Nhớ cài hijabcẩn thận không tóc lại hở ra đấy. Nhà ta không muốn khách có ấn tượng không tốt đâu.” Isra làm theo những gì cô được bảo. Từ sảnh, cô đã nghe thấy tiếng cha mình, ông Yacob, lặp lại tiếng chào salaam*thường lệ khi ông dẫn khách vào phòng khách. Ngay sau đó, ông vội xuống bếp để hỏi xin nước và cô sẽ với lấy ba cái tách thủy tinh từ chạn bát để chuẩn bị cho ông. Những vị khách sẽ thường ca thán về sườn đồi dốc dẫn đến nhà của họ, nhất là trong những hôm như thế này, khi bầu không khí ngày càng nóng, cảm giác như nơi này chỉ cách mặt trời có vài phân. Isra sống tại một trong những ngọn đồi dốc nhất ở Palestine, trên một mảnh đất mà Yacob thường khoe là ông mua vì nó có tầm nhìn đẹp và điều đó khiến cho ông thấy mình thật là oai, cứ như là một ông vua vậy. Isra cứ lặng lẽ nghe ông phán đủ điều. Cô không bao giờ dám nói với Yacob rằng, nhà họ thực ra chẳng có gì oai cả. Sự thật là, gia đình Yacob đã bị sơ tán khỏi căn nhà ven biển ở Lydd khi ông mới mười tuổi, trong thời gian Israel chiếm đóng Palestine. Đây là lý do tại sao họ sống ở ngoại ô Birzeit, trên một ngọn đồi dốc nhìn ra hai bãi tha ma - bên trái là nghĩa địa của người Kitô giáo còn bên phải là nghĩa địa của người theo đạo Hồi. Nó là một miếng đất mà không ai muốn ở và cũng là miếng đất duy nhất mà họ có thể chi trả được. Dù sao chăng nữa, Isra vẫn thích nhìn quang cảnh từ đỉnh đồi ở Birzeit. Nhìn qua hai khu nghĩa địa, cô có thể thấy ngôi trường nữ sinh của mình, một tòa nhà bốn tầng chằng chịt những dây nho và chéo sang một chút, cách một cánh đồng cây hạnh nhân, là ngôi đền mosque* mái vòm màu xanh mà ông Yacob và ba người anh em của ông hay cầu nguyện, trong khi cô và mẹ cầu nguyện ở nhà. Nhìn ra ngoài cửa sổ, Isra cảm thấy vừa khát khao, lại vừa sợ. Vượt ra ngoài rìa làng cô liệu có những gì? Cô vừa muốn đi ra ngoài kia và khám phá thế giới, vừa muốn sống trong sự yên ổn và an toàn, bao bọc bởi những thứ mà cô đã biết. Và câu nói của mẹ lại vang lên trong tâm trí cô: Chỗ của người phụ nữ là ở nhà! Ngay cả khi Isra muốn bỏ đi, cô cũng không biết đi đâu. “Đi pha một ấm chai* đi!” - Yacob nói khi ông bước vào bếp và Isra đưa cho ông cốc nước. Ông nói: “Nhớ bỏ vài lá bạc hà vào nữa.” Isra không cần ông phải nhắc, cô đã thuộc lòng những tục lệ này. Cô đã xem mẹ cô phục vụ và tiếp đãi khách từ khi cô bắt đầu có thể nhớ. Mẹ luôn để một hộp sô-cô-la Mackintosh ở trên bàn cà phê trong phòng khách khi nhà có khách và bà luôn mời họ hạt dưa rang trước khi dọn ra bánh baklava*. Ngay cả đồ uống cũng phải mang ra theo thứ tự: Đầu tiên là trà chai bạc hà và cuối cùng là cà phê kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Mẹ bảo, đảo lộn trật tự là một sự xúc phạm. Isra đã từng được nghe một người phụ nữ kể chuyện về lần bà ấy được nhà hàng xóm tiếp bằng một tách cà phê Thổ Nhĩ Kỳ: “Tôi bước ra ngoài cửa ngay lập tức...” - Người phụ nữ kể lại: “Như thế có khác nào họ đuổi tôi đâu.” Isra vừa với lấy bộ tách sứ màu đỏ vàng, vừa để ý tiếng mẹ ngoài phòng khách. Cô có thể nghe thấy tiếng Yacob đang bật cười và sau đó là tiếng cười của những người đàn ông khác. Isra tự hỏi điều gì khiến họ cười. Vài tháng sau đó, vào tuần ngay trước khi Isra sang tuổi mười bảy, lúc Isra đi học về, cô thấy Yacob ngồi trong phòng khách với chàng trai trẻ và cha mẹ của anh ta. Mỗi lần nhớ lại ngày hôm đấy, ngày mà cô được cầu hôn lần đầu tiên, điều mà cô nhớ nhất là lúc Yacob mắng chửi mẹ cô thậm tệ sau khi khách về. Ông tức giận vì bà không mời khách chai bằng bộ tách chén cổ mà họ dành riêng cho những dịp đặc biệt. “Bây giờ thì người ta biết là nhà mình nghèo!” - Yacob hét lên, lòng bàn tay ông quặp chặt lại. Mẹ không nói gì cả, lẳng lặng lủi vào bếp. Cái nghèo chính là lý do tại sao Yacob lại sốt sắng trong việc gả cưới Isra. Mấy đứa con trai giúp ông cày cấy ruộng đồng, kiếm đồng ra đồng vào. Một ngày nào đó, chúng nó sẽ nối dõi dòng họ của gia đình. Con gái chỉ như một người khách vãng lai, lặng lẽ chờ đợi một người đàn ông đến và rước đi, cùng với tất cả những gánh nặng tài chính mà cô đặt lên vai cả gia đình. Từ dạo đấy đã có hai người đàn ông cầu hôn Isra - một anh thợ bánh mì ở Ramalah và một anh lái taxi ở Nablus - nhưng Yacob từ chối cả hai. Ông không thể ngừng nói về một gia đình từ Mỹ đến thăm để tìm con dâu và bây giờ thì Isra hiểu tại sao ông lại từ chối hai người kia: Ông đang mong đợi một lời cầu hôn khác. Isra không chắc mình cảm thấy thế nào về việc di cư sang Mỹ, một nơi mà cô chỉ biết qua những bản tin, hay đọc qua trong thư viện ở trường. Từ những gì cô tìm hiểu, văn hóa phương Tây có vẻ không hà khắc như văn hóa của cô. Điều này khiến cô vừa phấn khích vừa sợ hãi. Cuộc đời cô sẽ thế nào nếu cô chuyển đến Mỹ? Một cô gái cổ hủ như cô sẽ thích nghi như thế nào ở một nơi cấp tiến như Mỹ? Cô thường thức cả đêm suy nghĩ về tương lai của mình, nóng lòng không biết cuộc đời mình sẽ ra sao khi cô bước ra khỏi nhà Yacob. Liệu sẽ có một người đàn ông yêu cô? Cô sẽ có bao nhiêu đứa con? Cô sẽ đặt tên cho chúng là gì? Có những đêm, Isra mơ rằng cô sẽ cưới được người đàn ông mà mình yêu và họ sẽ sống trong một căn nhà nhỏ trên đỉnh đồi, với cửa sổ rộng mở và mái nghiêng màu đỏ. Những đêm khác, cô lại mơ thấy khuôn mặt của những đứa con mình, hai trai hai gái. Chúng ngước lên nhìn cô và chồng cô, nom như một gia đình hạnh phúc mà cô vẫn thường đọc trong sách. Nhưng rồi những hy vọng ấy chẳng đến với cô nữa. Cô chưa bao giờ tưởng tượng ra cuộc sống ở Mỹ. Cô không biết từ đâu để bắt đầu nữa. Và nhận ra điều này khiến cô sợ hãi. Cô ước mình có thể mở miệng để nói với cha mẹ mình rằng: Không! Đây không phải là cuộc sống mà con mong muốn. Nhưng Isra đã học được từ nhỏ rằng, biết vâng lời là cách duy nhất để thể hiện sự yêu thương. Vì thế mà cô chỉ dám thách thức một cách vụng trộm, phần lớn là với những cuốn sách. Mỗi buổi tối khi đi học về, sau khi đã ngâm gạo và đi phơi quần áo cho những người anh trai của mình, dọn bữa tối ra sufra* và đi rửa bát, Isra sẽ lặng lẽ rút về phòng và đọc cạnh khung cửa sổ mở tung, dưới ánh trăng mờ mờ soi sáng từng trang sách. Đọc sách là một trong rất nhiều điều mà mẹ cấm cô làm nhưng cô không bao giờ nghe lời. Cô nhớ có lần đã nói với mẹ rằng, cô không thể tìm được quả dâu tằm nào trên cây nhưng thực ra cô dành cả buổi chiều đọc sách trong khu mộ. Tối đấy, Yacob đã đánh cô hai lần, như một hình phạt cho sự coi thường luật lệ. Ông gọi cô là sharmouta*, đồ con đĩ. Ông nói ông sẽ cho cô thấy chuyện gì xảy ra nếu bọn con gái không biết vâng lời, rồi ông xô cô vào tường và cầm thắt lưng đánh cô. Căn phòng bỗng trở nên trắng bệch. Mọi thứ trông nhợt nhạt. Cô nhắm mắt lại cho đến khi cơ thể tê lại, cho đến khi cô không thể di chuyển nổi nữa. Nhưng nghĩ lại giây phút đó, khi nỗi sợ dâng lên, cô còn cảm thấy một điều gì nữa từ sâu bên trong. Một sự can đảm lạ lùng. Isra sắp xếp những cái chén bốc hơi lên khay và bước vào phòng khách. Mẹ nói có một mẹo để giữ thăng bằng, đó là đừng bao giờ nhìn vào hơi nước bốc lên nên thay vào đó, cô nhìn xuống đất. Trong phút chốc, Isra ngừng lại. Từ khóe mắt, cô có thể nhìn thấy những người đàn ông và đàn bà ngồi đối diện nhau ở trong phòng. Cô hé lên nhìn trộm mẹ, bà ngồi thu mình như thường lệ: Đầu bà cúi xuống và mắt bà dán vào tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ trước mặt. Isra liếc nhìn họa tiết trên thảm. Nào là xoắn ốc, nào là xoáy, cả hai thứ cuộn tròn chung một kiểu, cái này nối đuôi cái kia. Cô quay mặt đi. Cô nóng lòng muốn lén nhìn chàng trai trẻ nhưng cô cảm giác Yacob đang theo dõi mình và cô có thể nghe thấy tiếng ông vang lên bên tai: Một người con gái đúng mực không bao giờ nhìn chằm chằm vào một người đàn ông nào cả! Mắt Isra dán xuống đất nhưng cô vẫn cho phép mình liếc sang phía bên kia sàn. Cô để ý đôi tất của anh chàng, xám sọc hồng với những đường khâu trắng ở phía trên. Nó khác với những gì cô thường thấy trên đường phố Birzeit. Cô cảm thấy như có gì đang châm chích da mình. Làn hơi nước bốc lên từ khay chén bao phủ khuôn mặt Isra. Cô nhanh chóng đảo quanh phòng cho đến khi cô đã mời nước tất cả những người đàn ông. Tiếp đến, cô mời nước người mẹ của chàng trai. Isra để ý hình như cái khăn hijab màu xanh dương đậm của bà ấy bị rơi ra, để lộ mái tóc nhuộm henna* của bà. Isra chưa bao giờ thấy một người phụ nữ Hồi giáo nào đội hijab kiểu này ngoài đời cả. May ra chỉ có ở trên tivi, trong những bộ phim Ai Cập đen trắng mà Isra và mẹ hay xem cùng nhau, hay những video ca nhạc từ Lebanon*, với những người phụ nữ ăn mặc khêu gợi nhảy múa, hay phần minh họa trong cuốn sách yêu thích của Isra, Nghìn lẻ một đêm, tuyển tập truyện cổ tích Trung Đông ở thời Trung Cổ. Nhưng chưa bao giờ cô thấy thế này ở Birzeit. Khi Isra cúi người, cô có thể thấy mẹ chàng trai đang quan sát mình. Bà có dáng người đầy đặn, lưng khom, cười hơi méo. Đôi mắt hình hạt hạnh nhân của bà nheo lại ở phía đuôi. Từ vẻ mặt bà, Isra đoán chắc bà không hài lòng với ngoại hình của cô lắm. Dù gì thì mẹ cũng hay nói rằng cô là một cô gái mờ nhạt - khuôn mặt đù đờ như bột mì và mắt thì đen như than chì. Điểm nổi bật nhất của Isra có lẽ là mái tóc, đen và dài như dòng sông Nile. Tiếc là không ai có thể thấy điều đó dưới lớp khăn hijab cô đội trên đầu. Mà kể cả có đi chăng nữa cũng chẳng làm nên điều gì khác biệt, Isra nghĩ. Cô là một cô gái tầm thường. Suy nghĩ ấy khiến cô nhói đau. Đứng trước mặt mẹ chàng trai, cô thấy môi mình đang run lên. Cô bước về gần phía bà, tay cô giữ chặt cái khay. Cô có thể cảm thấy Yacob đang lườm cô, cô có thể nghe thấy cả tiếng ông hắng giọng. Hình như, cô thấy cả mẹ ấn ngón tay vào đùi cô. Nhưng Isra vẫn ngả về phía người phụ nữ, cái chén sứ trong tay cô rung lên và cô hỏi: “Bác có muốn dùng cà phê Thổ Nhĩ Kỳ không ạ?” Nhưng câu hỏi của cô chẳng có hiệu quả gì. Những vị khách từ Mỹ chả buồn để ý rằng cô mời họ cà phê trước. Sau đó, gia đình nhà trai đã đưa ra lời cầu hôn và Yacob đồng ý ngay lập tức, khuôn miệng ông nở rộng, đó là nụ cười tươi nhất của Yacob mà Isra chưa từng thấy từ trước tới nay.   Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Bà của tác giả Etaf Rum & Nguyễn Minh Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tôi Vẫn Nghe Tiếng Em Thầm Gọi - Takuji Ichikawa
Tiểu thuyết của Ichikawa Takuji giờ đây không còn chỗ cho sự kỳ diệu hay phép màu, chỉ còn lại những kỷ niệm trong không gian và thời gian. Có nỗi đau không mang tên, êm dịu nhưng sắc lẹm cứa vào lòng người. Tình đầu vụ vỡ của những tâm hồn méo mó nhưng đã từng ngập tràn yêu thương. Con người ta suốt cuộc đời vẫn luôn mơ về mối tình đầu, dù bất kể là nam hay nữ. Bóng dáng ấy mạnh mẽ tới nỗi đôi lúc lại trở thành một nỗi niềm ám ảnh. Hoa anh đào rơi năm centimet trên một giây. Con số ấy không chỉ là vận tốc của những cánh hoa đang thả mình mà còn là vận tốc khi chúng ta lặng lẽ bước qua đời nhau, đánh mất bao cảm xúc thiết tha nhất của tình yêu. Vậy mới nói tình yêu là điều lạ lùng nhất thế gian, tưởng chừng nhanh lẹ mà chậm dãi, tưởng chừng vững bền trường cửu nhưng lại hóa mỏng manh. Tôi vẫn nghe tiếng em thầm gọi là tác phẩm đầu tay của nhà văn Ichikawa Takuji khi ông mới bắt đầu tham gia văn đàn. Cuốn tiểu thuyết đặt những viên gạch đầu tiên cho sự thành công của Takuji, người luôn lồng ghép tình tiết kỳ bí, thần ảo để tạo ra những câu chuyện tình đau đớn, đẹp đẽ tới lặng người. Mười bảy tuổi, bị bủa vây trong bóng đen cái chết của người thân, Yuko và Satoru đã tình cờ tìm thấy nhau, như “tay phải tìm ra tay trái”. Những tưởng từ đây họ có thể khép lại những tháng ngày lạc lõng giữa thị trấn nhỏ, nơi mọi thứ luôn dừng lại ở thì quá khứ, nhưng rồi Satoru mắc bệnh và Yuko phải lên Tokyo học, tay phải cùng tay trái lại một lần nữa rời xa nhau... Là tác phẩm đầu tay của Ichikawa, cuốn sách đầy những giằng xé mãnh liệt giữa gặp gỡ và chia ly, một đặc trưng tiếp tục được nối dài trong những tiểu thuyết về sau của ông. Nhưng cũng như chính tác giả vẫn nói, sự dung hợp về tâm hồn mới là điều đáng kể, nên mặc cho những bất trắc và mất mát vẫn cứ trải dài suốt thời gian và không gian, dư âm đọng lại bao giờ cũng thế, là một tình cảm còn sâu nặng hơn cả tình yêu. *** Takuji Ichikawa sinh ngày mùng 7 tháng Mười năm 1962 tại Tokyo. Ông tốt nghiệp trường đại học Dokkyo. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Separation, xuất bản năm 2002. Cuốn Em sẽ đến cùng cơn mưa (xuất bản tại Nhật với tên Ima Ainiyukimasu) in lần đầu năm 2003, là một trong những tiểu thuyết thành công nhất Nhật Bản, được chuyển thể thành truyện tranh, kịch, phim truyền hình ở Nhật và điện ảnh tại Mỹ. Một số tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Nơi em quay về có tôi đứng đợi Tôi vẫn nghe tiếng em thầm gọi Nếu gặp người ấy cho tôi gửi lời chào Em sẽ đến cùng cơn mưa Bàn tay cho em Tấm ảnh tình yêu và một câu chuyện khác ...   Mời các bạn đón đọc Tôi Vẫn Nghe Tiếng Em Thầm Gọi của tác giả Takuji Ichikawa.
Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson
Cuộc phiêu lưu ly kỳ, tiểu sử lôi cuốn và nghiên cứu đáng ngạc nhiên về nhân vật xứ Scotland, Kidnapped (Bắt cóc) của Robert Louis Stevenson năm 1886 chưa bao giờ mất đi vị thế của nó.  Kidnapped là “tiểu thuyết cho các chàng trai” và được xuất bản lần đầu tiên dưới dạng từng kỳ trên tạp chí Young Folks từ tháng Năm tới tháng Bảy 1886. Cuốn tiểu thuyết được in thành sách lần đầu tiên bởi Cassel and Company tháng Bảy 1886. Trong Tuyển tập Stevenson, tác phẩm sở hữu cái tên dài nhất và công phu nhất trong lịch sử văn học Anh: “Hồi ký về hành trình của David Balfour năm 1751; Anh đã bị lạc như thế nào; Sống sót trên đảo hoang; Chuyến đi đến Highlands hoang dã; Làm quen với Alan Breck Stewart và những chàng Jacobite khét tiếng xứ Highlands; Mọi thứ khổ ải dưới bàn tay người chú, Ebenezer Balfour của rừng sâu giả dối. Do chính anh viết và được Robert Louis Stevenson thuật lại với lời dẫn bởi bà Stevenson”. Kidnapped được đón nhận khi xuất bản và đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà văn từ Henry James, người đã khen ngợi sức mạnh kể chuyện của tác phẩm, Jorge Luis Borges và Seamus Heaney, cùng nhiều người khác. Phần sau không tốt bằng, Catriona, được xuất bản năm 1893. Kidnapped là kiệt tác của ông, một tiểu thuyết hành động không thể nào quên đã truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn từ Joseph Conrad, John Buchan, Graham Greene đến Muriel Spark. Đây cũng là một sự trù tính hoàn hảo cho sự phức tạp của nhân vật người Scotland, nửa Celt, nửa Saxon. Giống như trong Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde, ông cũng bị ám ảnh bởi một phần nhân cách của mình, và vào năm bỏ phiếu độc lập, Kidnapped vẫn được xem là tác phẩm thiết yếu cần đọc. Tôi chọn tác phẩm này để thể hiện tính đặc Scotland của Stevenson cũng như tài năng văn chương của ông. Cuốn tiểu thuyết đơn giản đến khó tin. Mặc dù miêu tả câu chuyện của những chàng trai, với nguồn gốc từ sự thật lịch sử, nhưng tác phẩm đồng thời thể hiện nghệ thuật khéo léo của Stevenson. Quả thực Kidnapped đã hoàn thành đồng thời ba sứ mệnh đó. Thứ nhất, đó là chuyến phiêu lưu hành động đáng kinh ngạc, nơi giọng kể của Stevenson, thứ văn xuôi vô cùng súc tích, có sức mạnh mê hoặc lòng người. Ông khiến cho độc giả phải ngạt thở trong phấn khích và ngưỡng mộ. Henry James không ngờ lại là một người hâm mộ cuồng nhiệt của chuỗi chương “The Flight in the Heather” (Cuộc chiến dưới cây thạch nam). Lật đến chương X, “The Siege of the Round House” (Sự vây hãm của ngôi nhà vòng tròn) sẽ tìm thấy văn hứng của tác giả. Thứ nhì, Kidnapped lấy gốc từ một sự thật lịch sử, vụ ám sát ở Appin, Scotland tháng Năm 1752, cái chết của “con cáo đỏ”, biến đổi thành một câu chuyện phổ biến cho phần lớn độc giả lần đầu bắt gặp trên tạp chí Young Folks. Và Stevenson tiếp tục khai thác thể loại ông đang viết. Kidnapped, giống như Đảo giấu vàng, đi kèm với một tấm bản đồ, để thuyết minh rõ hơn cho câu chuyện; tựa đề các chương cũng được thiết kế để nói lên hành trình của ông: “I Run a Great Danger in the House of Shaws” (Tôi gặp nguy ở ngôi nhà trong rừng); “The Man with the Belt of Gold” (Người đàn ông với chiếc thắt lưng bằng vàng); và “The House of Fear” (Ngôi nhà sợ hãi). Cuối cùng, Kidnapped là một nghiên cứu đầy sức thuyết phục và khó quên về hai tính cách của nhân vật người Scotland. David Balfour, thuộc đảng Whig, là một chàng trai xứ Lowland Scotland dòng Presbyterian, bị bắt cóc khi bắt đầu hành trình giành quyền thừa kế từ tay người chú xấu xa Ebenezer. Alan Breck (Stewart), được Balfour mô tả là “một kẻ nổi loạn đáng kết tội, một kẻ đào ngũ, và là tay sai cho vua Pháp”, đại diện cho niềm tự hào của người Highlands sau cuộc nổi loạn Jacobite năm 1745, nóng tính, khinh suất, lãng mạn và bất hạnh, với những khúc thoại đáng nhớ. Cặp nhân vật này cùng hành động, cãi nhau, cùng nổi loạn (với Stevenson) với phong cách rất Scotland. Như bánh trái của một quốc gia giàu có, Kidnapped đơm hoa với vô số phương ngữ, “ain” (một), “bairn” (đứa trẻ), “blae” (ủ rũ), “chield” (gã bạn), “drammach” (bột yến mạch), “fash” (phiền), “muckle” (to lớn), “siller” (tiền), “unco” (vô cùng) , “wheesht!” (suỵt!), và hàng tá nữa. Tiếng vùng Scotland bằng cách nào đó giúp Kidnapped có một sức mạnh không bao giờ mệt mỏi, nhưng bên trong lại ảm đạm. Stevenson, qua giọng Balfour, bày tỏ điều này khi anh thoát khỏi “phần tăm tối nhất của cuộc hành trình… Ransom ở bên dưới, Shaun chết trên sàn nhà, hay Colin Campbell (con cáo đỏ) túm lấy ngực áo khoác của hắn…” Tất nhiên Balfour đã sống sót, nhưng tất cả mọi người khác đều có số phận phải chết. Còn Stevenson đột ngột ra đi bởi một cơn đột quỵ trên biển Samoa ngày 3/12/1894, năm 44 tuổi. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Tác phẩm: Bắt Cóc Mũi Tên Đen Đảo Giấu Vàng Bác sĩ Jekyll và ông Hyde ... *** Mời các bạn đón đọc Bắt Cóc của tác giả Robert Louis Stevenson.
Người tình Hoa Bắc - Marguerite Duras
7 năm sau thành công với “Người tình”, Marguerite Duras một lần nữa trở lại với câu chuyện tình yêu ám ảnh giữa cô bé người Pháp mới lớn và chàng thanh niên Trung Hoa. Tiểu thuyết “Người tình Hoa Bắc” của bà vừa được xuất bản bằng tiếng Việt. Mở đầu cuốn Người tình Hoa Bắc, Duras viết: “Tôi được biết anh ấy đã qua đời. Đó là vào tháng 5/1990, cách đây một năm. Tôi chưa bao giờ từng nghĩ đến sự ra đi của anh ấy. Người ta còn nói với tôi rằng anh được an táng tại Sa Đéc, rằng ngôi nhà màu xanh vẫn luôn ở chỗ đó, nơi gia đình và con cái anh cư ngụ”. Cuốn sách ra đời năm 1991 - một năm sau khi ông Huỳnh Thủy Lê - nguyên mẫu người tình của nhà văn mất. Cái chết của ông dường như đã làm sống dậy những ký ức đã trôi qua hơn nửa thế kỷ trong tâm hồn cô bé da trắng. Một lần nữa khai thác lại mối tình cũ, nhưng theo dịch giả Lê Hồng Sâm, Người tình Hoa Bắc thể hiện những cảm nhận khác biệt về nhân vật, về lối viết. Theo bà, nhân vật người tình trong cuốn tiểu thuyết thứ hai của Duras “táo bạo hơn, cường tráng hơn, tuấn tú hơn”. Nếu như trong cuốn Người tình, nhà văn trao nhiều quyền chủ động chèo lái chuyện yêu cho cô gái 15 tuổi thì ở tác phẩm mới này, người tình Trung Hoa đã bớt rụt rè, bớt mặc cảm chủng tộc hơn. Bà Lê Hồng Sâm tỏ ra ngạc nhiên khi mà Người tình Hoa Bắc - được viết 60 năm sau khi Duras rời khỏi Việt Nam - vẫn tái hiện được những ký ức đầy sống động về xứ sở Đông Dương trong vẻ đẹp của những đêm mùa khô, của những cơn mưa gió mùa, của mênh mang đồng ruộng, của xóm ghe thuyền, của bầy trẻ đánh xe trâu, của màu chiếc quần lụa đã nhợt nhạt. Người tình Hoa Bắc khác biệt với Người tình còn ở tính chất kép của tác phẩm. Nhà văn xác định: “Đây là một cuốn sách. Đây là một bộ phim”. Chuyên gia văn học Trần Hinh cũng phát hiện ra tính chất lai tạo giữa văn học và điện ảnh trong tác phẩm của Marguerite Duras. Ông cho rằng, Duras phải chăng không hài lòng với các nhà làm phim Người tình chăng nên với Người tình Hoa Bắc, bà muốn tạo nên một cuốn tiểu thuyết có khả năng đọc như một kịch bản phim? ***     Marguerite Duras (1914 - 1996) tên thật là Marguerite Donnadieu. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Ga-ronne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. Bà sinh tại Gia Định, Đông Dương (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha là giáo sư toán mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm Marguerite mới lên bốn tuổi. Mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Escole de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trương Vương ngày nay). Mẹ bà ở vậy nuôi bà người con trong cảnh khốn khó. bà có một người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. Trải qua tuổi thơ và thời thiếu niên ở Việt Nam, nhưng kỷ niệm nơi đây đã gợi nhiều cảm hứng và in đậm trong các tác phẩm của bà. Năm mười tám tuổi, Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luận và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ năm 1935 tới năm 1941. Năm 1950, Duras được biết tới lần đầu tiên với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau này của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với người tinh (l’ Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nông nàn và lãng nạm giữa bà với điền chủ gốc hao giàu có, Huỳnh Thủy Lê, tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và được dựng thành phim năm 1992. Tác phẩm của Duras bao gồm khoảng bốn mưới tiểu thuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les- enfants. Cuộc đời của bà giống như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết vê những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và cả sự im lặng... Những tác phẩm đầu tay của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã từng bị nhà văn Raymond Quene-au chỉ trích), nhưng kể từ Monderato Cantabile, bà đã thử những lỗi viết mới, đặc biệt là cắt bổ những đoạn văn dài nhằm làm tăng tầm quan trọng của những gì không được viết ra. bà được xếp vào phong trào tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, nhưng không phải để kể lại mà để ám chỉ những chuyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở paris, được chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. BachvietBooks Mời các bạn đón đọc Người tình Hoa Bắc của tác giả Marguerite Duras.
Thời Thơ Ngây - Edith Wharton
Thời thơ ngây (tên gốc là The Age of Innocence) là tiểu thuyết thứ mười hai của bà. Tác phẩm đạt giải Pulitzer năm 1921, giúp Edith Wharton trở thành nhà văn nữ đầu tiên giành giải thưởng này. Cuốn sách kể về câu chuyện của một cặp đôi thuộc tầng lớp thượng lưu xã hội Mỹ đang chuẩn bị kết hôn. Newland Archer, một luật sư hào hoa và là người thừa kế của một trong những gia đình có danh tiếng bậc nhất ở New York lúc bấy giờ, đang háo hức chuẩn bị cho đám cưới mơ ước của mình với tiểu thư May Welland xinh đẹp. Đúng vào thời điểm ấy, nữ Bá tước Ellen Olenska, cô chị họ xinh đẹp của May trở về từ châu Âu sau tin đồn ly hôn với một Bá tước người Ba Lan. Ban đầu, Archer lo lắng vì tai tiếng của cô có thể ảnh hưởng đến May Welland nhưng dần dần anh lại bị Ellen- người coi thường những quy định hà khắc của xã hội New York thu hút. Tình cảm anh dành cho nữ Bá tước ngày càng sâu đậm và điều đó có thể làm hủy hoại đám cưới của anh và May. Điều gì sẽ xảy ra? Liệu Ellen có dành tình cảm cho anh? Đứng giữa cô dâu tương lai và tình yêu định mệnh của cuộc đời, anh sẽ lựa chọn như thế nào? Bằng giọng văn châm biếm và hài hước, Edith Wharton đã tái hiện lại xã hội New York vào những năm 70 của thế kỉ XIX với những lề thói cổ hủ, lạc hậu, cái xã hội khiến con người ta không thể sống thật với bản chất, tình cảm của mình. Đồng thời, người đọc cũng cảm nhận được tài năng của bà qua cách bà miêu tả mối tình lặng lẽ của Ellen và Archer. *** Edith Wharton sinh ngày 24-1-1862 tại số nhà 14, Đường Hai mươi ba Tây, Thành phố New York. Bà là con gái duy nhất trong một gia đình có quá đông con trai thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có, từng được bà miêu tả vào năm 1933 như một “trung tâm quý tộc thu nhỏ… một xã hội mà tất cả những người buôn bán đều bị loại ra như một điều đương nhiên” (Hồi ký, 1.3). Bà là nữ tiểu thuyết gia đầu tiên đạt giải Pulitzer. Ngoài ra, bà cũng viết truyện ngắn và là một nhà thiết kế. Bà từng được đề cử giải Nobel Văn học năm 1927,1928 và năm 1930. Wharton kết nối quan điểm của bà về các tầng lớp đặc quyền trong xã hội Mỹ với trí thông minh bản năng xuất sắc để tạo nên những tiểu thuyết và truyện ngắn hài hước, sâu cay về vấn đề xã hội và tâm lý. Bà cũng quen biết nhiều cây bút văn chương cũng như những chính trị gia thời đó, trong đó có cả Tổng thống Theodore Roosevelt. Hồi còn nhỏ, bà đã phản đối những chuẩn mực về ăn mặc và lễ nghi dành cho con gái lúc bấy giờ. Bà cho rằng những yêu cầu đó là cứng nhắc và thiển cận. Edith muốn nhận được nhiều hơn từ nền giáo dục, bởi vậy bà đọc sách từ thư viện của bố và những người bạn của ông. Mẹ của bà ngăn cấm bà đọc tiểu thuyết cho đến khi kết hôn và Edith đã tuân theo. Edith bắt đầu làm thơ và viết tiểu thuyết từ khi còn nhỏ. Bà thử viết tiểu thuyết từ khi mười một tuổi. Tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà là bản dịch từ một bài thơ bằng tiếng Đức có tên “What the Stones tell” của Heinrich Karl Brugsch và bà kiếm được 50 đô la. Lúc đó, bà mới mười lăm tuổi. Gia đình bà không muốn tên của bà xuất hiện ngoài công chúng bởi vì tên của phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu chỉ xuất hiện trên mặt báo để thông báo về sự ra đời, kết hôn hay từ trần. Do vậy, bài thơ được phát hành dưới tên một người bạn của bố bà, E. A. Washburn. Ông đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực tự học của bà, và ông đã khuyến khích bà theo đuổi nghiệp viết chuyên nghiệp. Ngoài viết tiểu thuyết, Wharton đã sáng tác hơn 85 truyện ngắn. Bà cũng là một nhà thiết kế và bà cũng viết nhiều sách về thiết kế, bao gồm tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà. Bà mất ngày 11-8-1937 sau một cơn đột quỵ tại Pháp.   Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ngây của tác giả Edith Wharton.