Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Lerouge

Vào ngày thứ 5, 6 tháng 3 năm 1862, một vụ án mạng đã làm ngôi làng La Jonchère thanh bình bị chấn động: bà quả phụ giàu có Lerouge bị sát hại dã man tạị nhà riêng. Điều tra viên Lecoq đã phải nhờ sự giúp đỡ của một thám tử nghiệp dư cũng là người thầy của mình, lão Tabaret, tham gia vào cuộc điều tra. Với sự cẩn trọng, tỉ mỉ,  kĩ thuật  phát họa tâm lí tội phạm xuất sắc cùng phương pháp suy luận chặt chẽ, tài tình, lão Tabaret đã lần theo manh mối và dễ dàng tóm được thủ phạm. Khi vụ án tưởng chừng đã khép lại thì những bước ngoặt của số phận lại bất ngờ mở ra một hướng đi mới, khiến các điều tra viên phải xem xét lại toàn bộ những suy luận của mình. Những tình tiết mới xuất hiện sẽ đưa vụ án này đi đến đâu? Những bí mật đen tối nào đang bị lớp màn của thời gian che phủ. BẤT NGỜ, HẤP DẪN là những gì độc giả nhận xét khi đọc cuốn tiểu thuyết trinh thám này của Gaboriau. Giới thiệu tác giả Émile Gaboriau Émile Gaboriau (1832 - 1873) là một trong những tiểu thuyết gia “mở màn” cho thời kỳ đỉnh cao của trinh thám Pháp, đưa trinh thám Pháp sánh ngang với trinh thám Anh, trinh thám Âu Mĩ.  Bạn đọc ở Việt Nam biết đến ông với Hồ sơ số 113 và Tội ác ở Orcival.  Bằng việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật thám tử tài ba, tài trí Lecoq, Émile Gaboriau đã trở thành một trong những nhà văn trinh thám kiệt xuất trên thế giới và được mệnh danh là "Ông tổ" của tiểu thuyết trinh thám Pháp.  *** “Liệu có gì ghê tởm hơn sự gán ghép hai ý nghĩ ấy với nhau, lòng căm hận và công lý! Không cần coi thường mình hơn so với những kẻ xấu xa mà mình đã kết án, liệu một quan tòa có thể cho phép nhớ rằng một kẻ tội nhân mà số phận đang nằm trong tay mình đã từng là kẻ thù của ông? Một Thẩm phán điều tra liệu có được phép sử dụng những quyền lực thái quá của mình để chống lại một bị can, khi mà sâu trong tâm can ông ta vẫn còn một giọt mật đắng?” Một đoạn miêu tả tâm lý nhân vật thật xuất sắc với những đấu tranh nội tâm về việc có nên đem chuyện riêng tư vào phép công hay không? Thực chất, nếu đặt bản thân vào hoàn cảnh của nhân vật, chúng ta liệu có công tư phân minh được hay không? Hay cũng chỉ áp dụng quyền hành mà bản thân đang có để triệt tiêu tất cả những mối thù hận và căm hờn lên kẻ thù đang đứng trước mặt? Đôi khi đọc sách là thế, là khiến tôi phải suy ngẫm về những đoạn nhỏ trong sách để tự vấn lòng mình xem bản thân sẽ làm như thế nào với tình huống đó. “Vụ án Lerouge” mở ra với bối cảnh làng La Jonchere bình yên, thế nhưng tất cả mọi người đã bị chấn động bởi cái chết của bà quả phụ Lerouge. Hàng loạt thắc mắc được đặt ra và người ta không hiểu tại sao bà ta bị giết, ai có thể ra tay tàn độc như vậy. Lần này, sự xuất hiện của ông thám tử nghiệp dư Tabaret là một điểm nhấn thú vị và rõ ràng là ông ta có phần tài giỏi hơn cả Lecoq khi sớm tìm ra được hung thủ. Ở nhân vật này, chúng ta sẽ thấy được bóng dáng của Holmes bởi khả năng quan sát mọi việc và tình tiết rất cẩn trọng. Một chút tự mãn được thêm vào tài năng phá án của lão đã tạo ra một cá tính hết sức riêng biệt, đôi chút hài hước và đôi chút khó ưa. Thực ra, ở “Vụ án Lerouge”, việc hung thủ bị lộ diện không còn là yếu tố hút bạn đọc nữa. Điểm hay nhất chính là mối tình xưa cũ của nhân vật được tiết lộ khiến cho chúng ta thêm phần đồng cảm và thích thú nhiều hơn. Tình yêu bi ai được khai thác triệt để và rõ ràng sẽ lấy được nước mắt bạn đọc. Khổ trong tình yêu và tội ác được nảy sinh không phải là một mối kết nối quá mới nhưng với việc khai thác sâu sắc đã khiến cho câu chuyện thật sự thành công và đầy sâu sắc. Nếu những định kiến của xã hội và kiêu hãnh của con người có thể áp chế tình yêu thì sao nó không thể áp chế được luôn cả những bi kịch đã nảy sinh từ những uất ức đó?! Nhìn chung, “Vụ án Lerouge” đã mang tới một câu chuyện đầy ai oán cho bạn đọc với sự lồng ghép tuyệt vời giữa miêu tả tâm lý nhân vật với những đoạn phá án khá kịch tính. Sự thật và những mâu thuẫn tâm lý đã đẩy câu chuyện đến mức cao trào nhất; đôi lúc, tôi còn cảm thấy bất ngờ như chính cảm xúc của nhân vật trong truyện vì không ai có thể ngờ mọi chuyện lại diễn biến theo chiều hướng ấy. Tham, sân, si của lòng người đều hiện rõ qua cách diễn đạt của tác giả Émile Gaboriau và nếu phải suy ngẫm về tình đời, tình người thì mọi chuyện đều diễn ra cay đắng quá, khó mà chấp nhận được. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 25-01-2020) Trần Thông *** Émile Gaboriau Chắc các bạn chưa quên “trai đẹp” trong Hồ sơ số 113, “gái đẹp” trong Tội ác ở Orcival. Nay các bạn sẽ biết thêm “ông già” Tabaret rất thú vị. Tại ngôi làng La Jonchere thanh bình, bà quả phụ Lerouge bị sát hại tại nhà. Ở một ngôi làng từ trước tới giờ luôn thanh bình, tại sao bà quả phụ Lerouge lại bị sát hại? Nguyên nhân khiến bà bị sát hại là gì? Tất cả các câu hỏi đó được giải đáp nhờ sự trợ giúp của vị thám tử nghiệp dư, lão Tabaret. Người được gọi là thầy của anh chàng thám tử gà trống Lecoq. Dưới con mắt của thanh tra Gevol, lão Tabaret là một ông già tự phụ như một con công, dễ nổi khùng, dễ mắc lừa, lão làm trinh thám chỉ để chứng tỏ tài năng của mình, giống như một nghệ sĩ không hơn không kém. Mặc dù đôi lúc có sự nhiệt tình thái quá nhưng không thể phủ nhận tài năng của lão Tabaret. Sự cẩn trọng, tỉ mỉ, khả năng quan sát, suy luận sắc bén. (Sự quan sát tỉ mỉ có bóng dáng của thám tử Sherlock Holmes quen thuộc). Dĩ nhiên có sai lầm thì mới là con người, đâu phải ai cũng thông minh hoàn hảo. Lecoq “trai đẹp” chỉ là cameo trong tập này thôi. Sân khấu chính là lão Tabaret. Không biết có phải do đọc kha khá trinh thám rồi nên “khôn” hơn hay do vụ án mà Boog đoán được cả hung thủ lẫn nguyên nhân gây ra tội ác nên không bất ngờ lắm về hung thủ. Tuy nhiên, để lại cảm xúc ở vụ án này không phải ở khía cạnh trinh thám mà là khía cạnh tình cảm. Boog khá là xúc động, cảm thông cho mối tình bi ai của nhân vật. Tại sao yêu nhau không đến được với nhau, để giờ đây hai ta phải khổ đau. Những rào cản định kiến, sự ngăn cách của xã hội, sai lầm bồng bột của tuổi trẻ đã để lại một bi kịch mà lớp đất thời gian không thể chôn vùi. Đánh giá cá nhân: 7,5/10 Binh Boog *** Thứ Năm ngày 6 tháng Ba năm 1862, hai ngày sau ngày Thứ Ba Ăn Mặn*, năm người đàn bà ở làng La Jonchère đã đến trình diện tại Sở Cảnh sát xã Bougival. Ngày được ăn thịt sau Mùa chay (ND). Họ báo với cảnh sát rằng từ hai ngày nay không ai nhìn thấy hàng xóm của họ là bà quả phụ Lerouge, người sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ biệt lập. Sự im ắng này khiến họ lo lắng. Sợ là có án mạng hay ít nhất là một tai nạn gì đó, họ yêu cầu “luật pháp” phá cửa vào nhà xem có chuyện gì để được yên tâm. Bougival là một xứ sở đáng yêu, cứ Chủ nhật là trai gái lại chèo xuồng về đây; tội phạm cũng nhiều nhưng hiếm có án mạng. Vì thế, ban đầu viên thanh tra khước từ lời cầu xin của mấy người đàn bà, nhưng họ cứ nài nỉ mãi và cuối cùng nhà chức trách đã phải nhượng bộ. Ông cho gọi viên cai đội hiến binh đến cùng với hai nhân viên, sai người tìm một anh thợ khóa, rồi cả tốp cùng đi theo hàng xóm của bà quả phụ Lerouge. Làng La Jonchère là một ngôi làng nhỏ nằm trên triền dốc đổ xuống sông Seine, giữa xã Malmaison và xã Bougival. Nó cách con đường lớn hai mươi phút, con đường lớn đó chạy từ Paris đi Saint-Germain qua Rueil và Port-Marly. Dẫn đến làng là một con đường dốc đứng mà ngành cầu đường chưa hề biết đến. Thế là nhóm người, dẫn đầu là tốp hiến binh, đi theo con đường lớn đắp thành một con đê ngăn cách sông Seine với khu vực này, rồi chẳng mấy chốc họ quẹo phải rẽ vào một con đường ngang sâu hút kẹp giữa hai dãy tường gạch. Đi khoảng một trăm bước, họ dừng lại trước một căn nhà đơn sơ nhưng có vẻ ngoài lịch sự. Với bề sâu kéo dài hơn bề rộng, ngôi nhà có một tầng trệt hai phòng và một tầng áp mái ở trên. Quanh nhà trải rộng một khu vườn gần như không được chăm sóc. Thông ra vườn là một chiếc cổng gỗ nhẹ được buộc hờ bằng một sợi dây thép. - Ở đây này. - Mấy người đàn bà lên tiếng. Viên thanh tra cảnh sát dừng bước. Trong lúc đi đường, nhóm người của ông đã nhanh chóng được những kẻ hiếu kỳ và những kẻ vô công rồi nghề ở quanh đây gia nhập. Giờ đây ông đang bị khoảng bốn mươi kẻ tò mò vây quanh. - Không ai được vào đây! - Ông nói. Và, để cho mệnh lệnh của mình chắc chắn được tuân thủ, ông cắt cử hai anh hiến binh đứng gác trước lối vào, rồi ông bước tới, theo sau là viên cai đội và anh thợ khóa. Ông đích thân chĩa đầu cây gậy cạp chì gõ mạnh nhiều lần, đầu tiên là vào cánh cửa, sau đó là tất cả các ô cửa con. Sau mỗi cú gõ ông lại áp tai vào vách gỗ nghe ngóng. Không thấy động tĩnh gì, ông quay sang anh thợ khóa, ra lệnh: - Mở khóa đi. Anh thợ khóa mở túi dụng cụ và chuẩn bị đồ nghề. Anh đang lùa một cái que móc vào ổ khóa thì trong đám người hiếu kỳ có tiếng reo lên: - Chìa khóa! Chìa khóa đây này! Quả thực, một cậu bé chừng mười hai tuổi, trong lúc đang chơi với tụi bạn đã nhìn thấy một chiếc chìa khóa to nằm trong cái rãnh bên đường; cậu bé nhặt lên và đắc thắng đem tới. - Đưa đây, cậu bé, - viên cai đội nói - đưa chúng ta xem nào. Chìa khóa được đưa vào mở thử; đúng là chìa của ngôi nhà. Ông thanh tra và anh thợ khóa nhìn nhau đầy vẻ lo lắng sợ sệt. - Không hay rồi! - Viên cai đội lẩm nhẩm. Rồi họ vào trong nhà, trong khi đám đông, bị hiến binh vất vả giữ lại, vừa giậm chân sốt ruột, vừa cố ngó qua tường để nhìn vào trong xem chuyện gì đã xảy ra. Thật đáng tiếc là những kẻ phỏng đoán có án mạng đã không nhầm, ông thanh tra cảnh sát tin chắc như vậy ngay từ ngưỡng cửa. Trong căn phòng đầu tiên, tất cả đã tỏ rõ sự có mặt của những kẻ bất lương. Đồ đạc trong nhà, một chiếc tủ ngăn kéo và hai chiếc hòm lớn, đã bị phá đáy. Trong căn phòng thứ hai, là phòng được dùng làm buồng ngủ, quang cảnh còn lộn xộn hơn. Có thể hình dung rằng một bàn tay giận dữ đã vô cớ làm đảo lộn mọi thứ. Cuối cùng, bên cạnh lò sưởi, xác bà quả phụ Lerouge nằm dài với khuôn mặt vùi trong tro. Nửa khuôn mặt và tóc bị cháy thui, và thật kỳ diệu là lửa không bén đến quần áo. - Bọn vô lại, - viên cai đội thì thầm - chẳng lẽ chúng không thể ăn cắp mà không phải giết chết người đàn bà tội nghiệp này ư! - Nhưng bà ta bị đâm ở chỗ nào? - Ông thanh tra hỏi - Tôi không thấy máu. - Đây này, giữa hai vai đó, thưa ngài thanh tra. - Viên cai đội nói tiếp. - Hai cú đâm mạnh! Tôi xin lấy quân hàm của tôi để đánh cược là thậm chí bà ta đã không kịp kêu lên một tiếng “Ối!”. Ông cúi người, đặt tay lên thi thể. - Ồ, - ông nói tiếp - xác bà ấy đã lạnh thật rồi. Mặc dù có vẻ chưa cứng lắm, ít nhất bà ấy cũng đã tắt thở được ba mươi sáu giờ đồng hồ. Ông thanh tra ngồi vào một góc bàn ghi vội tờ biên bản. - Thôi không nói dông dài nữa, - ông bảo viên cai đội - giờ là lúc phải tìm ra thủ phạm. Hãy đi báo cho ngài Thẩm phán hòa giải và ngài xã trưởng đi. Còn nữa, hãy chạy đi Paris đưa bức thư này cho Viện Công tố. Trong hai giờ đồng hồ một Thẩm phán điều tra sẽ có mặt tại đây. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ tiến hành một cuộc khám xét sơ bộ. - Chính tôi phải đưa bức thư này ư? - Viên cai đội hỏi. - Không, hãy cử một nhân viên của ông đi. Ông sẽ ở đây giúp tôi ngăn đám người tò mò kia và kiếm cho tôi các nhân chứng. Cứ để yên hiện trường đó, tôi sẽ sang căn phòng đầu tiên kia. Bà quả phụ Lerouge này là ai, quê ở đâu, bà làm nghề gì, lấy gì để sống, và sống như thế nào? Bà có thói quen gì, những mối giao du của bà thế nào? Kẻ nào có hiềm thù với bà, bà có hà tiện không, liệu bà có tiền không? Đó là những điều quan trọng mà ông thanh tra muốn biết. Nhưng cho dù có nhiều nhân chứng thì họ cũng chẳng biết gì hơn. Khi lần lượt được hỏi, những người hàng xóm chỉ đưa ra những lời khai vô nghĩa, thiếu mạch lạc và không đầy đủ. Chỉ có một bà làm vườn và một bà bán sữa cho bà quả phụ Lerouge là có vài thông tin chính xác, mặc dù chẳng mấy giá trị. Cuối cùng, qua ba giờ hỏi cung mệt mỏi, sau khi thu thập những lời chứng mâu thuẫn nhất và những chuyện ngồi lê đôi mách khôi hài nhất, ông thanh tra cảnh sát hình dung được sự việc gần đúng như sau: Cách đây hai năm, bắt đầu từ năm 1860, bà Lerouge đến xã Bougival với một chiếc xe dọn nhà lớn chở đầy đồ đạc, chăn mền và quần áo. Bà vào một quán trọ và bày tỏ ý định muốn ở lại trong vùng, rồi bà lập tức đi tìm thuê một căn nhà. Khi tìm thấy căn nhà vừa ý này, bà thuê ngay không mặc cả, với điều kiện trả trước 320 franc nửa năm, nhưng bà không đồng ý ký hợp đồng thuê nhà. Thỏa thuận thuê nhà xong, bà dọn đồ vào ở ngay hôm đó và bỏ ra khoảng 100 franc cho việc sửa chữa. Đó là một người phụ nữ tầm năm mươi tư, năm mươi lăm tuổi, trông rất trẻ, đẫy đà và rất khỏe mạnh. Chẳng ai biết tại sao bà lại chọn cái nơi hoàn toàn không quen biết một ai này để về ở. Người ta đoán bà là người Normandie vì thường thấy bà đội chiếc mũ trùm bằng vải bông vào buổi sáng. Thứ mũ dùng cho ban đêm này vẫn khiến bà rất duyên dáng vào ban ngày. Bà thường mặc những chiếc váy dài rất đẹp, cuốn nhiều dải ruy băng quanh mũ và đeo đầy đồ trang sức giống như một bức tượng thờ. Có thể bà là người miền biển, vì trong lúc chuyện trò bà rất hay nhắc đến biển và tàu thủy. Bà không thích nói đến chồng mình, là người, theo bà, đã mất trong một vụ đắm tàu. Chưa bao giờ bà hé mở một chi tiết nhỏ nhất nào về chuyện này. Chỉ có một lần bà nói với bà bán sữa trước sự có mặt của ba người khác, “Chưa có một người đàn bà nào bất hạnh như tôi trong chuyện vợ chồng.” Bà quả phụ Lerouge được coi là giàu có, hoặc ít nhất là rất sung túc. Bà không phải là người hà tiện. Bà thích sống thoải mái, tiêu nhiều cho chuyện ăn uống và thường mua rượu vang từng nửa thùng. Niềm vui của bà là được thiết đãi bạn quen và những buổi dạ tiệc của bà thật thịnh soạn. Nếu người ta khen bà giàu có thì bà cũng chẳng phản đối nhiều. Người ta thường nghe bà nói, “Tôi không có tiền lợi tức, nhưng tôi có tất cả những gì cần thiết. Nếu tôi muốn hơn nữa thì tôi sẽ có.” Ngoài ra, chưa bao giờ người ta nghe thấy có lời bóng gió nào, dù là nhỏ nhất, về quá khứ, về quê hương hay về gia đình bà. Bà rất hay nói chuyện, nhưng khi nói chuyện, bà chỉ nói đến những điều xấu xa của đồng loại. Dù sao, chắc là bà đã trải đời và biết nhiều chuyện. Với tính rất hay ngờ vực, bà cố thủ trong nhà mình như trong một pháo đài. Buổi tối không bao giờ bà ra khỏi nhà. Người ta biết rằng bà thường uống rượu say vào bữa tối và sau đó đi nằm luôn. Rất hiếm khi người ta nhìn thấy có người lạ đến nhà bà. Khoảng bốn, năm lần có một quý bà và một cậu thanh niên trẻ, và một lần khác có hai quý ông, một ông già đeo đầy huân huy chương và một chàng trai trẻ; hai người này đi trên một chiếc xe lộng lẫy. Nói tóm lại, người ta không tôn trọng bà mấy. Bà thường có những lời lẽ chướng tai và lập dị phát ra từ miệng một người ở tuổi đó. Người ta đã nghe thấy bà đưa ra những lời khuyên khó chịu nhất dành cho một cô gái. Tuy nhiên có một ông bán thịt lợn ở Bougival, một người buôn bán vụng về, cũng tán tỉnh bà. Bà đã gạt đi và nói bà lấy chồng một lần là đủ rồi. Mấy lần khác, người ta nhìn thấy có những người đàn ông đến nhà bà. Đầu tiên là một chàng trai trẻ trông có vẻ là một nhân viên hỏa xa, rồi sau đó có một ông cao lớn tóc nâu khá già, mặc một chiếc áo blouse và trông có vẻ rất dữ tợn. Người ta đoán rằng cả hai đều là nhân tình của bà. Vừa hỏi cung, ông thanh tra vừa ghi tóm tắt lời khai của nhân chứng, và ông đang viết đến đây thì ông Thẩm phán điều tra xuất hiện. Ông này dẫn theo ông Đội trưởng an ninh cùng một nhân viên. Ông Thẩm phán điều tra Daburon, người mà sau này bạn bè đã từng vô cùng ngạc nhiên thấy ông xin từ chức để về quê vui thú ruộng vườn vào đúng lúc vận may đang đến với ông, năm nay ba mươi tám tuổi, có thân hình đẹp, trông dễ mến mặc dù có vẻ lạnh nhạt, có một khuôn mặt hiền hậu và hơi buồn, vẻ buồn rầu này là di chứng của một căn bệnh hiểm nghèo mà cách đây hai năm đã suýt khiến ông mất mạng. Làm Thẩm phán điều tra từ năm 1859, ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Là người cần cù, kiên nhẫn, có trực giác tinh tế cùng óc sáng suốt hiếm có, ông biết cách tháo gỡ những vụ án rắc rối nhất, và, giữa trăm nghìn mối tơ vò, ông biết cách nắm được sợi dây dẫn lối. Được trang bị một bộ óc lập luận logic chặt chẽ, chỉ ông mới có thể giải quyết được những vấn đề hóc búa mà gã X nào đó là thủ phạm. Là người biết khôn khéo suy luận từ cái đã biết để tìm ra cái chưa biết, ông rất giỏi trong việc tập hợp các sự kiện và tập trung những tình tiết phù phiếm nhất và có vẻ ngoài vô can nhất thành một cụm chứng cứ không thể chối cãi. Tuy nhiên, mặc dù có những phẩm chất đáng quý như thế, nhưng ông lại tỏ ra không phải sinh ra để làm những chức phận khủng khiếp này. Ông rùng mình thực hiện những chức phận đó với sự ngờ vực trước sự lôi kéo của những năng lực tài hoa của mình. Ông không có sự táo bạo để thực hiện những cú bất ngờ mạo hiểm có khả năng làm bộc lộ sự thật. Mời các bạn mượn đọc sách Vụ Án Lerouge của tác giả Émile Gaboriau & Nguyễn Văn Dân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hãy Kể Giấc Mơ Của Em - Sidney Sheldon
Ashley, tao nhã nhưng hay bị ám ảnh... Toni, nhục cảm nhưng sôi nổi... Alette, đáng yêu và kiêu hãnh... Ba phụ nữ trẻ xinh đẹp bị nghi ngờ dính líu vào một loạt vụ giết người đáng sợ. Lúc này một trong những phiên tòa xét xử vụ giết người kỳ quái nhất của thế kỷ chuẩn bị bắt đầu, tiết lộ một bằng chứng y học kinh hoàng và sửng sốt nhất không thể tin được. Trải rộng từ London đến Rome, từ Quebec đến San Francisco, câu chuyện của bậc thầy tiểu thuyết thế giới còn hơn cả một tác phẩm kỳ bí: Nó tinh tế, mê hoặc, và cuối cùng đi thẳng vào phần sâu sắc, hoang dại nhất trong tim mỗi con người. "Khi nói đến câu chuyện hư cấu với những âm mưu đầy rắc rối, không ai sánh được với Sidney Sheldon." - Associated Press đã bình luận thế, song Hãy kể giấc mơ của em lại được người viết ra nó khẳng định: Câu chuyện này dựa trên những sự kiện có thật! *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Ai đó đang theo dõi nàng. Nàng đã đọc nhiều về những kẻ chuyên nghề theo dõi, nhưng dường như là họ thuộc về một thế giới khác - thế giới của bạo lực. Nàng không hề hay biết ai muốn làm hại mình. Nàng cố gắng trấn tĩnh, nhưng cuối cùng cũng rơi vào giấc ngủ đầy những cơn ác mộng và mỗi buổi sáng lại giật mình thức giấc với cảm giác sợ hãi lửng trên đầu Có thể chỉ là do mình tưởng tượng ra. Ashley Patterson nghĩ. Mình đã quá vất vả rồi. Mình nên đi nghỉ một chuyến. Nàng chăm chú ngắm nhìn mình qua tấm gương để ở phòng ngủ. Trong gương in hình một người đàn bà ở độ tuổi 30, trang phục gọn gàng, tỏa ra sự sang trọng, vóc dáng mảnh mai và cặp mắt thông minh song tràn đầy vẻ ưu tư. ở nàng toát lên vẻ tao nhã ưa nhìn và một chút gì đó như là quyến rũ. Mái tóc đen mượt mà buông xõa một cách tự nhiên xuống hai bờ vai. Trông mình đáng ghét quá. Ashley nghĩ. Mình quá gầy. Có lẽ mình phải ăn mạnh nữa lên. Nàng rời tấm gương, xuống bếp chuẩn bị bữa sáng, cố ép mình quên đi những điều đáng sợ có thể xảy ra để tập trung vào món trứng ốpla. Nàng bật máy pha cà phê rồi cho một lát bánh mì vào lò nướng bằng điện. Mười phút sau,, bữa sáng đã sẵn sàng trên bàn. Ashley ngồi xuống. Nàng cầm thìa lên, nhìn đĩa đồ ăn một lúc rồi lắc đầu ngao ngán. Nỗi sợ hãi đã làm tiêu tan cảm giác thèm ăn của nàng, dù nàng đang đói đến cồn cào. Không thể tiếp tục thế này được nữa, nàng giận dữ nghĩ. Bất kể hắn là ai mình cũng không để hắn uy hiếp mình nữa. Nhất định. Ashley liếc đồng hồ. Đã đến giờ đi làm. Nàng nhìn quanh căn phòng quen thuộc như tìm kiếm sự trấn tĩnh lại. Đây là căn hộ trên tầng bốn của khu chung cư ở phố cụt Via Camino, có phòng khách, phòng ngủ, phòng làm việc riêng, phòng tắm, nhà bếp và cả phòng để quần áo. Nàng đã sống ở đây, Cupertino - California được ba năm. Và cho tới hai tuần trước thì nàng vẫn nghĩ đây là một tổ ấm lý tưởng. Còn bây giờ hóa ra nó đã biến thành pháo đài, nơi không ai có thể lọt vào hòng ám hại nàng. Ashley tiến ra cửa chính và kiểm tra lại ổ khóa. Mình sẽ gắn thêm cái chốt vào, nàng nghĩ. Ngày mai. Sau đó nàng tắt đèn, kiểm tra cửa một lần nữa sau khi đã khóa lại rồi dùng thang máy đi xuống tầng hầm để xe. Gara vắng lặng, khoảng cách từ cửa thang máy đến chiếc xe con của nàng là feet. Nàng cẩn thận nhìn quanh, rồi chạy vụt ra xe, chui vào trong và đóng sấm cửa lại, tim đập thình thịch. Nàng lái xe vào trung tâm thành phố dưới bầu trời xám xịt, ảm đảm như báo trước những điềm gở sắp xảy ra. Dự báo thời tiết nói là sẽ có mưa. Nhưng rồi sẽ không mưa đâu, Ashley nghĩ. mặt trời sẽ xuất hiện thôi. Tôi đánh cuộc vớí ngài đấy Thượng đế ạ. Nếu không có mưa thì tức là mọi việc vẫn ổn cả và chuyện đó chỉ là tôi tưởng tượng ra mà thôi. Mươi phút sau, Ashley Patterson lái xe đến khu trung tâm Cupertino. Cho tới bây giờ nàng vẫn chưa hết ngạc nhiên về điều kì diệu đã xảy ra với cái thị trấn im lìm nhỏ nhoi ở vùng Santa Clara Valley này. Cách San Francisco 50 dặm về hướng Bắc, đây là nơi cuộc cách mạng tin học nổ ra và nó rất xứng đáng với cái biệt danh Silicon Valley nổi tiếng thế giới. Ashley làm việc tại Công ty Global Computer Graphic, một công ty mới ra đời nhưng đã khá thành công với khoảng 200 nhân viên. ... Mời các bạn đón đọc Hãy Kể Giấc Mơ Của Em của tác giả Sidney Sheldon.
Bộ Năm Lừng Danh Tập 2: Chuyến Phiêu Lưu Mới - Enid Blyton
Kỳ nghỉ Giáng sinh, bộ Năm Julian, Dick, Anne, George và chú chó Timmy một lần nữa tái hợp ở Trang trại Kirrin. Cả bọn cực kỳ phấn khích! Thế nhưng sự xuất hiện của vị gia sư bí ẩn tên là Ngài Roland đã phá hỏng cuộc vui của bọn trẻ. Một buổi sáng, khi chúng đang học phụ đạo với Ngài Roland thì chú Quentin phát hiện ra một số giấy tờ hết sức quan trọng và bí mật đã bị đánh cắp, và Bộ Năm lừng danh vào cuộc! Nghi phạm đã có, nhưng chúng cần chứng cứ! Và rồi, trên đường đi tìm chứng cứ, chúng lại phát hiện ra một bản đồ cổ và một nơi cất giấu bất thường. Những chuyện này có liên hệ gì với nhau hay không? Hãy cùng Bộ Năm lừng danh giải mã điều bí ẩn? Đã gần 70 năm trôi qua kể từ lần đầu được xuất bản, Bộ năm lừng danh vô cùng sống động của Enid Blyton tiếp tục làm say mê hàng triệu bạn nhỏ trên toàn thế giới. Bộ sách đã nhiều lần được chuyển thể truyền hình, điện ảnh, hoạt hình, truyện tranh, kịch bản sân khấu, trò chơi điện tử. Còn tác giả Enid Blyton thì vững vàng trong hàng ngũ những nhà văn thiếu nhi kinh điển và cuốn hút nhất thế kỷ XX. Bộ Năm Lừng Danh đã xuất bản tại Việt Nam gồm có: Bộ NămTrên Đảo Giấu Vàng Chuyến Phiêu Lưu Mới Bộ Năm Chạy Trốn Bộ Năm Tới Đỉnh Buôn Lậu Bộ Năm Chinh Chiến Dưới Lòng Đất *** Enid Mary Blyton (11 tháng 8 năm 1897 – 28 tháng 11 năm 1968) là nữ nhà văn người Anh chuyên viết truyện thiếu nhi. Bà còn có bút danh khác là Mary Pollock. Enid Blyton nổi tiếng với nhiều loạt truyện dựa trên những nhân vật quen thuộc và dành cho mọi lứa tuổi. Sách của bà được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bán được hơn 600 triệu bản. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của bà là Noddy trong quyển sách dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ đạo của Enid nằm ở dòng văn học phiêu lưu mạo hiểm dành cho thanh thiếu niên. Những bộ truyện thuộc thể loại này bao gồm Bộ năm lừng danh, The Secret Seven và The Five Find-Outers and Dog. Ngoài ra, bà còn viết truyện ngắn và thơ nhưng ít được biết đến hơn. Các tác phẩm của Enid Blyton đôi khi cũng có yếu tố phép thuật. Đến tận ngày nay, chúng vẫn được ưa chuộng ở Khối Thịnh vượng chung Anh và nhiều nước trên thế giới. Trong suốt 40 năm, bà viết gần 800 quyển sách và chúng đã được dịch ra gần 90 thứ tiếng. Tác phẩm tiêu biểu Bộ truyện The Wishing-Chair, 1937 – 2000 Bộ truyện The Circus, 1938 – 1942 Bộ truyện The Secret, 1938 – 1953 Bộ truyện The Magic Faraway Tree, 1939 – 1951 Bộ truyện The Naughtiest Girl, 1940 - 1950 Bộ truyện The St. Clare's, 1941 – 1945 Bộ truyện The Famous Five, 1942 – 1963 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Bộ năm lừng danh, NXB Hội Nhà Văn, Nhã Nam, 2011) Bộ truyện Malory Towers, 1946 -1951 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Tòa tháp Malory, NXB Văn Học, 2010) Bộ truyện The Mistletoe Farm, 1948 - 1950 Bộ truyện The Secret Seven, 1949 – 1963 Bộ truyện The Barney Mystery, 1949 – 1959 *** ĐÓ LÀ tuần cuối cùng của mùa Giáng sinh và tất cả lũ con gái ở trường Gaylands đều mong ngóng đến kỳ nghỉ lễ. Anne ngồi xuống bàn điểm tâm, cầm một lá thư gửi cho mình lên. “Oa, xem này!” nó nói với cô em họ Georgina ngồi bên cạnh. “Thư của cha, nhưng hôm qua mình mới nhận được thư của cha mẹ mà.” “Tôi hy vọng không có tin gì xấu,” George đáp. Nó không cho phép bất kỳ ai gọi mình là Georgina, và giờ thì cả các cô giáo cũng gọi nó là George. Thực tình trông nó y hệt một cậu nhóc với mái tóc xoăn ngắn ngủn và cung cách đặc sệt con trai. Nó lo lắng nhìn Anne trong khi cô bé đọc thư. “Ôi, George, Giáng sinh này chúng ta không thể về nhà!” Anne kêu lên, mắt mọng nước. “Mẹ bị sốt phát ban, và cha cũng bị cách ly theo, vậy nên cha mẹ không thể đón chúng ta về. Tệ quá phải không?” “Ôi, tôi rất tiếc,” George đáp. Nó cũng thất vọng không kém gì Anne vì mẹ Anne đã mời nó và chú chó Timothy của nó tới nhà chơi vào kỳ nghỉ Giáng sinh này. Mọi người đã hứa cho nó xem bao nhiêu thứ mà nó chưa từng được thấy - nào kịch câm, nào rạp xiếc - và cả một bữa tiệc lớn với một cây thông Noel thật hoành tráng! Giờ thì chẳng còn những thứ ấy. “Không biết hai anh sẽ nói sao nhỉ?” Anne nói, nghĩ tới Julian và Dick, hai anh trai của mình. “Họ cũng không thể về nhà.” “Ừm… vậy các cậu định làm gì trong kỳ nghỉ?” George hỏi. “Có muốn về Lều Kirrin với tôi không? Tôi chắc là mẹ tôi thích gặp lại các cậu lắm. Chúng ta đã rất vui vẻ khi các cậu tới ở nhà tôi hè vừa rồi.” “Đợi một phút, để tôi đọc nốt thư xem cha nói gì,” Anne lại cầm lá thư lên. “Khổ thân mẹ, tôi rất hy vọng mẹ không yếu quá.” Nó đọc thêm vài dòng rồi reo lên sung sướng đến độ George và những đứa khác đều nóng lòng đợi nó giải thích. “George! Tụi này sẽ tới nhà cậu, nhưng ôi trời ơi, sẽ có gia sư dạy kèm trong kỳ nghỉ, phần là để trông nom tụi này cho mẹ cậu đỡ phiền, phần vì Julian và Dick bị cúm hai lần trong kỳ này và đang bị tụt lại trên lớp.” “Gia sư! Bệnh thật! Kiểu này có nghĩa là tôi cũng sẽ phải làm bài, tôi cá đấy!” George thất vọng. “Khi cha mẹ xem phiếu điểm của tôi, họ sẽ biết ngay là tôi học kém thế nào. Dù sao thì đây cũng là lần đầu tiên tôi tới một ngôi trường nghiêm chỉnh, và có hàng đống thứ tôi không biết.” “Một kỳ nghỉ khủng khiếp nếu chúng ta có một gia sư kè kè bên cạnh cả ngày,” Anne ủ rũ. “Tôi nghĩ phiếu điểm của tôi khá ổn vì tôi làm bài thi tốt, nhưng nếu không ngồi học cùng ba người thì tôi cũng chẳng vui vẻ gì. Ừm, tất nhiên tôi có thể đi chơi với Timothy, chắc thế. Cậu ấy có phải học đâu!” “Có, có đấy,” George lập tức đáp. Nó không thể nào chịu nổi cái ý tưởng chú chó Timothy yêu quý sáng nào cũng đi chơi với Anne trong khi bản thân nó, George, thì ngồi đó mà cắm đầu vào bài vở với Julian và Dick. ... Mời các bạn đón đọc Bộ Năm Lừng Danh Tập 2: Chuyến Phiêu Lưu Mới của tác giả Enid Blyton.
Qua Cơn Ác Mộng - Mario Puzo
Tác phẩm này còn có bản dịch khác tên là "Đất Khách Quê Người" của dịch giả Đặng Phi Bằng và "Đất Tiền Đất Bạc". ... Đất vàng, đất bạc, cơn ác mộng... Lucia Santa khóc vì những tội lỗi đã phạm, những tàn ác với chính người thân yêu. Bên Ý, ai cũng mong thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật, thiên tai. Nhưng ở đất này cơm gạo thôi không đủ. Người ta còn mơ đến nhiều thứ lỉnh kỉnh khác nữa! Octavia từng muốn làm cô giáo. Vinnie muốn gì nhỏ? Thực tình bà không biết. Và Gino, thằng này bất trị nhất, mơ những chuyện viển vông, hão huyền không đâu vào đâu. Bây giờ bà biết chắc Gino sẽ không bao giờ còn về nhà sau khi chiến tranh. Nó ghét mẹ nó cũng như mẹ nó ghét cha nó. Nó cũng sẽ lên đường tìm kiếm đất lạ. "Chúa ơi, hãy rủ lòng thương, hãy cho con nghe được tiếng chân nó về. Con nguyện sẽ đi lại từ đầu. Con sẽ làm kẻ hành hương vượt biển đầy sóng dữ. Sống lại cả nửa đời nhọc nhằn không một lời than van, hờn oán...". Người mẹ nhìn lại nhà cũ lần chót. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu trường u ám (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (hoàn thành bởi Carla Gino) *** Trong khi thế giới chìm đắm máu lửa, những người dân Ý ngụ cư sống dọc theo tường thành phía tây thành phố lại giàu sang trong những bàn tay đen đúa. Tiền vô như nước. Đàn ông trở nên hiếm hoi, làm không hết việc, những kẻ có con chết trận hay bị thương còn cần cù, chăm chỉ hơn mọi người khác. Buồn khổ cách mấy rồi cũng qua mau hơn cảnh nghèo vô vọng! Gia tộc Angeluzzi-Corbo tới lúc phất rồi. Họ mua một khu gia trang ở khu sang trọng ở Long Island nhờ tiền mặt bòn rút của những người sạt nghiệp vì chiến tranh. Larry, Louisa và lũ con chiếm nguyên một tầng. Như vậy Lucia Santa vẫn còn coi sóc được tất cả. Ai cũng có phòng ngủ riêng, theo lối dân nhà giàu Hoa Kỳ. Một phòng bỏ trống chờ Gino trở về sau chiến tranh. Ngày cuối cùng Lucia Santa quay mặt không muốn nhìn lũ con tháo gỡ đồ đạc trong căn nhà cũ ở chung cư. Đêm đó, nằm trơ trọi trên giường bà không sao ngủ được. Gió hú từng cơn bên ngoài. Ánh đèn đường vàng vọt nhuộm vẻ buồn thảm. Trong nhà có nhiều tiếng động kỳ lạ như hồn ma cũ đang khua rộn. Nhìn mãi trần nhà, sau cùng Lucia Santa thiếp ngủ. Trong giấc mơ bà lắng nghe tiếng Gino và Vincenzo lên giường; tiếng Frank Corbo lần mò trong bóng tối. Thằng Lorenzo lại đi đâu rồi nhỉ? Bà bảo đứa con gái Octavia còn nhỏ síu, đừng sợ con, không ai làm gì các con của má được... Thực tình bà có bao giờ muốn làm kẻ tha phương cầu thực qua biển đầy sóng gió. Lucia Santa choàng tỉnh trong gian phòng lạnh lẽo. Bà trở dậy, mang chiếc gối ra để trên thành cửa, tựa tay ngồi nhìn xuống Đại lộ Thứ Mười, ngong ngóng chờ sáng. Lần đầu tiên từ bao nhiêu năm qua bà nghe thấy tiếng máy tàu, tiếng những toa hàng hóa nghiên trên đường sắt bên kia phố, tàu lửa bay tứ tung như hoa cải thật đẹp. Xa hơn trên bãi biển New Jersey chẳng có đèn đuốc gì vì biện pháp tiết kiệm điện thời chiến, chỉ có ánh sáng yếu ớt của những ngôi sao. Buổi sáng trong khi chờ đợi xe vận tải tới. Lucia Santa tiếp xóm giềng tới chúc may mắn. Nhưng không còn người bạn cố tri nào. Họ đã rời khỏi Đại lộ Thứ Mười hết. Ông chủ lò bánh đã bán cửa tiệm khi thằng Guido đi quân dịch xong, trở về thành phố. Buồn tình, ông đi thật xa, tận West Islip lận. Lão hớt tóc cũng bỏ nghề luôn, thời chiến tranh đàn ông khan hiếm, về nhà chỉ thấy một bầy con gái nhố nhăng, thiệt rầu! Nghe đâu ông ta cũng bỏ đi tới thị trấn Massapequa cũng gần chỗ ông chủ lò bánh. Chủ nhật nào hai bạn già cũng chén chú chén anh, đến say khướt. Những người khác cũng cuốn gói bỏ đi khỏi khu nghèo nàn này, kiếm căn nhà có vườn có sân... Cha đốc tờ Barbato mới thiệt lạ! Không ai ngờ hắn tình nguyện nhập ngũ, phục vụ bên Phi châu. Mới đây báo chí đã đăng hình ông ta huy chương đầy ngực. Ông già bố Barbato đọc đến chiến công rởn gai óc của con đâm nóng lạnh suýt đi tàu suốt luôn. Tội nghiệp Teresina Coccalitti không bao giờ mò ra khỏi nhà, cứ quanh quấn bên những lon sữa, lon dầu, nghĩ rằng một ngày nào đó đợi những đứa con sẽ đội mồ sống dậy. Bạn của Gino, thằng Joey Bianco trốn quân dịch, giờ đây đã giàu sụ. Nó mua cho cha mẹ một lâu đài thiệt hách ở New Jersey. Vậy cũng là tới lúc gia đình Angeluzzi Corbo rời khỏi nơi này. * * * * * Sau cùng Piero Santigi đưa những xe vận tải tới. Thời chiến dịch vụ trở nên mắc mỏ, bữa nay Santini tới vì muốn chơi đẹp với người đồng hương mà thôi. Tuy phải hy sinh một chút nhưng cũng vui vui. Lucia Santa để ra một bên bình cà phê và mấy chiếc ly. Bà đãi Santini cà phê. Cả hai vừa uống vừa đứng ngó xuống. Octavia, Sal và Lena mang những gói đồ nhẹ, còn hai công nhân Ý lực lưỡng thở phì phò như trâu, còng lưng khuân bàn ghế, giường tủ xuống thang. Sau một lát, căn nhà dọn dẹp sạch bách chỉ còn mấy chiếc ghế cũ trong bếp, được bỏ lại. Lúc đó Louisa và ba con mới vào chờ cùng đi ba đứa nhỏ chạy nhảy nghịch ngợm như quỷ. Phút lên đường. Đi trước là chiếc xe bóng lộn của ông Trùm Di Lucca, bây giờ là của Larry. Octavia và Louisa kéo mấy đứa trẻ xuống thang. Octavia bảo mẹ : - Chúng ta đi má. ... Mời các bạn đón đọc Qua Cơn Ác Mộng của tác giả Mario Puzo.
Những Kẻ Điên Rồ Phải Chết - Mario Puzo
Đó là cuốn tiểu thuyết lôi cuốn người đọc bởi các Casino xa hoa, lộng lẫy - đấu trường của mưu trí, gan lì và may rủi của những tay chơi lớn, những kẻ mưu đồ xảo quyệt và những nàng mồi chài vô cùng hấp dẫn Một thế giới mà tham sân si được đẩy lên tột đỉnh cùng với sự phản trắc lừa lọc, trong đó đàn ông sử dụng quyền lực của họ không chút khoan nhượng, đàn bà không chút ngượng ngùng, nơi chỉ có những kẻ mạnh nhất, khôn ngoan nhất mới tồn tại, và Những kẻ điên rồ phải chết. *** Tác giả Mario Puzo là một trong những nhà văn viết tiểu thuyết tội phạm nổi tiếng nhất thế giới. Mario Gianluigi Puzo là một nhà văn, nhà biên kịch người Mỹ, được biết đến với những tiểu thuyết về Mafia, đặc biệt là Bố già (1969), mà sau này ông đồng chuyển thể thành một bộ phim cùng với Francis Ford Coppola. Ông đã giành được Giải Oscar cho kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất vào giữa những năm 1972 và 1974. Dù là một nhà văn được cưng chiều của Hollywood nhưng ông vẫn luôn cảm thấy thất vọng về kinh đô điện ảnh của Mỹ. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu trường u ám (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (hoàn thành bởi Carla Gino) *** Nghe tôi nói đây, tôi sẽ kể cho các bạn sự thật về cuộc đời một người đàn ông, sẽ nói với các bạn sự thật về tình yêu của y cho đàn bà, rằng y chưa bao giờ ghét họ. Chắc các bạn nghĩ rằng tôi lạc đề mất rồi. Hượm đã! Thật thế. Bạn đang đối mặt một bậc thầy ma thuật đây mà. Ai vậy? Tôi đây chứ còn ai vào đó nữa! Hãy nhìn vào mắt ta đây này? Bạn có tin rằng một người đàn ông có thể thực sự yêu thương một người dàn bà mà vẫn thường xuyên… phải bội nàng? Về chuyện thân xác thì chẳng có gì đáng nói rồi, nhưng còn phải bội nàng trong tâm hồn trong chốn thâm cung bí sử và nên thơ nhất của hồn viễn mộng khôn khuây của riêng mỗi con người? Vâng, chuyện tế nhị lắm, chẳng dễ dò lần được đâu, nhưng đàn ông muôn đời vẫn thế? Bạn có muốn biết bằng cách nào đàn bà có thể yêu bạn, cho bạn “bội thực” tình yêu để đầu độc thể xác và tinh thần bạn, đơn giản chỉ để hủy diệt bạn? Và, vượt khỏi tình yêu đam mê, nàng chọn giải pháp cắc cớ, trớ trêu là đếch thèm yêu bạn nữa? Và cùng lúc lại làm cho bạn chóng mặt, choáng váng với cơn cực khoái… của thằng khờ? Bạn cho rằng điều đó là bất khả? “Phán” như thế thì… quá dễ! Ấy, sao lại vội bỏ đi? Đây không phải là một tiểu thuyết diễm tình loại… hai xu rưỡi đâu nhé? Tôi sẽ cho bạn cảm thấy cái đẹp đớn đau của một đứa bé, tình trạng bị kích dục thuần sinh vật của một con đực thiếu niên, cái tính khí thất thường ưa rước lấy tai ương, thèm tự tử của con cái non nớt. Và rồi (đây mới là phần cứng) cho bạn thấy bằng cách nào thời gian cuốn đàn ông và đàn bà vào cái vòng xoáy ma thuật, làm biến chất cả tâm hồn và thân xác họ. Và rồi dĩ nhiên còn có “tình yêu đích thực.” Đừng bỏ đi xa! Tình yêu đích thực có đấy hoặc là tôi sẽ làm cho nó thực sự hiện hữu. Ta nào phải hạng bậc thầy ma thuật mà chẳng làm nên công nghiệp để ghi danh. ... Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Điên Rồ Phải Chết của tác giả Mario Puzo.