Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đồ thờ trong di tích của người Việt [pdf]

Trong một tấm bia của chùa Bối Khê (Thanh Oai - Hà Tây ) có ghi rằng : Anh tú của trời đất tụ thành sông núi. Sự linh thiêng của sông núi đúc ra thành thần. Thánh thần linh thiêng hóa làm mây gió sấm mưa để nhuần tưới cho sinh dân và còn mãi muôn đời cùng non nước đất trời vậy.

Câu nói minh triết ấy là tinh thần dẫn người xưa vào đạo. Ngày nay chúng ta quan niệm rằng tôn giáo tín ngưỡng là văn hóa. Bất kể dòng tư tưởng lớn nào của thế giới cho tới những tư tưởng bình dân nhuốm màu tôn giáo đều lấy thiện tâm làm đầu, từ đó mới bàn đến tư tưởng và tâm linh để cuối cùng hội tụ vào thần linh. Đồ thờ như "giấy thông hành" để tầng dưới tiếp cận tầng trên, con người tiếp cận với đấng vô biên (mà suy cho cùng đấng vô biên chỉ là sản phẩm thuộc tư duy liên tưởng của loài người). Mỗi thời có một nhận thức khác nhau, tư duy liên tưởng khác nhau sẽ dẫn đến có cách ứng xử và mối liên hệ với thần linh khác nhau. Không một di tích tôn giáo nào không có đồ thờ. Đồ thờ xác định tư cách cho những kiến trúc cùng với hệ thống tượng liên quan để trở thành di tích tôn giáo tín ngưỡng. Ngược lại, nếu không có đồ thờ thì cùng lắm di tích đó chỉ mang hình thức một nhà trưng bày. Như vậy đồ thờ đã góp phần thiêng hóa kiến trúc thờ tự, nó đã hướng tâm con người đến lẽ huyền vi của đạo, hướng đến chân, thiện, mỹ, tránh thoát những dục vọng thấp hèn, góp phần làm cân bằng những tâm hồn luôn bị giày vò bởi tục lụy. Đồ thờ là sản phẩm văn hóa hữu thể, nó chứa đựng những ước vọng truyền đời của tổ tiên, qua nó như qua thần linh để cầu nguồn hạnh phúc trần gian.

ở nước Việt, đồ thờ mang vẻ đẹp tâm linh thánh thiện phản ánh tâm thức của người nông dân trồng lúa nước. Chúng vượt lên trên cả tính tích cực và tiêu cực của người đời, vượt lên trên cả những yếu tố sùng bái thuộc tín ngưỡng và dị đoan để tồn tại như một chứng tích lịch sử, một lời nhắn nhủ của tổ tiên... Thông qua đổ thở chúng ta có thể tìm về bản thể chân như thuộc vẻ đẹp của người xưa, để con người nhờ đó mà nâng cao thêm được tinh thần yêu nước, yêu quê hương xứ sở, yêu quý lẽ nhân bản, đồng thời có ý thức trọng đức đẹp của cả đạo và đời.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Văn Minh Luận - Phạm Quỳnh PDF
Phạm Quỳnh là người viết nhiều nhất trong Nam Phong tạp chí. Các bài viết của ông vững vàng, chắc chắn, không sử dụng ngôn ngữ bay bướm, tài hoa, Phạm Quỳnh sử dụng ngòi bút chín chắn, giọng văn đúng mực, có phần “già trước tuổi” nhằm thâu thái tư tưởng và tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền Quốc văn Việt Nam còn khiếm khuyết. Nếu đem so sánh với một cây bút, “một ông trùm văn hóa” cùng thời là Nguyễn Văn Vĩnh thì người chủ trương và sáng lập Đông Dương tạp chí lại sử dụng lối diễn đạt phóng túng ra quốc văn từ những áng văn chương Pháp hoa mỹ.Văn Minh LuậnNXB Đông Kinh 1927Phạm Quỳnh128 TrangFile PDF-SCAN
Tuyết Giang Phu Tử Lược Khảo Và Phê Bình PDF
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491 – 1585), tên huý là Văn Đạt (文達),[1] tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ (白雲庵居士),[2] được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử (雪江夫子), là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều (Lê – Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535)[3] và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước “Trình Tuyền hầu” rồi thăng tới “Trình Quốc công” (程國公)[4][5] mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.[6] Dưới thời quân chủ của Việt Nam, ông là một trong số rất hiếm văn nhân thuần túy (tức là những người không phải quan tướng nắm binh quyền và chưa từng cầm quân ra trận) được phong tới tước Công ('Quận công' hay 'Quốc công') ngay từ lúc còn sống. Trình Quốc công là tước phong chính thức cao nhất của vua nhà Mạc ban cho Nguyễn Bỉnh Khiêm gần 20 năm trước khi ông mất.Tuyết Giang Phu Tử Lược Khảo Và Phê BìnhNXB Đại La 1945Chu Thiên160 TrangFile PDF-SCAN
Văn Chương An Nam - Hồ Ngọc Cần PDF (NXB Hồng Kông 1933)
Đời nay văn minh tiến bộ, học thức huých trương đâu-đó những khai sáng học đường, đễ ơn nhuần văn chương kinh sử. Vi vậy thiên hạ những đua bơi ngọn bút, luyện văn bài cho tao nhã mỉ miều, hầu làm sách hoặc viết báo, kiểu nói cho hoa lệ hùng hồn, để khiến người thích xem ưa đọc. Một bài văn viết cho trúng điệu xuôi tai, ai đọc mà không rung đùi rung vế; chí như một bài viết thảo mao thất kiểu, mới đọc qua đủ chán mắt nhàm tai. Bỡi đó muốn viết vàn bãi, muốn làm sách vở, thì tiên vàn phải luyện văn chương. Vậy học cho biết vàn chương củng là đéu cần thiết: có biết văn chương, thỉ văn bài mới tao nhả; văn bài tao nhà, văn học mdri quang minh, cho nẻn ván chương lầ như trang sức cho Vãn học vậy.Văn Chương AnnamNXB Hồng Kông 1933Hồ Ngọc Cẩn190 TrangFile PDF_SCAN
Về Việc Cải Lương Hương Chính Ở Bắc Kỳ PDF
Làng xã là đơn vị cơ sở trong hệ thống hành chính của các vương triều thời Nguyễn. Trong thời kỳ đầu cai trị Việt Nam, đi đôi với việc tổ chức bộ máy thực dân, chính quyền Pháp vẫn bảo lưu bộ máy của chính quyền phong kiến ở các làng xã, vì người Pháp cho rằng làng xã Annam “là tế bào cơ sở của xã hội Annam và vì thế chúng ta phải tôn trọng nó bởi nó là cái nền của cấu trúc xã hội xứ này”. Mục đích của chính quyền thực dân Pháp lúc này là bình định các vùng đất vừa chiếm đóng được, trấn áp các hoạt động chống đối của nhân dân, đồng thời nắm được các nguồn thu về sưu, thuế cùng với việc bắt phu và bắt lính ở làng xã. "Trước khi chúng ta tới, làng xã Annam là một tổ chức phức tạp như thế, dễ bảo như thế, một tổ chức mà trong đó không bao giờ thấy có một viên kỳ mục nào hành động đơn độc cả, một tổ chức đã tồn tại theo truyền thống từ thời rất xa xưa, tổ chức đó chúng ta không nên đụng chạm tới kẻo làm dân chúng bất bình, xứ sở rối loạn. Công cụ cũ kỹ, nhưng tốt, phù hợp với dân chúng. Vậy thì có ích lợi gì mà chúng ta lại thay đổi nó?".Về Việc Cải Lương Hương Chính Ở Bắc KỳNXB Đông Kinh 1927Nguyễn Văn Tuyền184 TrangFile PDF-SCAN