Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyến Tàu Định Mệnh

Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đừng Nghi Ngờ Tình Yêu Của Anh - Daisy Thomson
Trong tác phẩm Đừng Nghi Ngờ Tình Yêu Của Anh của tác giả Daisy Thomson không đơn thuần là câu chuyện trinh thám hay mang nhiều tình tiết hồi hộp, gay cấn và kịch tính. Đừng Nghi Ngờ Tình Yêu Của Anh hội tụ những cung bậc cảm xúc đặc trưng của truyện trinh thám lãng mạn. *** Tôi thích thú quan sát thằng bé lắp cánh buồm lên chiếc thuyền to gần bằng người nó. Trong lúc kiên nhẫn con gọi đến giúp, bố thằng bé cũng đang ngắm nó với vẻ trìu mến hiện rõ trên khuôn mặt. Thằng bé tập trung vào việc của mình, còn người bố tập trung vào nó. Họ tạo ra một cảnh rất thú vị. Tôi lấy máy ảnh ra khỏi bao đựng và hướng máy vào họ. Tôi thích chụp cảnh đó. Rất tự nhiên, cảnh đó sẽ thật tuyệt cho cuốn album gia đình. Tuy vậy, nó cũng chẳng thể nổi bật trong một cuốn album được, bởi vì tôi không thể tiến đến trước mặt một người lạ mà nói rằng:” Xin lỗi, tôi vừa chụp ảnh anh và con trai anh. Nếu anh cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gủi ảnh đến” . Tôi mà làm vậy thì người đàn ông đó sẽ nghĩ tôi đang hoặc đang rình mò làm ăn giống như các thợ ảnh quanh công viên, hoặc là đang cố làm quen với anh ta một cách lộ liễu. Tôi tiếp tục ngắm hai bố con người đàn ông đó trong lúc họ lắp cánh buồm vào thuyền theo ý của thằng bé. Lắp xong, người bố đứng ngoắc ngón tay vào dây lưng quần, còn thằng bé thì cúi xuống bờ hồ đẩy chiếc thuyền nó vừa thả về phía một chiếc thuyền nhỏ khác lúc ấy đang bị một cơn gió thu chao đảo trên mặt hồ gợn sóng. – Luke, thuyền trôi rồi, phải đưa nó vào thôi. Gió làm vọng tới tai tôi tiếng reo phấn khích của thằng bé và thật bất ngờ đối với tôi khi nhận ra thằng bé nói tiếng Anh. Ơn Chúa! Tôi tự khen mình đã không hỏi địa chỉ của người đàn ông ấy, bởi ở Paris nếu đường đột đến trước mặt một người Anh hỏi địa chỉ của người ta thì thế nào cũng bị cho là có ý không tốt Theo lời khuyên của bác sĩ, tôi đã đi nghỉ. Sau một trận cảm cúm, tôi bị suy nhược, bồn chồn và thiếu tự tin. Bố tôi, đồng thời cũng là ông chủ của tôi cho rằng tình trạng bồn chồn của tôi không phải do hậu qủa của cơn cảm cúm mà là (như theo ông gọi) do một cơn sốt cuối xuân, song ông cũng ủng hộ nhiệt tình lời khuyên của bác sỹ. Ông bảo: “Lisa ạ, bố đã để ý và nhận thấy con bị bồn chồn từ mấy tháng nay rồi. Đã đến lúc con phải nghỉ ngơi thôi, tháng này phòng chụp không bận lắm. Bây giờ không phải là thời điểm học sinh chụp ảnh cho lễ tốt nghiệp cũng không phải là mùa cưới. Bố sẽ xoay sở được công việc ở phòng ảnh. Gần đây con đã có chút thành công với các tạp chí du lịch, sao con không đi Pháp hay đi Ý và chụp những bức ảnh về những nơi con tới. Như vậy, kì nghỉ của con sẽ thú vị đấy” . Ý tưởng ấy nghe khá hấp dẫn. Mặc dù trước đó tôi cũng đã tính sẽ làm gì đó để thay đổi, nhưng tôi không muốn bỏ bố tôi một mình ở phòng chụp. Tôi cũng đã biết nơi tôi muốn đến thăm và chụp ảnh là Paris, thành phố mà hồi học ở trường Sorbonne tôi đã từng biết ít nhiều. Một cơn gió thu nữa ào tới bứt thêm những chiếc lá từ trên cây. Một chiếc lá to màu vàng thẫm nhảy nhót trước mặt tôi. Tôi ngắm chiếc lá bay lòng bồi hồi nhớ lại tuổi thơ của mình. Tôi đưa tay chộp chiếc lá. Tôi để trượt nó rồi cố chộp lại lần nữa. Tôi reo lên hoan hỷ khi bắt được chiếc lá. Tôi mở túi khoác và cẩn thận đặt chiếc lá vào đó. Tôi biết tôi làm thế xem ra có vẻ ngớ ngẩn, nhưng hồi còn bé có người bảo tôi rằng bắt được một chiếc lá rơi là một điều may mắn và tôi nghĩ biết đâu tôi chả gặp may, thoát ra tâm trạng bồn chồn và vui vẻ hơn. Kéo túi khoá xong, tôi nhìn ra hồ và chợt nhận thấy người đàn ông lúc trước đứng cùng thằng bé đang nhìn thẳng vào tôi. Tôi thấy rõ vẻ thích thú trên khuôn mặt anh ta. Anh ta không cố tình tránh cái nhìn của tôi, mà cứ tiếp tục nhìn tôi khiến tôi mắc cỡ. Trước mặt anh ta tôi mới ngớ ngẩn làm sao khi nhảy cuống cuồng như một đứa trẻ lên sáu để chộp một chiếc lá. Tuy nhiên tôi nhận ra rằng nụ cười trên khuôn mặt người đàn ông ấy không phải là nụ cười chế nhạo. Đó là nụ cười thể hiện rằng anh ta biết mục đích mang tính mê tín của tôi khi bắt chiếc lá.Và còn hơn thế. Đó là nụ cười mà sau những giây phút bối rối tôi đã phải mỉm cười đáp lại, cứ như thể người đàn ông đó là một người tôi đã quen biết. Đó là một nụ cười, mà tôi chắc sẽ khuyến khích sự đáp lại của bất cứ người phụ nữ nào, thậm chí cả người phụ nữ nghiêm nghị nhất. Tôi muốn tiếp tục cười với anh ta. Tôi đã vượt qua được cảm giác xa lạ, dường như tôi cứ bị hút vào người đàn ông ấy và cảm giác ấy mạnh mẽ đến nỗi khiến tôi bước lên một bước về phía anh ta trước khi tôi kịp trấn tĩnh. Quay nhìn sang hướng khác, tôi đặt quai túi lên vai và bước ra lối ra cổng công viên nơi có đại lộ Saint Michel. Tôi vừa đi được vài bước thì chợt nghe thấy tiếng thét của một đứa trẻ. Tôi quay lại, vừa kịp nhìn thấy một đám choai choai đang giật chiếc thuyền của thằng bé ban nãy tôi chụp ảnh. Đám choai choai ấy đẩy thằng bé ngã xuống đất rồi vừa tháo chạy về phía tôi, vừa chạy chúng vừa hét inh ỏi. Trên đường chạy, chúng xô ngã những đứa trẻ khác đang chơi trong công viên. ... Mời các bạn đón đọc Đừng Nghi Ngờ Tình Yêu Của Anh của tác giả Daisy Thomson.
Bướm Trắng - Walter Mosley
Tác phẩm Bướm Trắng xoay quanh hai nhân vật đi tìm sự hủy diệt những giá trị tốt đẹp của chính mình: Một bên vì mặc cảm với tội lỗi, bên kia vì tính tự kiêu. Hai người, một là kẻ sát thủ, một là thám tử Easy Rawlins đang lần theo dấu vết gã.  Cho đến khi án mạng thứ ba được phát hiện bọn cớm mới nhờ tới Easy. Thời gian lúc đó là năm 1956 trong bối cảnh thành phố Los Angeles thêm một nạn nhân là người da đen bọn cớm mới chịu ra tay nhưng phải nhờ tới Easy, gã nói ra ngay, "Muốn xâm nhập vô khu Ghetto phải nhờ tới tôi, cả một lực lượng cảnh sát cấp quận không làm nên trò". Song nghĩ làm sao Easy lại từ chối vì gã đã có vợ con, một người cha gương mẫu - gã muốn gác kiếm. Cho đến khi con bé sinh viên da trắng bị giết chết do cùng một thủ phạm, bọn cớm lên tiếng nếu Easy không ra tay thì người bạn thân nhất của gã bị ngồi tù. Easy đành phải nhập cuộc, đêm đêm rảo quanh khu phố Watter, qua những ngõ ngách tối om lần theo dấu vết tên sát thủ quỷ quyệt. *** Bộ sách về Easy Rawlins gồm có:  Con Quỷ Áo Xanh Bướm Trắng Nàng Betty Đen ... *** Walter Mosley là nhà văn Mỹ da đen, tác giả nhiều tập truyện trinh thám huyền ảo. Ông là một tác giả được tổng thống Bill Clinton ưa chuộng nhất với lối viết trang nhã, lôi cuốn người đọc. Nhân vật chính trong những tập truyện trinh thám của ông là nhà thám tử Easy Rawlins. Ông đã từng được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn trinh thám Mỹ, thành viên Ban giám khảo giải sách hàng năm, sáng lập viên Hội sách Trung tâm văn bút Mỹ. Hiện ông là nhà văn trinh thám hàng đầu ở Mỹ, tác phẩm của ông được báo New York Times xếp hạng bestseller. Liền sau đó các tác phẩm nổi tiếng ra đời: Cái chết đỏ; Nàng Betty đen; Bướm trắng; Thủ lĩnh Jones v.v... *** Easy Rawlins!”, có tiếng ai vừa gọi. Tôi quay lại nhìn thấy Quinten Naylor đưa tay vặn núm cửa trước cổng. Quinten khổ ngườitầm thước,gã có cái nhìn thật quyết liệt. Hai bàn tay chai sần, khoác bên ngoài chiếc áo jacket nhìn thấy cả hai vai gã nổi cộm lên như hai quả dưa. Gã có nước da nâu lấm chấm những vết đỏ nhìn qua tưởng đâu gã là người hay cáu giận. Băng ngang qua bãi cỏ gã giơ tay bốc một nhúm rau thơm tôi trồng đã được bảy năm nay. Anh chàng vẻ mặt bặm trợn nhếch mép cườinhìn tôi. Gã chìa cái cằm rắn chắc ra chào “Hân hạnh được gặp ông tại nhà”. “Ờ hơ”, tôi bước tới bên gã chìa tay ra bắt, nhìn vô ánh mắt. Thấy tôi không nói gì, tay cảnh sát ởLos Angeles này có vẻ khó chịu. Gã trố mắt chờtôi lên tiếng hỏi vì sao gã tới đây. Lúc này tôi chỉ mong gã ra về để tôi vui chơi với vợ con. “Con ông đấy hả?” gã hỏi. Quinten quê miền đông nhưng giọng nói nghe như dân miền bắc. “Ờ”. “Trông xinh đấy chứ?” “Ờ, con bé xinh lắm”. “Xinh chứ”, Quinten nhắc lại. “Chắc hẳn nó giống mẹ lắm?” “Ông đến có việc gì không?” tôi hỏi. “Tôi muốn ông đi theo tôi”. “Ông định bắt giữ tôi à?”. “Ồ, không đâu, ông Rawlins”. Nghe gã xưng gọi bằng ông lịchsự tôi biết ngay là Sở MậtThám Los Angeles lại muốn nhờ vảtôi. Cũng có khi Nhà nướccử mấytên da đen đến nhờ tôigiải quyết chút việc ở nhữngnơi khôngthể xâm nhập được.Coi vậy chứ tôi có oai nhưmột ông cò cảnh sát nắm trong tay cả một tiểu đội thám tử khi cần nhào vô khu ghetto. “Vậy thì sao lại có chuyện tôi phải đi theo ông? Tôi đang ởnhà vui vớivợcon. Tôi không muốn thấy ngày nghỉ Chủ nhật phải đi theo bọn cớm”. “Chúng tôi nhờ ônggiúp đỡ mà ôngRawlins”. Vẻ mặt Quinten sa sầm dưới lànda màu nâu sậm. Tôi chỉ mong ởnhà với vợcon. Nay nghe Naylor nài nỉ khó mà khước từ cho được. Chừng như gã đang gặp khó khăn nên phải tới cầucạnh. Khó khăn này gặp bọn da đen thì nguy to, bọn chúng tôi đứa nào cũng vậy cả. “Ta sẽ đi đâu ?” “Chẳng bao xa đâu. Cách đây khoảng một chục dãy số. Ta đến phố 110th”. Vừa nói xong gã quay đầu nhìn về hướng đó. Đứng bên ngoài tôi nói to vào trong nhà. “Tôi có việc cần đi với ngài Naylor. Lát nữa về”. “Sao?” Regina đang bận tay ủi đồ hỏi vọng ra. “Tôi đi đây có chút việc”. Tôi hét to, giơ tay vẫy vẫy nhắm vô chỗ cây lê tàu trước ngõ. Thằng nhóc Jesus nhô đầu ra khỏi cành cây cười theo. “Xuống đây!”. Tôi nói. Thằng nhóc dân Mễ tụt xuống thân cây chạy tới bên tôi lặng lẽ cười một mình. Vẻ mặt nó hệt như dân Mỹ thời xa xưa, da ngăm ngăm đen, sáng dạ. “Con không đi đâu xa, nghe Jesus”. Tôi dặn. “Ở nhà với mẹ và em nhỏ Edna”. Jesus gật đầu. “Con nhìn đây nè”. Tôi nói một hơi cho nó nghebởi nuôi nó đã tám năm mà chưa hề nghe nónói chuyện. Jesus liếc nhìn theo tôi. “Con chỉ ở quanh nhà thôi. Con nghe chưa?” Quinten đang chờ ngoài xe, gã liếc nhìn đồng hồ. Jesus gật đầu. Nó nhìn vào mắt tôi. “Ngoan nhé”. Tôi xoa lên mái tóc xoăn màu hồng đào rồi bước ra ngoài xe. ... Mời các bạn đón đọc Bướm Trắng của tác giả Walter Mosley.
Chiến Dịch 'Cặp Bài Trùng' - Gyorgy Falus & Gábor József
Có một ông Banks nào đó cử nhân viên tình báo tấn công vào đất Hungary, lọt vào một công ty năng lượng thì phải. Bối cảnh truyện xảy ra ở Hungary, Đức, Áo... Sau nhiều tình tiết li kỳ thì mấy tay gián điệp đó hẳn nhiên sa lưới ^^. *** Ban đêm, phòng đợi dành cho hành khách của sân bay Pherissen ở gần Budapest thường vắng vẻ nên hành lang dường như càng trống trải. Bãi đỗ xe ôtô bus trước nhà ga lại càng trống vắng và mênh mông hơn. Quá nửa đêm ở đây chỉ có một vài chiếc máy bay đưa thư đậu, ngoài ra không còn loại máy bay nào khác. Việc bốc dỡ hàng chỉ chiếm mất rất ít thời gian và người bưu tá hàng không lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Những ngọn đèn pha báo hiệu trên tháp, nơi có điều độ viên chính đang ở, với một phần tư độ sáng, chỉ rực lên trong chốc lát cho các máy bay cất cánh hoặc hạ cánh. Thật ra chung quanh đường băng lên xuống được bảo vệ bằng một mạng đèn dày đặc có độ sáng cực mạnh và sáng suốt đêm nhưng chúng chỉ hướng lên bầu trời. Nhân viên trực ca đêm từ lâu nay đã bị tinh giản tới mức độ chỉ còn lại ít nhất. Vì không có hành khách nên những cuộc gặp gỡ và đưa tiễn cũng không. Bởi vậy sân bay như chìm trong im lặng. Thế nhưng vào đêm mùng 7 tháng 8, toàn cảnh ở đây trông có vẻ không giống với những gì đã miêu tả ở trên. Khi những chiếc kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường đã chỉ sang giờ thứ hai và tòa nhà của ga hàng không ngập tràn ánh sáng, người ta thấy rất đông nhân viên phục vụ kíp đêm đã có mặt tại nơi làm việc của mình. Những tiếng va chạm khe khẽ phát ra từ vô số ly tách cà phê mà họ đang uống để chống lại sự mệt mỏi khi họ gặp nhau – với họ, những cuộc gặp như vậy cũng đã khá nhiều – và cùng bực dọc đưa mắt nhìn lên bảng điện báo, ở đó sáng lên một cách lì lợm độc một dòng chữ: “ Chuyến bay MA – 424, Frankfurt – Budapest – và sau đó, ở cột cuối viết mấy chữ to hơn, – ĐẾN CHẬM”. Gặp nhau chỉ tổ buồn rầu, một số đến ngồi vào những chiếc ghế fauteuil, số khác đi lại vẩn vơ trong phòng hoặc đến đứng cạnh tấm biển điện báo. Mặc dầu có “ Bản thông báo”đã ghi phía sau bàn điều khiển song họ cũng không biết gì hơn, vì những cô gái mặc đồng phục màu xanh đã tỏ ra mệt mỏi do phải giữ lịch thiệp để lặp đi lặp lại mấy câu: - Vâng, đúng đấy ạ! Chuyến bay đến chậm. Không, không phải tại tôi. Công nhân viên chức làm việc ở sân bay tại Frankfurt đã tuyên bố bãi công… Khi nào bay ấy à? Xin lỗi, cho đến lúc này cũng chưa thể biết gì hơn… Lúc ấy, hai người đã cao tuổi, có lẽ là hai vợ chồng vừa đến kịp chỗ quầy bán vé. Người đàn bà khoảng dưới bảy mươi tuổi, còn người đàn ông trông có vẻ già hơn. Nhẫn nại chờ cho đến lúc cô nàng xinh đẹp với chiếc mũ ca –lô trên đầu ngồi trịnh trọng sau chiếc bàn chỉ dẫn chú ý đến mình, người đàn bà hỏi: - Xin làm ơn cho biết, máy bay từ Frankfurt… ... Mời các bạn đón đọc Chiến Dịch "Cặp Bài Trùng" của hai tác giả György Falus & Gábor József.
Nhân Chứng Đã Chết - Harlan Coben
Vợ chưa cưới KATHY mất tích bí ẩn, sự nghiệp mới chớm nở tưởng như bị đe dọa, nhưng bằng cách nào đó, ngôi sao bóng bầu dục sinh viên CHRISTIAN STEELE vẫn nhẹ nhàng vượt qua được áp lực của dư luận. Mặc dù vậy, khi bức ảnh khỏa thân của KATHY bất ngờ xuất hiện trên một tạp chí khiêu dâm, mọi diễn biến đã đảo lộn đến chóng mặt. Quá nhiều kẻ tình nghi, quá nhiều động cơ, và quá nhiều bí ẩn. Với những lập luận chặt chẽ và hiểu biết sâu sắc của mình về thế giới thể thao Mỹ, HARLAN COBEN đã cùng nhân vật chính của mình, thám tử kiêm nhà đại diện thể thao MYRON, đưa người đọc qua những mặt trái của xã hội, của đời vận động viên để đến với một cái kết đầy bất ngờ và ám ảnh. *** Otto Burke, phù thủy thương thuyết, nâng tầm cuộc đấu lên một bậc. “Đi mà, Myron,” hắn thúc giục với vẻ hăng hái theo cung cách mộ đạo kiểu mới. “Tôi chắc chắn chúng ta có thể thấu hiểu nhau. Anh nhường một ít. Tôi nhường một ít. Titans là một đội. Hiểu theo nghĩa rộng hơn thì tôi muốn tất cả chúng ta là một đội. Bao gồm cả anh nữa. Hãy làm một đội đích thực đi Myron. Anh thấy sao?” Myron Bolitar chụm đầu ngón tay vào nhau. Anh đọc được ở đâu đó rằng hành động đó làm ta trông có vẻ trầm tư. Nhưng bản thân anh thì lại thấy điều đó quả là ngớ ngẩn. “Otto à, tôi nào muốn gì hơn,” anh nhắc lại cái câu vô nghĩa mà suốt từ nãy đã được nhai đi nhai lại không biết bao nhiêu lần. “Thật đấy. Nhưng chúng tôi đã nhường hết mức rồi. Giờ đến lượt anh.” Otto gật đầu lia lịa, như thể hắn vừa nghe thấy một quan điểm triết học kỳ quái khiến ngay cả Socrates cũng phải hổ thẹn. Hắn nghiêng đầu, hướng nụ cười thớ lợ về phía huấn luyện viên đội bóng. “Larry, anh thấy sao?” Bắt lấy tín hiệu gợi ý, Larry Hanson vội gõ nắm tay lông lá to như con chuột nhảy lên chiếc bàn hội nghị. “Quỷ tha ma bắt cậu đi, Bolitar!” gã hét lên. “Nghe thấy không, Bolitar? Cậu có hiểu tôi đang nói gì với cậu không? Quỷ tha ma bắt cậu đi.” “Quỷ tha ma bắt,” Myron gật đầu nhắc lại. “Hiểu rồi.” “Cậu giở trò láu cá với tôi đấy hử? Trả lời tôi xem nào, bố khỉ! Láu tôm láu cá hử?” Myron nhìn gã, “Răng anh giắt hạt anh túc kìa.” “Mẹ kiếp đồ láu cá.” Larry Hanson trợn mắt. Gã liếc mắt về phía sếp rồi quay lại nhìn Myron. “Việc này không hợp với cậu đâu, Bolitar. Mà cậu biết mẹ nó rồi còn gì.” Myron làm thinh. Thực chất, Larry Hanson cũng có phần đúng. Myron không thích hợp. Anh mới làm đại diện thể thao hai năm nay. Phần lớn khách hàng của anh là những trường hợp còn non - những kẻ may mắn đạt đủ tiêu chuẩn và chạm mức tối thiểu của liên đoàn. Và bóng bầu dục chưa bao giờ là món tủ của anh. Anh chỉ có ba cầu thủ chơi ở giải bóng bầu dục nhà nghề Mỹ NPL, trong đó chỉ có một cầu thủ chính thức. Giờ Myron ngồi đối diện bậc tuổi trẻ tài cao - Otto Burke, ba mốt tuổi, người trẻ nhất sở hữu một đội bóng thuộc NFL, và Larry Hanson, một huyền thoại bóng bầu dục nay đã là giám đốc điều hành, đàm phán một hợp đồng mà dù chỉ do một tay non nớt như anh đảm nhận nhưng lại là bản hợp đồng khởi nghiệp bự nhất lịch sử NFL. Phải, anh - Myron Bolitar - đã giành được ‘Hàng nóng’, Christian Steele. Tiền vệ hai lần giành cúp Heisman*. Ba lần lọt vào thẳng bảng xếp hạng của hãng tin AP và UPI với tư cách quán quân. Nếu thế chưa đủ thì cậu nhóc này còn là chàng trai trong mộng của các cô gái. Một sinh viên ưu tú, sáng sủa, ăn nói lưu loát, lịch sự và là người da trắng (hầy, nếu điều này quan trọng). Trên hết, cậu ta thuộc về Myron. “Đề nghị được đưa ra rồi đấy, thưa các quý ông,” Myron nói tiếp. “Chúng tôi nghĩ thế là quá công bằng rồi.” Otto Burke lắc đầu. “Thật vãi cả phân!” Larry Hanson hét lên. “Cậu ngu bỏ mẹ, Bolitar ạ. Cậu sẽ làm sự nghiệp của thằng nhóc đi tong mất.” Myron dang tay ra. “Sao mọi người không cùng ôm nhau một cái cho nó tình cảm nhỉ?” Larry định buông thêm một câu chửi thề, nhưng Otto đã giơ tay lên ngăn lại. Hồi Larry còn thi đấu, những cú đòn chặn của Dick Butkus và Ray Nitzchke không thể cản bước gã. Giờ chỉ một cái khoát tay cũng có thể làm kẻ tốt nghiệp Harvard nặng ngót bảy mươi cân này ngậm miệng. Otto Burke nhoài người ra. Hắn vẫn chưa tắt nụ cười, chưa thôi khua khoắng tay, chưa thôi trao đổi ánh mắt - như một bộ phim quảng cáo sống động về Năng lực Cá nhân của diễn giả Anthony Robbins vậy. Làm người khác bối rối phát điên. Otto nhỏ thó, một gã đàn ông hom hem với những ngón tay bé nhất mà Myron từng thấy. Hắn có mái tóc dài sẫm màu kiểu dân Rock xõa xuống vai. Mặt hắn trông non tơ với chòm râu dê ngớ ngẩn nom như được phác họa bằng bút chì. Hắn hút một điếu thuốc dài ngoẵng, hay có lẽ nằm trên mấy ngón tay bé xíu của hắn nên nó thành ra vậy. “Nào, Myron,” Otto nói, “ta hãy nói chuyện có lý có tình, được chứ?” “Có lý có tình. Mời.” “Tuyệt, Myron, thế sẽ có ích đấy. Sự thật Christian Steele là kẻ vô danh, một tay ất ơ chưa được kiểm chứng. Cậu ta còn chưa từng được khoác đồng phục chuyên nghiệp. Biết đâu cậu ta lại là quả bom xịt của thế kỷ cũng nên.” Larry khịt mũi. “Cậu nên biết chút ít về điều này, Bolitar à, về những cầu thủ chẳng làm được trò trống gì. Những kẻ thất bại.” ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Đã Chết của tác giả Harlan Coben.