Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông

Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thủy Xa Quán - Yukito Ayatsuji
Vị kiến trúc sư tài hoa năm nào không còn, nhưng Thập Giác Quán, Thủy Xa Quán... và những tác phẩm tinh xảo kiêm quái đản khác của ông ta vẫn tiếp tục là hiện trường cho những cái chết thảm khốc. Sau khi Thập Giác Quán biến thành tro bụi, người anh em của nó là Thủy Xa Quán lại xuất hiện trên truyền thông với tư cách một mồ chôn lớn, chôn cả người chết lẫn người sống. Ở đây, một phụ nữ rơi xuống kênh, bị bánh xe nước cuốn lên rồi hất tung về phía hạ du. Một thanh niên ra ngoài đêm khuya bị chặt thành sáu mảnh rồi trụi lủi nham nhở trong lò đốt rác dưới chân Quán. Một nhà sư tan vào thinh không ngay trên tầng 2. Cũng ở đây, nữ chủ nhân chôn vùi tuổi hoa, và nam chủ nhân quyết tồn tại một cách khốn khổ, tách biệt xã hội, giấu diện mạo mình sau lớp mặt nạ cao su lạnh băng. Họ muốn lãng quên xã hội, nhưng vì họ sở hữu nhiều tài sản quý giá quá và nhiều ân oán truyền kiếp quá, xã hội không chịu lãng quên họ. Cứ vào ngày giỗ của chủ nhân đời trước, Thủy Xa Quán lại mở cửa đón khách, và cuộc tiếp đón ấy năm nay, không thoát khỏi bóng đổ âm u của những cái chết bất ngờ… *** Thủy Xa Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Lộ Quán – 1988; Hình Nhân Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. Mời các bạn đón đọc Thủy Xa Quán của tác giả Yukito Ayatsuji.
Thập Giác Quán - Yukito Ayatsuji
“Phải giết từng đứa, từng đứa một…” Một ngày nọ, có bảy sinh viên thuộc Hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám Đại học K ra thăm hoang đảo Tsunojima. Ở đây có một tòa nhà độc đáo hình thập giác, tác phẩm của một kiến trúc sư đã chết cháy nửa năm về trước. Vốn yêu thích và ham suy luận, họ toan kết hợp việc vui chơi với điều tra khám phá các bí mật ẩn sau vụ chết cháy này, nhưng chẳng ai ngờ chuyến thăm đảo lại mau chóng biến thành một chuỗi án mạng mới, và các sinh viên lần lượt biến thành nạn nhân trong một kế hoạch ám sát tinh vi. Bảy ngày và bảy người… Giác quán giữa Giác đảo… Ai là kẻ sát nhân? Ai là người tiếp theo phải chết? Tại sao? Và quan trọng hơn: Làm cách nào thoát nạn? Chẳng thể tin tưởng một ai, từng nạn nhân đơn độc đối mặt với quỷ dữ, run rẩy vén bức màn ma mị để tìm ra sự thật. Bằng kiến thức thu lượm được từ kho truyện trinh thám đã tích lũy, liệu họ có vạch mặt chỉ tên được kẻ thủ ác và thoát nạn, hay có học mà không có hành, cuối cùng sẽ đi đến kết cục bi thảm là cuối cùng chẳng còn một ai? Thập Giác Quán được đánh giá là có cái kết khiến người đọc sững sờ nhất trong lịch sử tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. *** Thập Giác Quán (1987) là cuốn tiểu thuyết đầu tay thuộc thể loại trinh thám cổ điển của nhà văn Yukito Ayatsuji. Tác phẩm nằm trong series Quán: Thập Giác Quán – 1987; Thủy Xa Quán – 1988; Mê Cung Quán – 1988; Hình Nhân Quán – 1989; Chung Biểu Quán – 1991; Hắc Miêu Quán – 1992; Hắc Ám Quán – 2004; Kinh Hoàng Quán – 2006  Kỳ Diện Quán – 2012. Thập Giác Quán được đánh giá là có cái kết khiến người đọc sững sờ nhất lịch sử tiểu thuyết trinh thám Nhật Bản. Thập Giác Quán gồm 12 chương (không kể mở đầu và hồi kết), xoay quanh chuyến hành trình một tuần ghé thăm hoang đảo Tsunojima của bảy sinh viên thuộc Hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám Đại học K. Mỗi nhân vật đều có cho mình một biệt hiệu riêng mượn từ tên các nhà văn trinh thám Âu-Mỹ mà họ ngưỡng mộ, theo thứ tự lần lượt là: Yamasaki Yoshifumi – Edgard Poe, Suzuki Tetsuro – John Dickson Carr, Matsuura Junya – Ellery Queen, Iwasaki Yoko – Agatha Christie, Oono Yumi – Emma Orczy,  Higashi Hajime – Gaston Leroux và Morisu Kyoichi – S.S Van Dine. *** Có cùng mô tuýp với Mười người da đen nhỏ của nữ hoàng trinh thám người Anh Agatha Christie về bối cảnh và lối gây án, song Thập Giác Quán đã tạo được chỗ đứng nhất định cho mình khi đã lồng ghép rất hoàn hảo các diễn biến của vụ án cả trên đảo và đất liền. Tình tiết được xây dựng khá lôi cuốn ngay từ những trang đầu tiên, luôn thôi thúc người đọc mau chóng khám phá sự thật, nhưng càng về cuối lại càng không thành công. Tuy được đánh giá là có cái kết ấn tượng, nhưng nếu bạn là người “sành” trinh thám, thì chỉ cần vài chương là đã đoán được hung thủ là ai. Tác giả đã đề cập luận điểm “chủ nhà” khá sớm, và mặc dù diễn biến dần khiên cưỡng và mờ mịt, nhưng dường như cũng không có ý phủ nhận luận điểm này. Động cơ gây án cũng là một điểm trừ nữa cho Thập Giác Quán, khi trong mắt độc giả, lý do trả thù dường như không đủ để gây ra một vụ thảm sát có tính toán và quy mô lớn nhường này. *** Thập Giác Quán vẫn là một cuốn truyện đáng mua đối với những ai đam mê trinh thám nói chung. Còn một khi bạn đã là fan “ruột” của thể loại trinh thám cổ điển, thể loại mà theo lời Ellery nói thì: “Có thể cho tôi là hoài cổ, nhưng tiểu thuyết trinh thám thực chất chỉ cần: một thám tử tài ba, một tòa nhà rộng lớn, những kẻ mờ ám, bi kịch đẫm máu, tội ác không tưởng, và những trò lừa có một không hai của hung thủ.”; sẽ thật may mắn nếu bạn không mua phải cuốn này.
Hồ Sơ Tội Phạm - Diệp Mộc Nhiên
Tâm lý học tội phạm bao hàm một phạm vi rất rộng gồm nhiều chủ đề hấp dẫn. Suốt nhiều thế kỷ qua, con người đã luôn hứng thú với tội ác, và trong hàng trăm năm gần đây, tâm lý học đã phát triển từ một một môn học non nớt thành một một bộ phận trọng yếu trong cuộc sống. Ở một vài nước trên thế giới (như Mỹ, Anh Quốc), tâm lý học nằm trong top 3 môn học phổ biến được nhiều sinh viên chọn học nhất ở trường đại học và cao đẳng. Tâm lý học bây giờ đã được công nhận là có mối liên hệ bậc nhất với nhiều khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt với những tội phạm, tù nhân, cảnh sát, nhân chứng và tòa án. Cuốn sách này được viết cho cộng đồng nói chung, những ai có mong muốn hiểu thấu đáo hơn về tâm lý học tội phạm hơn là những kiến thức từ phương tiện truyền thông phổ biến như báo chí và truyền hình. Trong cuốn sách này, chúng tôi giải thích bằng một cách thân thiện, dễ hiểu đối với độc giả về nền tảng của tâm lý học tội phạm hiện đại. Do đó cuốn sách sẽ phù hợp với những ai có sở thích bắt đầu nghiên cứu về tâm lý học tội phạm. *** Hồ Sơ Tội Phạm 1 Chủ Đề: Triệu Chứng Chung Của Người Bị Biến Thái Nhân Cách Tội Phạm Biến Thái Top 5 Nữ Đồ Tể Khét Tiếng Nhất Trong Lịch Sử Nhân Loại Biến Thái Quá Trình Thiết Lập Hồ Sơ Tội Phạm Lập Hồ Sơ Tội Phạm Dựa Theo Địa Lý Vùng Gây Án (Geographic Profiling) Phần 1 Thái Nhân Cách - Trừng Phạt Chẳng Có Nghĩa Gì Tâm Lý Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt - "Mục Tiêu Danh Vọng" Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 1) Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 2) Những "Bậc Thầy" Của Những Tên Sát Nhân Mô Phỏng Tội Phạm Cũng "Quan Trọng Tiểu Tiết" Cách Những Kẻ Lừa Đảo Ẩn Mình Dưới Con Mắt Người Thường Những Tội Phạm Trông Khác Biệt Với Những Người Không Phải Tội Phạm "Biến Mình" Thành Kẻ Sát Nhân Để Truy Tìm Tội Phạm Hội Chứng C.S.I Tâm Lý Hung Thủ Giết Người Cảnh Sát Phân Tích Tâm Lý Tội Phạm - Lực Lượng Đặc Biệt Của Cảnh Sát Tâm Lý Học Tội Phạm: Tội Ác Phát Sinh Từ Đâu? Cái Chết Của Tên Tội Phạm Và Nghi Án Về Chứng "Loạn Dâm" Gây Ngạt Lệch Lạc Tình Dục: Phô Dâm, Thị Dâm Và Loạn Dục Cảm Xúc Rối Loạn Ám Ảnh Cưỡng Chế Và Rối Loạn Nhân Cách Ám Ảnh Cưỡng Chế (Ocd & Ocpd) Rối Loạn Nhân Cách Hoang Tưởng (Paranoid Personality Disorder) Đại Cương Về Chứng Thái Nhân Cách *** Lời Biên Tập Viên: Đây không phải sản phẩm do mình làm ra mà là những kết tinh trí tuệ của các nhà tâm lý tội phạm học. Là kết quả tìm hiểu và sưu tầm của mình với mục đích học tập và giải trí nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá về phương diện tâm lý cũng như chia sẻ cho mọi người đọc. Trong chuỗi bài sưu tầm có thể có những vụ án mạng kinh hãi,dễ gây ảnh hưởng đến tâm lý sau này. Xin hãy suy xét kĩ trước khi đọc,hãy đọc khi đủ tuổi trưởng thành... Cuối cùng,cảm ơn vì đã ủng hộ. Nếu cảm thấy hay thì vote cho mình 1 phiếu. Cảm ơn!
Việc Máu - Michael Connelly
Terry McCaleb không ở  đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dặn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội  ác ở Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã  đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt  mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ  đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và McCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối  đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lồng ngực. Terry McCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của các tội ác, cũng như bí ẩn trong mối quan hệ tình cảm con người. Michael Connelly ở độ chín của tài năng và phong cách, một cuốn tiểu thuyết trinh thám có nhịp điệu mạnh liên hồi, tàn khốc nhưng không mất đi sự mềm mại, nhân bản, thậm chí là lãng mạn. *** Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. *** McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” ... Mời các bạn đón đọc ​Việc Máu của tác giả Michael Connelly.