Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lạc Đường - Đào Hiếu

Mùa Thu năm 2007 tôi gặp nhà văn Nguyễn Mộng Giác tại Hoa Kỳ. Tôi khoe với anh là mình đang viết hồi ký. Anh nói: viết hồi ký cũng giống như quay phim đám cưới. Phim quay xong, người trong cuộc ngồi xem rất thích thú nhưng người ngoài chỉ liếc mắt ngó qua rồi đi, vì đám cưới ấy chẳng dính dáng gì tới họ. Anh nói nghe rất có lý. Hơn nữa tôi không phải là một nhân vật quan trọng nào đó mà chỉ là một anh Việt cộng nằm vùng không mấy người biết đến. Nhưng tôi tin rằng hồi ký của gã vi-xi vô danh ấy sẽ thu hút người đọc và biết đâu sẽ gây tiếng vang lớn. Tôi bắt đầu viết hồi ký này giữa năm 2006, viết được hơn một nửa thì tôi sang Mỹ và hoàn tất nó vào mùa Thu năm 2007 tại thành phố Lake Forest và quyết định gọi tên nó là “tự truyện Lạc Đường”. Đầu năm 2008 tôi về Việt Nam, đưa bản thảo cho vài người bạn. Và nó đã được đón nhận rất ồn ào. Từ vài ba người bạn thân, nó lan truyền trong giới nhà văn nhà báo và họa sĩ. Đáng ngạc nhiên nhất là giới luật sư đọc rất nhiều. Biết rằng tự truyện này không thể xin giấy phép in công khai được, tôi bèn gởi nó cho trang web Talawas. Mười ngày sau tôi nhận được thư của chị tổng biên tập Phạm Thị Hoài. Chị nói: “Tôi sẽ đích thân biên tập tác phẩm này.” Rồi tự truyện Lạc Đường xuất hiện trên Talawas. Hai mươi bốn giờ sau, chị Hoài lại viết cho tôi: “đã có 15.333 lượt người đọc”. Mấy hôm sau, buổi tối, khi tôi đang nằm coi TV thì nhận được cú điện thoại từ đài BBC. Lê Hải gọi tôi. Anh nói: “Tôi đã đọc xong tự truyện Lạc Đường của anh và rất khâm phục. Xin chia vui cùng anh. Anh có thể cho đài BBC một cuộc phỏng vấn không?” Đó là cuộc phỏng vấn dài 20 phút phát sóng sau đó mấy ngày và được phát lại lần thứ hai cách nửa tháng. Tôi rất cám ơn Talawas và đài BBC vì nhờ các phương tiện truyền thông này mà tự truyện Lạc Đường đã được hàng vạn người biết đến. Dạo ấy mỗi ngày tôi nhận được rất nhiều thư độc giả từ khắp Việt Nam và khắp nơi trên thế giới gởi về qua địa chỉ E.mail của tôi. Tôi biết mình đã thành công ngoài dự kiến và điều mà anh Nguyễn Mộng Giác lo ngại đã không xảy ra. Ở lần tái bản này tôi đã sửa chữa và bổ sung một số thiếu sót. Những chuyện được kể trong tác phẩm này là sự thật mặc dù đôi khi, do không kiềm chế nổi sự ngông cuồng của mình, tôi đã thể hiện nó như một tiểu thuyết. ĐÀO HIẾU *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** Trước Tết Tân Hợi (1971) chừng một tháng, tôi xin được một cái phép ba ngày về thăm mẹ. Căn nhà của tôi bây giờ chỉ là một nơi hoang tàn, lạnh lẽo. Tôi đi từ nhà trước ra nhà sau, không một bóng người. Khi tôi đẩy cửa bước vô căn buồng nhỏ nơi mẹ tôi thường nằm thì nghe có mùi gì rất lạ. Căn buồng tối quá, tôi phải mở cánh cửa nhỏ mới nhìn thấy được mọi thứ trong đó. Chiếc giường nhỏ kê sát vách không có ai nằm. Một chiếc gối nhỏ và chiếc mền cũ màu xám tro. Tôi đến bên giường, vừa đặt tay lên gối thì một đám bụi bốc lên. Trên chiếu lờ mờ hiện lên những vật gì màu nâu. Tôi cúi xuống. Các bạn có biết đó là cái gì không? Đó là phân người. Chúng đã khô quắt lại. Từ ngày tôi bị bắt lính, mẹ tôi đã sống thui thủi một mình trong cái buồng nhỏ này với ngọn đèn dầu hiu hắt từng đêm. Những người hàng xóm kể lại rằng khi bà đi xuống bếp lục cơm nguội ra ăn, với tay lấy chai nước mắm chan vô chén cơm, hóa ra đó là chai dầu lửa. Bà nhai miếng cơm trộn trạo trong miệng một lúc mới nghe được mùi hôi và ói ra đầy giường. Xế chiều buồn quá bà ngồi dậy quơ lấy cây gậy tre, từng bước chống đi, dò dẫm đến những nhà quen ở đầu chợ. Tôi liền chạy ra đầu chợ, thấy mẹ ngồi đó, nhưng bà cũng không nhận ra tôi nữa. Lúc tôi chạy đến ôm bà, bà mới nhận ra hơi hướng của tôi. Bà sờ lên đầu lên mặt tôi và hỏi: -Con đấy hả? Thế là bà khóc. Tôi cũng khóc. Buổi chiều đó tôi cõng mẹ từ ngoài chợ về nhà. Những người trong làng đổ xô ra xem, xem anh lính binh nhì cắp cây gậy tre trong nách cõng mẹ đi qua thị trấn. Hàng xóm chạy đến giúp tôi dọn dẹp nhà cửa. ... Mời các bạn đón đọc Lạc Đường của tác giả Đào Hiếu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cầu Ô Thước - Antoine Audouard
Năm 1945, Pierre Garnier tòng quân, gia nhập quân viễn chinh Pháp sang tham chiến ở Đông Dương. Giữa lúc đang hoang mang tột độ trước thực tế trần trụi của chiến tranh, cậu lạc bước vào tình yêu. Những mối tình mãnh liệt mà bất khả. Những niềm hạnh phúc không thể nào nắm giữ. Cho đến ngày thất trận. Nhiều năm sau, có một người con trai quyết định lần về quá khứ, tìm lại những con người cũ, những mong vén được bức màn bí ẩn về cha, một người cha vắng mặt. Nhưng khi sự thật ấy được phơi bày, liệu lòng anh đã yên? Cầu Ô Thước là một trang lịch sử bị tách rời, nơi thời gian ngưng đọng, nơi dựng lại cái không khí sôi sục của chiến tranh Đông Dương, nơi hiển hiện những nhân vật đã làm nên một phần thế kỷ XX. Nhưng hãy khoan nghĩ bạn đang đọc một cuốn sách lịch sử, bởi như tờ Le Figaro đã nói: "đây không phải một cuốn sách lịch sử, mà là một câu chuyện tình yêu." *** Tôi nhận được cuộc điện thoại vào lúc tối muộn. Một giọng nói lạ hoắc, xoe xóe hỏi xem có phải tôi tên là André Garnier, có đúng tôi là con trai của Pierre Garnier không và khi tôi đang lúng búng trả lời rằng đúng là tôi nhưng ai thế? ai vậy? thì giọng nói ấy tiếp tục: “Cha anh, ông Garnier sẽ tới nhà anh ngày mai. Lúc 10 giờ 30 được chứ?” Chắc chắn, chúng ta không sống trong một thế giới mà người cha là đoàn tàu và con cái là sân ga; chắc chắn người phụ nữ này không có thật, bà ta không xưng danh và tôi cũng chẳng hỏi. Thế nhưng, ngày hôm sau, có hai nhân viên cứu thương - một to con, một gầy nhẳng - gõ cửa nhà tôi rồi đưa một tờ giấy màu xanh cho tôi ký, cứ như là họ đi giao thư bảo đảm vậy. “Đúng 10 giờ 30 phải không nhỉ?” người gầy nhẳng ra vẻ thành thạo hỏi, rồi hai người đàn ông rời đi không để tôi kịp ngậm miệng lại. Bố và tôi cứ đứng trên lối nhỏ dẫn vào nhà, lạ lẫm với nhau. Ông hơi lắc lư người, hai bàn tay nắm chặt chiếc túi da du lịch. “Mẹ con có khỏe không?” cuối cùng ông cũng lên tiếng và tôi thấy lòng mình ngổn ngang những cảm xúc đầy mâu thuẫn mà nổi trội là một cơn giận dữ rất thường tình - tức giận vì đột nhiên tôi phải làm người cha chăm sóc ông trong khi ông chưa từng một ngày làm cha tôi. “Thế còn vợ con?” ông tiếp tục, với giọng niềm nở. “Tốt cả,” tôi nói nhỏ, không cố để ông nghe thấy. Ông đến chậm mất ba mươi năm so với ngày mẹ tôi mất, nhưng chỉ muộn có ba hôm so với ngày vợ tôi bỏ đi. Một chút cố gắng thôi là ông đã có thể đến kịp. ... Mời các bạn đón đọc Cầu Ô Thước của tác giả Antoine Audouard.
Người Vô Hình
Herbert George Well thôi học năm 14 tuổi để làm người trông coi cửa hàng, rồi thi đỗ đại học, và sau đó trở thành giáo viên. Sau một thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, ông trở thành một nhà văn viễn tưởng nổi tiếng. Trong các tác phẩm của mình, H.G. Wells đã mô tả máy bay và tàu ngầm đi lại, trước khi người ta mơ hồ tin rằng những hành trình như vậy có thể thực hiện được. Là một con người đầy nghị lực H.G. Wells viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Phác thảo lịch sử (An Outline of History - 1920) và nhiều nghiên cứu về khoa học và chính trị. H.G. Wells đã phỏng vấn nhiều nhà lãnh tụ chính trị nổi tiếng và luôn có chính kiến về các sự kiện trên thế giới. Nhưng người ta lại nhớ đến một H. G. Wel1s tiểu thuyết gia hơn. Kẻ Vượt Thời Gian (The Time machine - 1895) và Người vô hình (The Inrrsible Man - 1897) đã trở nên rất gần gũi với công chúng và cũng được các nhà làm phim đặc biệt ưa thích. *** Trong đau đớn, khốn cùng, trong khoái cảm, và cái chết - Đó là đời sống mà nhà khoa học Griffin đã nếm trải khi trở thành một người vô hình. Ở Người vô hình, thiện và ác là những bện xoắn rất chặt vào nhau, ràng buộc, tựa nương vào nhau mà phát triển. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Giết người sẽ dẫn đến giết người. Có lẽ đó là cái lý lẽ phù hợp với quy luật tự nhiên nhất, và nó chạy theo nhau, đẩy mãi, đẩy mãi đến tận cùng của xung đột. Cái chết của người vô hình là sự hóa giải cuối cùng. Tại sao cuộc đời người vô hình lại đi đến mức ấy? Người vô hình là một vật thể lạ giữa loài người. Và loài người từ xưa tới này vốn là sinh vật không chấp nhận sự khác biệt, hoặc hoảng sợ, hoặc ruồng rẫy, và trước sau gì sự hủy diệt cũng sẽ xảy ra. Là tham vọng hay thực chất chỉ là thanh trừng những gì không nằm trong hệ thống. *** Vào một ngày mùa đông đầu tháng hai, gió lạnh thổi từng cơn như cắt da, những đợt tuyết cuối cùng trong năm rơi xuống phủ lên mặt đất một màu trắng xóa. Từ ga xe lửa Bramblehurst, có một người khách lạ đi tới, mình mặc áo khoác đen, cầm một túi đen nhỏ trên tay mang găng dày, chân mang ủng. Ông ta quấn kín từ đầu đến chân, và một chiếc nón rộng vành che hết khuôn mặt chỉ chừa lại chóp mũi sáng bóng. Tuyết rơi phủ trên vai và lưng trông giống như ông ta đang mang một túi hành lý thật nặng. Ông ta bước vào quán trọ “Xe và Ngựa” như là một người sắp chết và ném cái túi xuống. - Lò sưởi! Làm ơn cho tôi thuê một phòng có lò sưởi! - Ông khách kêu lên. Ông ta dậm chân và lắc mình làm tuyết rơi đầy trong quán rượu và theo chân bà Hall, vợ chủ quán đi vào phòng khách mà không cần hỏi giá. Không nói lời nào, khách lạ ném hai đồng vàng sovereign lên bàn và đi vào phòng của ông. Giữa những ngày đông tháng giá, không có một bóng khách qua lại thì đây là một dịp may hiếm có cho bà Hall. Bà vội vàng đốt lò sưởi cháy đỏ lên và tự đi lo bữa ăn thậi xứng đáng cho ông khách. Khi thức ăn, nước uống đã được làm xong bà đem khăn, dĩa, ly vào dọn lên bàn. Mặc dù lửa trong lò sưởi đã cháy đượm, nhưng ông khách lạ vẫn còn để nguyên quần áo và nón, đứng nhìn đăm đăm ra cửa sổ xem tuyết rơi ngoài sân, lưng quay về phía bà và dường như ông ta đã hóa đá. Đôi tay đeo găng của ông chắp ra sau và có vẻ như ông ta đang mải mê suy nghĩ. Bà thấy tuyết trên vai ông khách đã tan thành nước và chảy ròng ròng xuống, làm ướt cả tấm thảm trải sàn nhà. Bà ngạc nhiên hỏi: - Thưa ông, ông cho phép tôi mang nón và áo khoác vào nhà bếp để hong khô chứ? Không hề ngoái lại người khách nói: - Không cần, bà cứ để mặc tôi. Bà chắc mình đã không nghe rõ câu trả lời, nên lặp lại câu hỏi. Ông ta quay đầu lại nhìn qua vai bà và nói: - Tôi thích để như vậy! - Ông ta nhấn mạnh từng lời với vẻ thật cương quyết. Bà để ý thấy ông khách mang một cặp kính to màu xanh đen, mớ tóc rậm và một hàm râu rậm rạp phủ đến tận cổ áo khoác che khuất cả gò má và khuôn mặt. - Được thôi, thưa ông. Nếu ông thích như vậy. Chỉ một chút nữa căn phòng sẽ ấm lên theo ý ông muốn. - Bà nói. Ông khách không trả lời, lại quay mặt đi nơi khác. Bà Hall cảm thấy không phải là lúc tiếp tục cuộc nói chuyện nên để mọi thứ lên bàn rồi lặng lẽ rời khỏi phòng. ... Mời các bạn đón đọc Người Vô Hình của tác giả Herbert George Wells & Nghiệp Khánh (dịch).
Bà Dalloway - Virginia Woolf
Bà Dalloway có thể coi là một trong những cuốn sách văn học tiêu biểu đầu thế kỉ 20 (được tờ Telegrap đánh giá là 100 cuốn tiểu thuyết nên đọc trong đời), khi mà người ta đã "chán" kiểu lãng mạn, mơ mộng của Jane Austen hay chị em nhà Bronte, thay vào đó là trào lưu tư tưởng về thuyết sinh tồn. Đầu thế kỉ 20 là thời gian biến động của thế giới nên văn học cũng chuyển biến theo như vậy, theo chiều hướng nặng nề và khắc khổ hơn. Người ta nghĩ rằng tư tưởng sinh tồn (coi cuộc sống vô nghĩa) sẽ chỉ là một trào lưu nhất thời trong thời kì đen tối nhưng thực chất đã ảnh hưởng đến một thế hệ lớn sau này và người ta nhận ra rằng, con người trong thời kì nào cũng tiềm tàng tư tưởng đó. *** Virginia Woolf (tên thời con gái Stephen) (sinh 25 tháng 1, 1882 - mất 28 tháng 3, 1941) là một tiểu thuyết gia và là một nhà văn tiểu luận người Anh, bà được coi là một trong những nhân vật văn học hiện đại lừng danh nhất thế kỉ 20. Trong suốt thời gian giữa chiến tranh, Woolf là một nhân vật có tầm ảnh hưởng của xã hội văn học London và là một thành viên của Bloomsbury Group.   Những tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm: Đêm và ngày (Night and Day, 1919), Căn phòng của Jacob (Jacob’s Room, 1922), Bà Dalloway (Mrs.Dalloway, 1925), Đến ngọn hải đăng (To the Lighthouse, 1927), Orlando (1928), Một căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929), Những đợt sóng (The Waves, 1931), Ba đồng tiền vàng (Three Guineas, 1938). Trong các sáng tác của bà, tác phẩm luận văn Một căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929) có một câu châm ngôn rất nổi tiếng:"a woman must have money and a room of her own if she is to write fiction" ("một người phụ nữ phải có tiền và một căn phòng riêng nếu cô ta phải viết tiểu thuyết". *** Bà Dalloway bảo bà sẽ tự đi mua hoa. Vì Lucy có công việc phù hợp với cô ta. Mấy cánh cửa sẽ được tháo khỏi bản lề, những người thợ của Rumpelmayer sẽ tới. Và sau đó, Clarissa Dalloway nghĩ, thật là một buổi sáng tuyệt vời – tươi tắn như thể được ban phát cho lũ trẻ con trên bờ biển. Thật hân hoan! Thật chìm đắm! Vì dường như đối với bà, khi những cái bản lề kêu rít lên, như lúc này bà có thể nghe, bà phải mở tung những khung cửa sổ kiểu Pháp và lao người vào bầu không khí thoáng đãng của Bourton. Trong lành biết bao, êm ả biết bao, dĩ nhiên là yên tĩnh hơn lúc này, bầu không khí sớm mai hồi ấy giống như tiếng vỗ của một làn sóng; nụ hôn của một làn sóng; lạnh và gắt, thế nhưng nghiêm trang (với một cô gái mười tám tuổi như bà thuở ấy),khi bà cảm thấy như đã từng cảm thấy lúc đứng đó ở khung cửa sổ mở, rằng một điều gì đó kinh khủng sắp xảy ra; khi nhìn những bụi hoa, những cây cối với làn khói ngoằn ngoèo lan tỏa và những con quạ đang vọt lên, sà xuống; đứng và nhìn cho tới khi Peter Walsh bảo: “Đang suy tư giữa đám rau củ hả? – Phải thế không? – “Tôi thích những người đàn ông hơn là những cây cải bắp” – Phải thế không? Hẳn ông ấy đã nói thế vào bữa điểm tâm của một sớm mai nào đó khi bà đã bước ra trước sân hiên – Peter Walsh. Một hôm nào đó, trong tháng Sáu hoặc tháng Bảy này, bà quên mất là tháng nào, ông ấy sẽ trở về từ Ấn Độ, vì những lá thư của ông ấy cực kỳ buồn nản; những câu nói của ông ấy chính là thứ làm cho người ta nhớ; đôi mắt, con dao nhíp, nụ cười, tính tình gắt gỏng của ông ấy, và khi hàng triệu thứ đã hoàn toàn biến mất, một vài câu nói như câu này về những cây cải bắp thật kỳ lạ biết bao! Bà hơi cứng người lại chút đỉnh trên vệ đuờng, chờ chiếc xe tải của Durtnall chạy qua. Một người phụ nữ quyến rũ, Scrope Purvis nghĩ về bà (ông ta biết bà như người ta biết về những người sống bên cạnh nhà mình ở Westminster); ở bà có cái dáng vẻ của một con chim, một nàng chim giẻ cùi, xanh lam, nhẹ nhàng, sôi nổi, dù bà đã quá năm mươi, và đã bạc trắng mái đầu từ khi ngã bệnh. Bà đứng đó, không hề nhìn thấy ông, chờ để băng qua đường, người thật thẳng. ... Mời các bạn đón đọc Bà Dalloway của tác giả Virginia Woolf.
Người Chậm - John Maxwell Coetzee
Chọn thành phố Adelaide của Úc làm bối cảnh, tác giả Người chậm dường như tạo điều kiện cho các nhân vật có một nơi thật yên tĩnh để được quyền chậm rãi. Sống chậm rãi, suy tư chậm rãi, nghiền ngẫm về đời sống và những con người vây quanh ta, tự hỏi và tự giải đáp... Người đàn ông bị tai nạn giao thông, phải cưa cụt một chân nhưng khăng khăng từ chối lắp chân giả. Ông trăn trở về việc mình chỉ như người khách trên đất nước này, nhưng ông cũng không phải là người Pháp dù gốc gác Pháp, cũng không phải là người Anh, hay là người Hà Lan như ông bố dượng của mình. Người phụ nữ gốc Croatia mới nhập cư cũng không thuộc về xứ sở này. Suy cho cùng, tất cả đều là dân ngụ cư, là tạm trú trên xứ sở và trên cả hành tinh. Ông có cảm tình với người đàn bà gốc Croatia được thuê đến để chăm sóc mình, cảm tình hay là tình yêu? Sự giúp đỡ mà ông đề nghị với chị là trong sáng hay vụ lợi trong cốt lõi? Đứa con trai của chị, thích phóng xe máy và muốn vào trường nội trú đắt tiền, là kẻ ngang tàng, bừa bãi hay là người chu đáo, tận tâm như mẹ cậu? Tất cả đã được bóc tách ra từng lớp, dần dần, lớp sau gây giật mình, thậm chí lật nhào kết luận vừa mới đến từ lớp trước. Sự mổ xẻ tâm lý nhiều lúc rợn người, đau xót. Sự phân tích tâm trạng nhiều lúc tỉ mỉ, tinh tế ở mức độ cao. Sự phân tích sắc sảo, dồn thúc đối tượng vào thế cùng để tự thú, một phần là do một nhân vật bí ẩn gây ra. Một bà già tự xưng là nhà văn, tìm đến, ám ảnh và quấy rầy ông. Ngôn từ nghiệt ngã, khô gọn và chính xác, bà bóc trần những trạng thái tâm sinh lý của người đàn ông hiền lành và từ tâm. Không phải để hạ bệ lòng tốt của con người, mà chỉ ra cho con người thấy cái đáy sâu của tấm lòng ấy. Không chỉ là ông già trong truyện, mà ngay cả người đọc có lẽ cũng có lúc bất bình, cảm thấy bị tổn thương trước sự sắc sảo quai quái của bà già này. Bà xuất hiện một cách bất ngờ, hiện diện thường xuyên một cách bí ẩn, và cũng ra đi một cách không thể lý giải ở cuối truyện. Cũng có thể bà không tồn tại bằng xương bằng thịt, chỉ đơn giản bà chính là con người thứ hai, bước ra từ trong chính nhân vật và trong độc giả. Trong cuốn sách này, Coetzee đưa ra suy ngẫm thâm thuý về những gì làm chúng ta thành người, về những cách làm ta chín chắn hơn và ý niệm phải sống ra sao trong đời. Bằng giọng văn chắc chắn và kiên quyết, Coetzee vật lộn với các vấn đề này, và cho ra đời một câu chuyện cảm động sâu sắc về tình yêu và cái chết làm người đọc sững sờ ở từng trang. *** Tai họa vồ lấy ông từ phía bên phải, đột ngột, bất ngờ và đau đớn như một tia lửa điện, nhấc bổng ông khỏi chiếc xe đạp. Bình tĩnh nào! Ông tự nhủ lúc bay trong không khí (bay vèo trong không trung sao dễ thế!), thực vậy, ông cảm thấy chân tay ông ngoan ngoãn buông chùng. Giống hệt một con mèo, ông tự nhủ, cuộn tròn rồi nhún chân bật lên, sẵn sàng tiếp nhận điều sắp tới. Tiếp đến là cái từ mềm dẻo lạ thường. Song le, sự việc lại không hoàn toàn như thế. Không hiểu vì đôi chân ông không nghe lời hay vì lúc ấy ông quá choáng váng (ông nghe thấy hơn là cảm thấy sọ ông đập mạnh lên lớp nhựa đường chắc, cứng đơ đơ như đập vào cái vồ), ông không bật lên bằng chân tí nào, ngược lại bị trượt đi nhiều mét, trượt mãi, cho đến lúc ông ngất lịm. Ông nằm sóng sượt, im lìm. Buổi sáng hôm đó thật huy hoàng. Ánh mặt trời ve vuốt dịu dàng. Nằm soài ra như thế, đợi phục hồi sức khoẻ còn tệ hơn. Thực ra có thể còn thứ tệ hơn là chợp mắt một lát. Ông nhắm mắt, thế giới chòng chành, xoay tròn bên dưới; rồi ông thiếp đi. Đột nhiên ông chợt tỉnh. Thân thể ông vừa bay trong không khí nhẹ nhõm là thế mà mỗi lúc một nặng nề, nặng đến mức ông không sao nhấc nổi một ngón tay. Có ai đó hiện ra lờ mờ phía trên ông, một người trẻ hơn, tóc thô và xoắn bện thừng. - Xe đạp của tôi - ông nói với cậu ta, phát âm khó khăn từng từ, từng từ một. Ông muốn hỏi chiếc xe của ông ra sao rồi, vì một cái xe đạp có thể biến mất trong chớp mắt. Nhưng chưa kịp nói ra những lời ấy, ông lại ngất đi lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Người Chậm của tác giả John Maxwell Coetzee.