Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lý Thuyết Tam Nguyên Cửu Vận Và Nguyên Lý Dự Báo Cổ

Lý Thuyết Tam Nguyên Cửu Vận Và Nguyên Lý Dự Báo Cổ

Dựa trên ánh sáng khoa học hiện đại tác giả đã sưu tầm tư liệu, nghiên cứu và giải thích một cách khoa học về những điều được cho là huyền bí trong vấn đề các môn học dự báo cổ xưa, điều này cũng có phần tương đồng như những gì chúng ta đã nghiên cứu gần đây về Kinh Dịch và Hệ Nhị Phân, sách được trình bầy chặt chẽ, giải thích hầ hết các lí thuyết nền tảng xây dựng nên Kinh Dịch, âm dương, can chi…. Mọi thứ được tác giả trình bầy trong 9 chương chính Nội dung cuốn sách Chương Mở Đầu. Nguyên lý về toán nhị phân trong dự báo theo Dịch cổ * Thuật ngữ cổ * Con người và số mệnh CHƯƠNG I Những nguyên lý dự báo cổ 1- Nguyên lý Phân cực Âm Dương 2- Nguyên lý Ngũ Hành 3- Quỹ đạo vận động theo số 8 4- Nguyên lý cân bằng động của vũ trụ 5- Hoạt hóa 8 Tượng số Nhị Phân và 9 số Lạc Thư 6- Quy luật xuất hiện các vòng số Nhị Phân 7- Hệ đo lường thời gian cổ 8- Điểm khởi đầu của hệ thời gian Can Chi 9- Quỹ đạo thăng giáng của 9 số Lạc Thư – thước đo Trời ” Lường Thiên Xích “ 10- Luật biến hóa của các số Nhị Phân 11- Biến hóa Âm Dương trong bản thân tượng số 12- Hệ tiên đề về vũ trụ và Nhân sinh của 8 tượng số CHƯƠNG II Các phương Pháp của Lịch toán cổ

1- Khoa thiên văn Lịch toán cổ Á Đông 2- Các loại lịch 3- Năm,tháng,ngày,giờ 4- Các phương án cải cách Lịch CHƯƠNG III Lịch Toán Và Văn Minh Cổ Đại

1- Lịch và các nền văn minh cổ 2- Lịch Văn Lang cổ – đi tìm nền văn minh đã mất * Vết tích lịch rùa và chữ Khoa Đẩu * Cuộc di dân vĩ đại về phía Nam * Hà Đồ – Lạc Thư – cơ sở của Lịch Rùa Việt Thường * Xuất xứ của hệ Can Chi và nguồn gốc 12 con vật của Địa Chi CHƯƠNG IV Những Hiểu Biết Về Vũ Trụ Hiện Đại

1- Bản chất của vũ trụ 2- Lịch sử ngắn gọn của Vũ Trụ 3- Vật chất không nhìn thấy 4- Bức xạ hóa thạch 5- Thiên Hà của chúng ta 6- Hệ Mặt Trời 7- Tương lai vũ trụ sau Big Bang 8- Sự sống và con người có trí tuệ CHƯƠNG V Những Điểm Thống Nhất Giữa Triết Học Cổ Và Khoa Thiên Văn Hiện Đại CHƯƠNG VI Lịch Toán Theo Hệ Can Chi 1- Nhắc lại hệ thống Can Chi 2- Hệ qua theo số của Hà Đồ 3- Hoạt hóa hệ Can Chi 4- Nạp âm vòng Giáp Tý 5- Suy vượng của Ngũ Hành 6- Tính thời gian theo hệ Can Chi CHƯƠNG VII Phép Tính Vận Khí Theo Cửu Tinh 1- Quan niệm về Khí của Cổ Nhân 2- Nguyên lý cơ bản của phá Cửu Tinh 3- Hoạt hóa Cửu Tinh 4- Quỹ đạo vận hành của Cửu Vận 5- Các cặp số Âm Đương của Tinh Bàn 6- Bản chất Trường Khí theo Cửu Tinh 7- Ứng dụng Cửu Tinh vào Lịch Tam Nguyên – Cửu Vận CHƯƠNG VIII Dự Báo Theo Vận Khí Cửu Tinh 1- Tình xung hợp trong không gian và thời gian 2- Tính âm dương của các Trường Khí 3- Đại vận đương đại và các tiểu vận 4- Niên văn theo Cửu Tinh 5- Ảnh hưởng của Tiểu Vận đến Niên Vận 6- Thiên khí và Địa khí CHƯƠNG IX Vận Số Nhân Văn

1- Chín loại bản mệnh Cửu Tinh nam nữ 2- Năm loại mệnh số nhân văn 3- Tỷ lệ các loại mệnh số 4- Thử so sánh quan niệm Âm Dương cổ với hai quá trình Hưng Phấn và Ức Chế thần kinh hiện đại 5- Bản mệnh và thời vận 6- Bản mệnh Bát Trạch phong thủy Lời kết lý thuyết Tam Nguyên – Cửu Vận

PHẦN LỊCH TAM NGUYÊN Lịch Tam Nguyên thứ 28 – ( 1864 – 2043 ) Ba Nguyên Chín Vận của Tam Nguyên thứ 28 Sáu Giáp của vòng Giáp Tý của Tam Nguyên thứ 28 Chín tiểu vận của Tam Nguyên thứ 28 Thượng Nguyên – Đại Vận thứ 82 * Tiểu Vận 1 ( 1864 – 1883 ) * Tiểu Vận 2 ( 1884 – 1903 ) * Tiểu Vận 3 ( 1904 – 1923 ) Trung Nguyên – Đại Vận thứ 83 * Tiểu Vận 4 ( 1924 – 1943 ) * Tiểu Vận 5 ( 1944 – 1963 ) * Tiểu Vận 6 ( 1964 – 1983 ) Hạ Nguyên – Đại Vận thứ 84 * Tiểu Vận 7 ( 1984 – 2003 ) * Tiểu Vận 8 ( 2004 – 2023 ) * Tiểu Vận 9 ( 2024 – 2043 ) Lời kết Lịch Tam Nguyên Tra cứu các bảng thống kê Tra cứu các hình vẽ và ảnh tư liệu.

Nguồn: sachhaymienphi.com

Đọc Sách

THÁI ẤT DỊ GIẢN LỤC (THẦN CƠ DỊ SỐ) - LÊ QUÝ ĐÔN
Sách Thái Ất, tương truyền do Thái Công đời Chu và Lưu Hầu đời Hán làm ra.Sách Thái Ất, tương truyền do Thái Công đời Chu và Lưu Hầu đời Hán Xem Thái Ất có 4 phép xem. Xem Thái Ất có 4 phép xem. Một là Tuế Kế: để xem sự lành hay dữ của quốc gia. Đó là việc của vua và hoàng hậu làm, để sáng chính hóa, sửa đức giáo, xét cơ động, tĩnh. Một là Tuế Kế: để xem sự Hai là Nguyệt Kế: dể xem lành hay dữ. Đó là bậc công khanh xem, để xét hiện được hay mất mà điều hòa sự hòa hay trị.Ba là Nhật Kế: để đo lường họa phúc trong nhân gian sử dụng cho mọi người, để xét lớn hay nhỏ, hưng hay suy; để cư xử ăn ở đúng với Tam Cương, đủ với ngũ luânBa là Nhật Kế: để đo lường họa phúc trong nhân gian sử Bốn là Thời Kế: để vận trù mưu kế, sách lược; xác định về chủ, khách, tháng, thua; Đó là bác tướng soái phải rò; Phàm thiên văn đổi khác, các nước xung quanh động hay.tĩnh; thế trận hai bên phải có tương đương hay không, xã hội bình thường hay có giặc cướp, đều dùng Thời Kế mà xem.Lê Quý Đôn
Đọc hiểu Kinh Dịch - Thích Nghiêm Minh
Đọc Hiểu Kinh Dịch là cuốn sách đầu tiên sử dụng gần 600 đồ hình minh họa giúp bạn đọc nắm bắt được vấn đề cơ bản của dịch lý từ ý nghĩa của dịch, phần kinh, diễn biến của 64 quẻ cho tới phần dụng chiếm bốc dịch… Cuốn sách gồm 6 chương: Cuốn sách gồm 6 chương:Chương 1: Dịch Kinh là một cuốn sách thế nào? Chương 1: Dịch Kinh là một cuốn sách thế nào?Chương 2: Khái luận cơ bản về “dịch kinh” Chương 2: Khái luận cơ bản về “dịch kinh”Chương 3: Phương pháp chiêm bốc trong “dịch kinh” Chương 3: Phương pháp chiêm bốc trong “dịch kinh”Chương 4: Đồ giải 64 quẻ trong “Dịch Kinh” Chương 4: Đồ giải 64 quẻ trong “Dịch Kinh”Chương 5: “Hệ từ” truyện Chương 5: “Hệ từ” truyệnChương 6: Thuyết quái truyện Chương 6: Thuyết quái truyện“Kinh Dịch” là bộ sách kinh điển rất lâu đời của người Trung Hoa mà đến nay người ta vẫn chưa biết rõ nguồn gốc, tuy đã có truyền thuyết là nó có nguồn từ các dân tộc Bách Việt vào thời các vị vua thời Thần Nông. Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi. Ban đầu, “Dịch kinh” được coi là một hệ thống để bói toán, nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Cho tới nay, “Dịch kinh” đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á Đông và được coi là một tinh hoa của cổ học Trung Hoa, nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh… Kinh có nghĩa là một tác phẩm kinh điển, trong tiếng Hoa có gốc gác từ “quy tắc” hay “bền vững”, hàm ý rằng tác phẩm này miêu tả những quy luật của tạo hóa không thay đổi theo thời gian.Dịch nghĩa là “thay đổi” hay “chuyển động”.Khái niệm ẩn chứa sau tiêu đề này là rất sâu sắc. Nó có ba ý nghĩa cơ bản có quan hệ tương hỗ như sau:Giản dịch: Thực chất của mọi thực thể. Quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ là hoàn toàn rõ ràng và đơn giản, không cần biết là biểu hiện của nó là khó hiểu hay phức tạp.Biến dịch: Hành vi của mọi thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Nhận thức được điều này con người có thể hiểu được tầm quan trọng của sự mềm dẻo trong cuộc sống và có thể trau dồi những giá trị đích thực để có thể xử sự trong những tình huống khác nhau.Bất dịch: Bản chất của thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là luôn thay đổi, tuy nhiên trong những thay đổi đó luôn luôn tồn tại nguyên lý bền vững quy luật trung tâm là không đổi theo không gian và thời gian.“Dịch kinh” được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hy. Theo nghĩa này thì ông là một nhà văn hóa, một trong Tam Hoàng của Trung Hoa thời thượng cổ (khoảng 2852 2738 TCN, theo huyền thoại), được cho người sáng tạo ra Bát quái là tổ hợp của ba hào. Dưới triều vua Vũ nhà Hạ, Bát quái đã phát triển thành quẻ, có tất cả sáu mươi tư quẻ, được ghi chép lại trong kinh Liên sơn còn gọi là Liên sơn Dịch. Liên sơn, có nghĩa là “các dãy núi liên tiếp” trong tiếng Trung, bắt đầu bằng quẻ Thuần Cấn, với nội quái và ngoại quái đều là Cấn (tức hai ngọn núi liên tiếp nhau) hay làTiên thiên Bát quái.Sau khi nhà Hạ bị thay thế bởi nhà Thương, các quẻ sáu hào được suy diễn ra để tạo thành Quy tàng (còn gọi là Quy tàng dịch), và quẻ Thuần Khôn trở thành quẻ đầu tiên. Trong Quy tàng, đất (Khôn) được coi như là quẻ đầu tiên. Vào thời kỳ cuối của nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu diễn giải quẻ (gọi là Thoán hay Soán) và khám phá ra là quẻ Thuần Càn biểu lộ sự ra đời của nhà Chu. Sau đó ông miêu tả lại các quẻ theo bản chất tự nhiên của chúng trong Quái từ và quẻ Thuần Càn trở thành quẻ đầu tiên. Hậu thiên Bát quái ra đời.Khi vua Chu Vũ Vương (con vua Văn Vương) tiêu diệt nhà Thương, em ông là Chu Công Đán đã tạo ra Hào từ, để giải thích dễ hiểu hơn ý nghĩa của mỗi hào trong mỗi quẻ. Tính triết học của nó ảnh hưởng mạnh đến chính quyền và văn học thời nhà Chu (khoảng 1122-256 TCN).Muộn hơn, trong thời kỳ Xuân thu Chiến quốc (khoảng 722481 TCN), Khổng Tử đã viết Thập Dực, để chú giải Kinh Dịch. Vào thời Hán Vũ Đế của nhà Tây Hán (khoảng 200 TCN), Thập Dực được gọi là Dịch truyện.Cuốn sách Đọc hiểu Dịch kinh là cuốn sách đầu tiên sử dụng gần 600 đồ hình minh họa giúp bạn đọc nắm bắt được các vấn đề cơ bản của dịch lý từ ý nghĩa của dịch, phần kinh, diễn biến của 64 quẻ cho tới phần dụng chiêm bốc dich…Trong quá trình soạn dịch khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong bạn đọc gần xa chỉ bảo để cuốn sách tái bản lần sau được hoàn thiện hơn.NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI
BÁT TỰ HÀ LẠC (LƯỢC KHẢO) - HỌC NĂNG
Bát tự Hà Lạc (có sách ghi là Tám chữ Hà Lạc) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý của Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành,... bằng cách lập quẻ Tiên thiên với hào nguyên đường và quẻ Hậu thiên; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. Bát tự Hà Lạc (có sách ghi là Tám chữ Hà Lạc) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý của Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành,... bằng cách lập quẻ Tiên thiên với hào nguyên đường và quẻ Hậu thiên; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. LỜI NÓI ĐẦUMột ông bạn già bảo Soạn giả: “Suốt đời anh chỉ lấy số giúp cho người, Tài Tử thế. Nếu không thích hành nghề, thì sao chẳng viết sách đi? Môn Bát Tự Hà Lạc của anh có cỡ lắm rồi đấy!”.Chỗ thân nên mới trả lời văng mạng rằng: “Cớ gì! mắc cỡ thì có. Nào đã biết gì đâu mà viết với lách. Học số tuy gần 40 năm thật, nhưng lẽ quyển Kinh Dịch chưa sờn, chứ đừng có nói là đã hân hạnh dứt lấy một lần, thì phỏng viết sách ra có ích gì, hay chỉ làm thiệt lấy đôi ba ram giấy và ít ký mực của học sinh nghèo”.Ông bạn nghe xong mỉm cười rồi lại nghiêm nét mặt mà nói: “Chà! mặc cảm vừa vừa thôi chứ. Tuổi anh nay mai sắp sang tuần “Thất - Thập cổ lai hi rồi”, liệu ít nữa, xuống lòng đất mẹ có mang được tí sở học đi không? Mà nếu thiên hạ ai cũng nghĩ (Tếu) như anh cả, thì rồi môn BÁT - TỰ HÀ - LẠC đến mất giống ư?Tuy câu chuyện đối đáp tầm phào như trên, mà rồi cũng làm cho đầu óc phải suy nghĩ. Soạn giả tự nhủ: “Ừ, anh bạn nói cũng có lý. Như người học Phật có ứng khẩu được KỆ mới là hiểu KINH. Học sách Thánh Hiền mà không làm được bài vở gì thì sao gọi là triết học. Suốt đời chưa trình làng được một chữ nghĩa nào về LÝ - SỐ, thì rồi đây, khi sang thế giới bên kia lỡ gặp các Cụ: Chu Công, Khổng Tử, Trần Đoàn, Thiệu Khang Tiết v.v... liệu các Cụ có để yên cho hay không, hay Khai trừ thẳng cánh”. Nghĩ vậy mà thấy rờn rợn góc gáy, nên rấp tâm phải viết một cái gì về LÝ SỐ, mặc dù vẫn viết rằng: Viết ra thì cũng tội, mà không viết ra cũng tội.Nhưng viết gì đây?Tử Vi, KINH DỊCH, MAI HOA, KỲ MÔN,GIÁP ĐỘN v.v... đều đã đủ mặt ở thị trường sách vở từ trong Thư Cục, Ấn Quán cho ra đến vỉa hè. Nhìn kỹ thì thấy thiếu BÁT TỰ và HÀ LẠC LÝ SỐ là 2 môn thịnh hành nhất ở các phố Hoa Kiều.Gần đây, tình cờ gặp một thầy Tướng Số, người Hoa Kiều là chỗ quen nên ông ta hỏi: “Học giả Việt Nam các ông chỉ có lấy Tử Vi thôi, không ai biết lấy BÁT TỰ và HÀ LẠC à?”.Chẳng lẽ soạn giả lại vô lễ nổi xung lên, nhưng liền nhớ ngay câu chuyện đối thoại xưa giữa YẾT KIÊU đục thuyền và giặc Nguyên, nên cũng bắt chước lối hiên ngang mà trả lời rằng: “Học giả Việt chúng tôi, trừ hạng tôi ra, lấy đấu mà đong không hết, còn ai cũng uyên thâm đủ các môn NHÂM, CẦM, ĐỘN, TOÁN cả, con cháu Trạng Trình mà không tinh thông sao được. Ông đã đọc Sử nước tôi chưa? Sở dĩ chúng tôi chỉ lấy Tử Vi thôi, là vì khoa ấy dễ phổ biến hơn hết”.Ông thầy Tàu ngồi im. Lời của ông tuy không có gì là kỵ thị Văn Hóa, nhưng vô tình đã lùa ngọn roi châm chọc vào bên cạnh sườn Học Vấn gầy còm của Soạn giả, khiến hắn này phải có một quyết định như câu Dịch, hào 3 quẻ quải: “Quyết quyết độc hành”.Thôi, đúng cũng là số đến ngày phải cầm bút rồi, mặc dầu đây không phải là “Bút Mộng Hoa” của Thi Hào Lý Bạch chi cả mà chỉ là bút rỉ mực cợn, đi đôi với bộ mắt đã mờ, gân tay đã mỏi, nhưng cũng cứ cố gắng và mạo muội vạch ra cuốn BÁT TỰ - HÀ LẠC này.
KINH DỊCH NGUYÊN THỦY - LÊ CHÍ THIỆP
Đại-khái chúng tôi đề-cập  đ ến nguồn-gốc của kinh Dịch, hay nói đúng hơn, của bản kinh Dịch nguyên-thủy, gồm 64 quẻ mà thôi, chưa có lời văn của các thánh Văn-Vương, Châu-Ông và Khổng-Tử. Chúng tôi thử chứng-minh rằng   bản kinh Dịch đó phát-xuất từ xứ Việt-thường. Nhận-xét của chúng tôi có hợp-lý chăng? ấy là do sự phán-đoán của độc-giả, sau khi đã đọc kỹ quyển sách. Đại-khái chúng tôi đề-cập đến nguồn-gốc của kinh Dịch, hay nói đúng hơn, của bản kinh Dịch nguyên-thủy, gồm 64 quẻ mà thôi, chưa có lời văn của các thánh Văn-Vương, Châu-Ông và Khổng-Tử. Chúng tôi thử chứng-minh rằng Nhận-xét của chúng tôi có hợp-lý chăng? ấy là do sự phán-đoán của độc-giả, sau khi đã đọc kỹ quyển sách. Riêng chúng tôi thì đây là kết-thúc một vấn-đề mà chúng tôi đã để tâm tra-cứu từ lâu, có trên ba mươi năm. Sau khi đắn-đo, phối-kiểm những sử-liệu một cách khách-quan, chúng tôi nhận thấy không còn giải-đáp nào khác cho bài toán lịch-sử "nguồn-gốc kinh Dịch". Riêng chúng tôi thì đây là kết-thúc một vấn-đề mà chúng tôi đã để tâm tra-cứu từ lâu, có trên ba mươi năm. Sau khi đắn-đo, phối-kiểm những sử-liệu một cách khách-quan, chúng tôi nhận thấy không còn giải-đáp nào khác cho bài toán lịch-sử "nguồn-gốc kinh Dịch". Riêng chúng tôi thì đây là kết-thúc một vấn-đề mà chúng tôi đã để tâm tra-cứu từ lâu, có trên ba mươi năm. Sau khi đắn-đo, phối-kiểm những sử-liệu một cách khách-quan, chúng tôi nhận thấy không còn giải-đáp nào khác cho bài toán lịch-sử "nguồn-gốc kinh Dịch".