Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bạn Đỡ Ngu Ngơ Rồi Đấy

BẠN VẪN TƯỞNG: Bạn là một sinh vật của logic và lý trí. SỰ THẬT LÀ: Bạn là một sinh vật có lý trí và khả năng tư duy logic, nhưng lại thường xuyên thất bại trong việc sử dụng chúng theo những cách vô cùng dễ đoán. Đ ây là cuốn sách về sự tự ảo tưởng và cũng đồng thời là khúc ca khen ngợi nó. Bạn thấy đó, giống như ngón tay hay ngón chân vậy, và đó cũng chính là điều mà chúng ta sẽ khám phá tại đây. Sự tự ảo tưởng nhé, không phải là các loại ngón đâu. Bạn thường tự cho rằng mình thông minh, giỏi giang, là con người lý trí và đầy ắp những ý tưởng huy hoàng, với tổ tiên là những người đã sáng chế ra môn đại số và bánh quy gừng. Bạn được sinh ra với niềm kiêu hãnh có sẵn, và rồi, niềm kiêu hãnh ấy lớn dần lên thành sự tự cao tự đại. Nó là một điểm yếu, tồn tại dưới muôn hình vạn trạng ở loài người, mà đây là tôi đang giả định rằng bạn là con người. Nếu bạn là một chú chó siêu thông minh, sinh vật ngoài hành tinh hay một nhà sử học robot tới từ tương lai, thì tôi xin lỗi; mời bạn vui lòng nhảy thẳng sang Chương Một. Còn nếu không phải, hãy đọc tiếp để tiến tới sự giác ngộ nhé. Trí óc con người rõ ràng là lớn và mạnh mẽ hơn nhiều so với trí óc của bất kỳ loài vật nào khác, đó là điều mà toàn bộ giống loài của chúng ta đã nhận ra trong suốt chiều dài lịch sử. Chính bạn có lẽ cũng từng nghĩ tới điều này khi tới thăm sở thú hoặc khi chứng kiến một con chó tự đánh nhau với chân sau. Loài người dường như là đỉnh cao tuyệt đối của sự tiến hóa, hay trái ngon cuối cùng trong sự vận động của vũ trụ. Đây thực sự là một ý tưởng khá thú vị. Ngay từ khi chúng ta còn chưa có giày trượt patin và Salvador Dalí1, thì nhiều nhà tư tưởng vĩ đại đã đắm mình trong niềm tin đó rồi. Và đương nhiên là, ngay khi vừa mới chuẩn bị tận hưởng suy nghĩ ấy, bạn lại vô tình gửi cho sếp một email đáng ra phải gửi tới bác sĩ hậu môn hoặc đọc được tin về việc pizza nhồi xúc xích đã trở thành món ăn thịnh hành nhất hiện nay. Có một thực tế là cứ mỗi khi bạn chiêm nghiệm về loài người và bắt đầu cảm thấy tự hào, thì ngay sau đó, bạn sẽ phải đối mặt với hàng loạt những điều ngớ ngẩn có khả năng lập tức đập tan hoàn toàn cảm giác kiêu hãnh bạn vừa có. Sự thật là bộ não con người tạo ra một trí óc đầy thiếu sót. Có những việc bạn làm chẳng giỏi và sẽ chẳng bao giờ thành thạo được. Bằng chứng cho sự vụng về của bạn hiện hữu ở mọi nơi. Máy tính, giấy nhớ, danh sách việc cần làm, sổ ký quỹ, đồng hồ báo thức - có hàng trăm nghìn sáng chế và ứng dụng được tạo ra cùng hàng loạt các ngành nghiên cứu tồn tại để bù đắp cho những khiếm khuyết của não bộ. Cuộc bàn luận của chúng ta về những nghiên cứu khoa học với chủ đề tự ảo tưởng có lẽ nên được dẫn dắt bởi khái niệm về định kiến. Vậy hãy cùng bắt đầu bằng câu chuyện ngắn kể lại lần đối đầu thứ ba mươi mốt giữa Đại học Dartmouth và Đại học Princeton trên sân bóng bầu dục nhé. Trận đấu này đã là bệ phóng cho vô vàn cuộc thám hiểm trí óc con người, và bạn sẽ được tham khảo một số nghiên cứu ngay khi đoạn văn này kết thúc. Cùng được thành lập vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, Dartmouth và Princeton là hai trường thuộc Ivy League - tập hợp những trường đại học danh giá ở miền Đông Bắc Mỹ. Có lẽ bạn cũng đã nghe danh sáu ngôi trường còn lại rồi: Brown, Columbia, Cornell, Harvard và Yale. Đối với phần lớn người dân Mỹ thì Ivy League gần như đồng nghĩa với những con người “xịn sò”. Tên của những ngôi trường này luôn là thứ mà người ta mong muốn được viết vào sơ yếu lý lịch. Tuy vậy, Ivy League lại khởi nguồn từ thuật ngữ các phóng viên thể thao sử dụng để miêu tả tám ngôi trường ở khu vực New England vốn hay đối đầu nhau, chủ yếu là trong các môn thể thao, và hầu như trong tất cả các lĩnh vực khác. Vào năm 1951, Dartmouth và Princeton chạm trán trong trận bóng cuối cùng của mùa giải đối với cả hai trường. Princeton đã toàn thắng trong tất cả các trận tính tới thời điểm đó. Ngôi sao của đội, Dick Kazmaier, đã được đăng hình lên trang bìa của tạp chí Time và sau này trở thành cầu thủ cuối cùng từ Ivy League được nhận cúp Heisman. Đây là trận đấu quan trọng đối với cả hai đội, và đó là lý do mà Princeton gần như đã phát điên trong hiệp hai, sau khi một cầu thủ Dartmouth làm vỡ mũi Kazmaier. Trong hiệp bóng tiếp theo, một cầu thủ Princeton đã đạp gãy chân đối thủ từ Dartmouth. Trận đấu trở nên vô cùng khốc liệt, cả hai đội đã liên tục phạm lỗi cho tới khi Princeton chiến thắng với tỷ số chung cuộc 13-0. Hai nhà tâm lý học Albert Hastorf tại Dartmouth và Hadley Cantril tại Princeton sớm nhận ra một điều khác thường: Sau trận đấu, những bài tường thuật được in trên hai tờ báo trường dường như viết về hai phiên bản khác nhau của sự thật và chúng cạnh tranh với nhau để trở thành phiên bản chính thức. Một năm sau đó, hai nhà tâm lý học đã công bố một nghiên cứu mà hiện giờ được nhiều người coi là xuất phát điểm tuyệt vời để bàn về sự tự ảo tưởng. Hastorf và Cantril nhận ra rằng cách tờ báo trường và bản tin dành cho cựu sinh viên trường Princeton tường thuật lại trận đấu khiến Dartmouth trông như một đội bóng gồm toàn những kẻ đầu gấu chuyên chơi bẩn. Cùng lúc đó thì tờ báo trường Dartmouth lại có những bài viết vừa biện hộ cho những chấn thương của đối thủ do đội bóng trường mình gây ra, vừa đưa ra những bình phẩm về sự tệ hại trong chiến thuật của Princeton. Theo lời của các nhà nghiên cứu thì hai bên đã nhớ về hai phiên bản khác nhau của trận đấu. “Vậy điều gì sẽ xảy ra khi sinh viên từ hai trường được xem lại trận bóng?” Hai nhà nghiên cứu đặt câu hỏi. “Rõ ràng ký ức của họ là khác nhau, nhưng nếu ta phát lại trận đấu cho họ xem thì sao? Liệu cách nhìn của họ có khác nhau kể cả trong thời gian thực?” Để trả lời điều này, các nhà khoa học đã lấy một cuộn băng ghi hình toàn bộ trận đấu, chiếu cho sinh viên của cả hai trường, và yêu cầu những sinh viên này đánh dấu những thời điểm họ phát hiện ra cầu thủ phạm lỗi kèm theo độ nghiêm trọng của lỗi đó. Ngoài ra, các sinh viên cũng phải trả lời một bảng câu hỏi nữa. Vậy kết quả thế nào? Trong buổi xem lại, sinh viên trường Princeton tin rằng trận đấu mà họ đang xem đã diễn ra một cách thô bạo và kém văn minh, nguyên nhân chính, tất nhiên, là do đội Dartmouth. 90% sinh viên Princeton đã nhận định rằng Dartmouth là bên khơi mào cho những hành động phi thể thao. Họ cũng đánh dấu số vụ phạm lỗi của Dartmouth nhiều gấp đôi số lỗi từ các cầu thủ Princeton, đồng thời cho rằng lỗi do đội bóng trường mình gây ra nhẹ hơn nhiều so với lỗi của đối thủ. Thế nhưng, sinh viên của trường Dartmouth lại thấy những điều hoàn toàn khác. Họ không cho rằng trận đấu đã diễn ra một cách thô bạo quá mức, mà lại là “kịch tính và công bằng”. Đa số các đối tượng nghiên cứu từ Dartmouth nhận định cả hai đội bóng đều có lối chơi rắn, và sinh viên Princeton chỉ đơn giản là đang giận dữ vì ngôi sao bên đội họ bị chấn thương. Họ đã đánh dấu số lần phạm lỗi gần như đều nhau cho cả hai đội, và nhìn chung là tự chấm cho đội mình ít lỗi hơn khoảng một nửa so với con số do các sinh viên Princeton đưa ra. Các nhà khoa học giải thích hiện tượng này là do, mặc dù xem cùng một cuộn phim, nhưng mỗi người lại thấy một trận đấu khác nhau. Chúng ta mang theo mình những phiên bản khác nhau của thực tế, của sự thật, và đều bị ảnh hưởng bởi lòng trung thành. Bài học lớn từ trận đấu giữa Princeton và Dartmouth chính là: Chỉ cần một khác biệt nhỏ của các biến số là có thể thay đổi toàn bộ cục diện. Những sinh viên đã xem trận đấu, không quan trọng là họ có tới sân vận động hôm thi đấu thật hay không, đã trải nghiệm hai phiên bản khác nhau của thực tế, mặc dù về mặt lý thuyết, thì họ là những người gần như giống nhau: Những sinh viên tại trường nam sinh trong nhóm Ivy League giữa những năm 1950, về cơ bản, họ thuộc chung nhóm sắc tộc và có cùng địa vị xã hội. Vì là sinh viên, họ thuộc chung một nhóm tuổi. Đều là các công dân ở miền Đông Bắc Mỹ, họ có nhiều điểm chung trong các quan điểm văn hóa và tôn giáo. Điều khác biệt duy nhất là ngôi trường họ chọn để theo học. Kết quả nghiên cứu cho thấy nếu bạn có thể vặn ngược đồng hồ và đổi chỗ cho các sinh viên đó, thay đổi ngôi trường họ học, thì trải nghiệm về trận đấu của họ cũng sẽ thay đổi theo. Đây là lúc mà định kiến dẫn dắt bạn tới với chủ nghĩa hiện thực ngây thơ (naive realism) - một khái niệm rất cũ trong triết học vốn đã bị khoa học đập chết ăn thịt từ lâu. Câu hỏi đặt ra như sau: Liệu tôi có thấy thế giới như thực tế nó vốn vậy? Dựa theo chủ nghĩa hiện thực ngây thơ thì câu trả lời là có. Nếu nhìn vào lịch sử loài người thì mãi cho tới khá gần đây, lý thuyết bạn-thấy-sao-thì-thực-tế-là-vậy này vẫn được khá nhiều người bảo vệ. Thế nên, nếu ví dụ về trận đấu Princeton-Dartmouth chưa đủ sức thuyết phục bạn, thì tôi sẽ phải đập tan lý thuyết này trước khi tiếp tục chủ đề của chúng ta. Là một con người hiện đại, hẳn bạn cũng biết các bộ phim thực chất chỉ là những bức ảnh tĩnh thay đổi nhanh hơn so với tốc độ xử lý của não mà thôi. Khi nhìn một bông hoa, bạn nên hiểu rằng thứ bạn đang thấy đây không giống thứ mà một con bướm nhìn thấy. Nếu ta được nhìn qua đôi mắt của côn trùng, thì thế giới các loài hoa sẽ trở thành một vụ nổ điên rồ của các ảo giác. Căn phòng khách tắt đèn tối om vốn khiến bạn không thể đi lại được vào ban đêm lại là sân chơi bình thường với chú mèo cưng. Và nếu đã từng chiếu một chiếc đèn laser gần lũ mèo, thì hẳn bạn cũng nhận ra những gì diễn ra trong cái đầu nhỏ bé của chúng không giống với những điều diễn ra trong bộ óc của bạn. Bạn biết thế giới không hoàn toàn giống với những gì bạn thấy, và chỉ cần một trò lừa thị giác điêu luyện là có thể ngay lập tức chứng minh điều đó. Chủ nghĩa hiện thực ngây thơ vốn rất... ngây thơ. Như việc các ngôi sao lúc nào chẳng hiện diện trên bầu trời, nhưng ánh sáng mạnh từ Mặt Trời tràn qua bầu khí quyển khiến chúng bị lu mờ vào ban ngày. Giả như bạn ném một hòn đá xuống mặt hồ, tiếng động sẽ làm cho con cóc và con cáo phải ngoái đầu nhìn, nhưng những gì chúng thấy không phải những gì bạn nhìn được. Mỗi sinh vật sẽ được trải nghiệm một phiên bản độc đáo của thực tế dành riêng cho hệ thần kinh của nó. Con cóc, con cáo và con người đều cùng trải nghiệm một thứ có thật, nhưng phản ứng thì lại khác nhau bởi hình ảnh hiện tượng ấy trong tâm trí mỗi loài đã được thay đổi. Sự nhận thức của bạn không phải là duy nhất, và nguồn thông tin đầu vào hoàn toàn có thể bị làm cho sai lệch, bởi vậy, hình ảnh trong đầu bạn không phải thứ đáng tin. Đó là một khái niệm khá đơn giản, và có lẽ bạn cũng đã từng suy ngẫm về nó. Nhưng như nghiên cứu về trận bóng ở trên đã chỉ ra, chủ nghĩa hiện thực ngây thơ còn tồn tại ở một mức độ khác khó chấp nhận hơn nhiều. Giống như hầu hết mọi người, bạn thường không đặt câu hỏi về nó, và nó cứ thế tồn tại trong hầu hết tất cả những cái đầu trên địa cầu này. Nhìn quanh một chút rồi đọc tiếp nhé. Những thứ bạn vừa thấy trong tâm trí mình không được tạo ra bởi các vật thể ngoài đời thực. Chúng không phải là kết quả đơn thuần của ánh sáng được thu vào mắt. Tất cả những gì bạn thấy, nhớ lại và cảm nhận, 100% đều được tạo ra bởi những phản ứng hoá học trong hộp sọ, nghĩa là chúng có thể bị ý thức ảnh hưởng, sửa đổi, lược bỏ, hay biến tấu theo bất kỳ cách nào trong quá trình xây dựng lại thực tế từ các thông tin thu nhận được từ bên ngoài và có sẵn bên trong. Theo lời của nhà tâm lý học Daniel Gilbert, thì ký ức, nhận thức và trí tưởng tượng đều chỉ là những biểu trưng chứ không phải là bản sao của thực tế. Ký ức kém chính xác nhất khi được ngẫm nghĩ nhiều, và ít chính xác nhất khi bị động vào. Hai sự thật này khiến lời khai nhân chứng trở thành thứ, về cơ bản, là vô nghĩa. Thế nhưng đó không phải điều nhiều người có thể chấp nhận. Hai nhà tâm lý học Dan Simons và Christopher Chabris đã công bố một nghiên cứu vào năm 2011 cho thấy 63% những người được hỏi tại Mỹ tin rằng ký ức hoạt động như một cuộn phim, và 48% cho rằng ký ức là vĩnh cửu. Khoảng 37% cho rằng lời khai nhân chứng đủ để làm bằng chứng cần thiết duy nhất cho việc kết tội. Những phát hiện đó đã khiến các nhà tâm lý học và thần kinh học bàng hoàng, bởi vì không điều nào đúng cả. Bạn không có khả năng ghi nhận mọi thứ bạn thấy, thậm chí bạn còn không có khả năng nhận thức được hết tất cả các thông tin đi vào não bộ. Chỉ những thứ bạn chú ý mới được thu nhận qua tai và mắt. Ký ức cũng không phải là cuộn phim. Khoảnh khắc mà nụ hôn đầu đời của bạn kết thúc, ký ức về nó bắt đầu nhạt phai. Mỗi lần bạn nhớ về sự kiện đó, nó sẽ được tái tạo trong trí óc theo những cách khác nhau, chịu ảnh hưởng bởi tình trạng hiện tại và tất cả những trải nghiệm khác mà bạn đã nhận được kể từ thời điểm đó, cộng với những chi tiết sai lầm bạn có thể thêm thắt vào. Ngày nay, ngành tâm lý học đã biết được rằng bạn thường xuyên đưa ra những dự đoán và quyết định dựa trên những hình mẫu tâm lý và ký ức có sẵn. Hơn nữa, bạn còn tự cho rằng những hình mẫu và ký ức đó là chính xác. Cứ mỗi một nghiên cứu mới ra đời, sự thật lại càng rõ ràng: Hình mẫu tâm lý và ký ức của bạn có lỗ hổng, không hoàn hảo và dễ bị xuyên tạc. Từ đó có thể suy ra, những dự báo và quyết định của bạn cũng đầy sai lầm. Bạn luôn đánh giá quá thấp khả năng tự đánh lừa bản thân của mình, và nhận thức của bạn có thể bị thay đổi hoàn toàn bởi những nhân tố nội tại. Cuốn sách này sẽ cho bạn thấy mình không những không hề thu nhận và xử lý thông tin về thực tại một cách thụ động, mà còn chủ động tham gia vào việc tạo nên vũ trụ của riêng mình. Những nghiên cứu trong một thế kỉ gần đây đã cho thấy bạn và tất cả mọi người vẫn tin vào một dạng của chủ nghĩa hiện thực ngây thơ. Bạn vẫn nghĩ rằng mặc dù các thông tin mà bạn tiếp nhận có thể không hoàn hảo, nhưng những suy nghĩ và cảm nhận cá nhân của bạn thì đáng tin cậy và dễ đoán. Chúng ta đã biết: Bạn không bao giờ cảm nhận được một thực tế “khách quan”, và bạn cũng sẽ không bao giờ biết được bao nhiêu phần trong thực tế chủ quan của mình là giả, đơn giản bởi vì bạn không có bất kỳ trải nghiệm nào khác ngoài những sản phẩm do trí óc của chính mình tạo ra. Mọi chuyện từng xảy ra với bạn đều diễn ra bên trong hộp sọ. Ngay cả cảm giác về cánh tay cũng được tạo ra bởi bộ não. Bạn có thể cảm thấy và nhìn thấy tay mình đang ở trước mặt, nhưng đó có thể cũng chỉ là ảo giác. Cánh tay, thực chất, nằm trong đầu bạn. Mỗi bộ não tạo ra phiên bản về thực tế riêng của mình, về cơ bản là giống nhau, nhưng cũng vô cùng khác biệt và có không ít những chi tiết sai sót. Trong bài nghiên cứu của mình, Hastorf và Cantril còn nói rằng nếu đi sâu phân tích hơn nữa, thì trận đấu đó thậm chí còn không tồn tại. Giống như đĩa salad, về bản chất, chỉ là một đống rau củ hổ lốn được cắt nhỏ, trận đấu nói trên cũng chỉ là một chuỗi các sự kiện diễn ra trong khoảng thời gian giữa hai lần bấm của một chiếc đồng hồ đếm ngược. Dĩ nhiên là các vận động viên đã thực hiện hàng loạt hành động, và khán giả thì nhận biết được một vài trong số những điều đang xảy ra, nhưng nói cho cùng, trận đấu cũng chỉ là một ý tưởng, một khái niệm xã hội mà thôi. Trong hàng tỷ những sự kiện đã xảy ra ngày hôm đó, Cổ động viên của hai đội đã đặt nặng ý nghĩa của một nhóm sự kiện xảy ra tại một địa điểm và gọi tên là trận đấu bóng. Ý nghĩa được định hình bởi xã hội đó giúp những người quan sát định nghĩa trải nghiệm của mình. Khác với hầu hết mọi thứ trên đời, các môn thể thao sở hữu những hàng rào đẹp đẽ của luật lệ và ranh giới, chúng diễn ra trong một không gian xác định với các hành động đã được phân công rõ ràng. Nhờ vậy, chúng ta dễ dàng đồng thuận với nhau về những điều xảy ra trong khoảng thời gian được quy định. Ấy thế mà người ta vẫn thường xuyên cãi vã, dù rằng mọi thứ đã được thu hình và chiếu lại đúng y như những gì đã diễn ra. Thực tế không đơn thuần chỉ là thứ đi vào đôi mắt và nảy lung tung trong đầu bạn. Bạn tự thay đổi nhận thức của mình một cách vô thức, thậm chí ngay cả khi nó đang xảy ra. Đây là một thông tin vô cùng hữu ích khi được áp dụng vào chiến tranh, chính trị, các xu thế xã hội, kinh tế và tất cả những thứ vĩ mô khác có ảnh hưởng tới đời sống, mà không được lịch sử ghi chép lại một cách hoàn hảo. Bạn thấy đó, thông minh là một trạng thái phức tạp và dễ bị hiểu sai hơn nhiều so với những gì bạn nghĩ. Trong phần lớn các trường hợp, bạn hầu như không thể hiểu rõ đầu cua tai nheo của sự việc. Nếu coi đó là việc kiếm cơm hàng ngày thì hắn là bạn đã chết đói từ lâu rồi. Bạn tưởng mình là một con người có lý trí, bình tĩnh cân nhắc mọi mặt của cuộc sống trước khi đưa ra các quyết định và lựa chọn, và mặc dù đôi khi có vấp váp, về cơ bản, bạn vẫn làm tốt bổn phận này của mình, nhưng thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Bạn tồn tại trong trạng thái thận trọng giả tạo. Bạn cực tệ trong việc tự giải thích bản thân, và bạn cũng không nhận thức được mức độ nghiêm trọng của điểm yếu này. Nói cho chính xác, bạn thậm chí còn cảm thấy ngược lại. Bạn luôn tự tin một cách vô lý về nhận thức của bản thân, kể cả khi những giới hạn của bạn đã bị hé lộ. Chính tại nút giao của sự ngạo mạn và yếu đuối, nơi kết hợp đẹp đẽ của tính quả quyết và sự bất toàn này, chúng ta sẽ bỏ chút thời gian thảo luận với nhau. Đây sẽ là cuộc thám hiểm một số ảo giác thú vị nhất đã được khoa học xác định và đo đạc, những thứ cần phải có trong cuốn “hướng dẫn sử dụng cơ thể người” – cũng giống như những thông tin về chất béo chuyển hóa và chất gluten2 vừa được giới khoa học bổ sung vậy. Trong cuốn sách này, bạn sẽ được giới thiệu về một vài khiếm khuyết trong tâm trí con người, cách mà bộ não vẫn nói dối bạn, cách mà nó ăn gian, biến đổi và bẻ cong thực tế, và lý do tại sao bạn vẫn luôn cho chân vào những cái bẫy đó hết lần này tới lần khác. Vậy rốt cuộc, chúng ta sẽ tìm hiểu những gì đây? Chà, thường thì bạn không nắm rõ nguồn gốc của cảm xúc, suy nghĩ, hành vi và ký ức của mình. Nhưng thay vì hoảng loạn và sợ hãi, bạn lại sở hữu một bộ đồ nghề khổng lồ gồm vô số mẹo vặt và kỹ năng; nhờ chúng, bạn sáng tạo ra những bối cảnh giúp cuộc sống dễ hiểu hơn, và rồi, bạn tin luôn vào những bối cảnh mình vừa phát minh ra. Từ năm này qua năm khác, đống bùi nhùi đó dần trở thành câu chuyện cuộc đời bạn. Một trong những dụng cụ này là sự tự nghiệm. Để sống sót, tổ tiên chúng ta đã phải suy nghĩ và phản ứng nhanh trước các tình huống. Sự tự nghiệm là công cụ biến những ý tưởng lớn và phức tạp thành những ý nhỏ, dễ xử lý hơn. Nó giải thích những điều xảy ra trong thế giới xung quanh theo cách đơn giản nhất, cho phép bạn tiếp tục cuộc sống mà không bị phân tâm quá nhiều. Khi cần giải quyết vấn đề và ra quyết định, bạn có nhiều công cụ tự nghiệm khác nhau để biến những thứ phức tạp trở thành vô cùng đơn giản. Ví dụ, bạn sử dụng sự tự nghiệm cảm xúc để đưa ra các quyết định xoay quanh việc một người, một vấn đề hay tình huống mang tới cho bạn cảm xúc tiêu cực hay tích cực. Tay ứng cử viên cho chức thị trưởng làm bạn cảm thấy ghê sợ? Thôi, đừng bỏ phiếu cho hắn. Bà bác sĩ kia đã chọn màu xanh nước mũi để sơn tường phòng khám ư? Bạn sẽ không bao giờ tới đó nữa. Sự tự nghiệm xuất hiện ở những lúc bạn không ngờ nhất, như khi bạn cân nhắc xem có nên ủng hộ tiền cho những người làm quảng cáo về lũ chó mèo bị ngược đãi và bỏ rơi không. Khi suy nghĩ về việc ký séc, bạn không đặt câu hỏi về tính chính thống của tổ chức này, về khả năng những con vật có thể phục hồi, hay về lịch sử tài chính của họ. Thay vào đó, bạn chỉ để ý tới việc hình ảnh những con vật bị hành hạ kia có khiến bạn buồn hay không. Câu hỏi đó dễ trả lời hơn rất nhiều, và từ đó, bạn tự cho rằng mình cũng đã giải quyết xong những câu hỏi phức tạp hơn ở trên. Thuật giả kim cho tâm trí này được áp dụng lên mọi mặt trong cuộc sống, từ việc cân nhắc xem có nên bỏ việc hay không cho tới việc lựa chọn ứng cử viên sáng giá cho chức Tổng thống. Những câu hỏi rắc rối phức tạp thường biến hình thành những bài thử cảm xúc, và cảm xúc lại vốn là thứ chẳng đáng tin bao giờ. Khi sử dụng sự tự nghiệm, bạn có xu hướng cho rằng mình đang cân nhắc một cách logic, nhưng thực ra là bạn đã đi đường tắt mà chẳng thèm ngoái đầu nhìn lại. Một chướng ngại vật khổng lồ khác trong trí óc bạn là tập hợp những khuôn mẫu suy nghĩ vô cùng dễ đoán mang tên thiên kiến nhận thức. Thiên kiến là xu hướng suy nghĩ theo một chiều nhất định dù rằng có tồn tại những phương án khác tốt tương tự hay thậm chí là tốt hơn. Lấy ví dụ nhé, bạn có xu hướng rẽ phải mỗi khi bước vào tiệm tạp hóa mặc dù rẽ trái cũng không khác gì cả, như vậy là bạn có thiên kiến rẽ phải trong hành vi của mình. Hầu hết mọi người đều có chung thiên kiến này, và bởi vậy, các cửa hàng lớn đều tận dụng triệt để điều này trong việc thiết kế và trưng bày sản phẩm. Hầu hết tất cả các thiên kiến nhận thức đều có sẵn một cách tự nhiên, nên dù bạn có được sinh ra ở Ai Cập hay Alabama, vào năm 1902 hay năm 2002 đi chăng nữa, thì bạn vẫn mang trong mình một bộ sưu tập những thiên kiến nhận thức như tất cả mọi người. Các nhà khoa học cho rằng hầu hết các thiên kiến đều là cơ chế thích nghi, nghĩa là qua hàng triệu năm tiến hóa, chúng là chốn ẩn nấp đáng tin cậy khi bạn không chắc về cảm xúc của mình hay không biết cần phải hành động ra sao. Một ví dụ nữa là thiên kiến nhận thức muộn: Nó khiến bạn tin mình luôn đoán đúng về tương lai, bởi vì bạn tưởng bở rằng mình đã làm được điều đó cả đời rồi. Sự thật phũ phàng là bạn rất tệ trong việc tiên đoán tương lai, nhưng lại cực giỏi trong việc viết lại các ký ức của bản thân sao cho chúng có vẻ như là bạn đã đúng ngay từ đầu. Ngoài ra, bạn còn sở hữu thiên kiến xác nhận, thứ khiến bạn luôn tìm kiếm các thông tin củng cố cho thế giới quan của bản thân, trong khi tránh xa hoặc bỏ lỡ những thông tin đối nghịch. Qua thời gian, bạn tạo nên một cái bong bóng, mà mọi thứ trong đó có vẻ hoàn toàn phù hợp với những niềm tin có sẵn của bạn. Sự tự nghiệm cho phép bạn suy nghĩ và hành động nhanh hơn, còn thiên kiến lại khiến bạn hành xử theo những cách vốn vẫn giúp các loài linh trưởng tồn tại. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, sự tự nghiệm và thiên kiến nhận thức luôn phải đứng trước những thử thách, và đó là lúc bạn lôi các loại ngụy biện ra. Ngụy biện xuất hiện trong các cuộc tranh cãi. Bạn thường vào cuộc với một kết luận đã có sẵn trong đầu, rồi cố gắng chứng minh rằng kết luận đó không hề ngu ngốc. Cách bạn biện luận cho điều này thường phụ thuộc vào khả năng bẻ cong logic để làm mọi thứ khớp với nhau. Ta cùng xem một ví dụ cụ thể nhé: Có thể bạn cho rằng bánh mì kẹp xúc xích là thứ đồ ăn chế biến công nghiệp đáng kinh tởm, và bạn không thể tin nổi là em họ của mình đang cho con ăn cái món đó, vì không ai được phép bắt trẻ con ăn thực phẩm mất vệ sinh hết. Vậy là bạn vừa mới đưa ra một lập luận đầy ngụy biện, bởi giả định của bạn nằm ngay trong câu đầu tiên: Bánh mì kẹp xúc xích là thứ kinh tởm. Luận điểm của bạn chẳng chứng minh được gì cả. Nó thậm chí còn chẳng hề nói gì đến độ ghê tởm của thứ thịt nghiền lẫn mỡ bọc trong lớp màng ăn được. Bạn mới chỉ nói lên một niềm tin của bản thân, và cho biết nó là nguyên nhân cho một suy nghĩ nhất định. Bạn có thể nhìn rõ chân tướng của phép ngụy biện này bằng cách sắp xếp câu như sau: “Không ai được ép trẻ con phải ăn thứ thực phẩm mà tôi cho là kinh tởm”. Bạn thường xuyên bị lẫn lộn trong đám logic của bản thân, và cuối cùng thì nhất nhất bẻ cong từ ngữ để làm thế giới khớp với những định kiến của riêng mình. Những ngụy biện thiếu logic, sự tự nghiệm rối rắm và các thiên kiến nhận thức đầy sai lầm cùng hợp lực với một loạt những hiện tượng kỳ lạ khác tạo nên cách tiếp cận vấn đề tệ hại mà bạn vẫn dùng để làm rõ mọi việc trong cuộc sống. Bạn chỉ có khả năng tập trung chú ý vào rất ít thứ một lúc, vậy mà bạn lại cảm thấy mình có thể nhìn được hết mọi thứ xuất hiện trước mắt hay nghe được mọi tiếng động gần tai. Ngay cả khi bạn có chú ý, thì những giác quan này cũng vẫn có rất nhiều hạn chế và không hề hoàn hảo. Rồi bạn dùng những thông tin thu thập được qua các giác quan đó, thêm thắt những thứ vốn không có thật và loại bỏ những thứ bạn không muốn chấp nhận, để xây dựng nên “thực tế”. Thêm vào phương trình này sự phức tạp, rộng lớn của hệ thống cảm xúc và trực giác, bạn có thể thấy được độ lệch lạc trong cái nhìn của mình về thực tế và sự thay đổi theo từng phút giây của nó. Độ lệch lạc đó được chuyển thành những ký ức kém chính xác và không hoàn thiện, lại còn xuống cấp dần sau mỗi lần xem lại. Chất hồ dính – bản năng kể chuyện nằm sâu trong mỗi con người - giữ cho mớ thông tin sai lệch hỗn độn này gắn kết với nhau. Chính khả năng này giữ cho bạn tỉnh táo và cân bằng, dù rằng những câu chuyện bạn tự kể cho bản thân có thể khác xa sự thật. Mặc dù bạn rất dễ phạm sai lầm, mắc phải định kiến, dễ bị lừa, cũng như thường xuyên đi lừa người khác, và hình ảnh bản thân trong tâm trí bạn không thực sự khớp với thực tế, nhưng bạn vẫn sống tốt. Ít nhất là trong phần lớn các trường hợp. Nhưng như vậy cũng tạo ra một vấn đề nghiêm trọng, nhất là khi các chính trị gia, các vị giám đốc điều hành và những người có quyền lực thay đổi cách thế giới vận hành bắt đầu lợi dụng điều này. Họ ném ra những luận điểm ủng hộ hay phản đối một thứ gì đó dựa trên những ảo tưởng tạo ra bởi sự bất toàn trong tâm trí và giác quan của bạn. Trong các ngành khoa học thần kinh, tâm lý và kinh tế, những khiếm khuyết lớn trong tâm trí con người đã được biết tới từ khoảng năm mươi năm nay. Nỗ lực nghiên cứu trong các ngành đó vẫn đang tiếp tục được xúc tiến, nhưng về cơ bản thì hầu hết những gì khoa học đã tìm ra về vấn đề này vẫn nằm dưới cái mũ học thuật. Bạn rất may mắn khi được sống trong thời kỳ mà các kiến thức vốn bị coi là cao siêu bắt đầu len lỏi vào những cuộc hội thoại thường ngày. Và đó chính là mục đích của cuốn sách bạn đang cầm trên tay đây: tiết lộ phần nào kiến thức về những khuyết điểm của bạn để chúng có thể được sử dụng một cách tốt nhất. Trong những điều chúng ta sắp nói tới đây, một số sẽ liên quan tới cấu tạo của não bộ, số khác liên quan tới những ảnh hưởng văn hóa, và có cả những thứ dính dáng tới các thói quen đã có từ xa xưa. Bộ não trong hộp sọ của bạn được tạo nên qua quá trình tiến hóa, và thế giới của tổ tiên bạn chứa đầy những tình huống mà ngày nay bạn không cần phải đối mặt nữa. Tuy vậy, não bộ của bạn vẫn không ngừng đề phòng. Nếu bạn đang ngủ và bị ai đó ném sợi dây thừng vào người, thì cũng chẳng mất gì mà không hốt hoảng, la hét và giãy dụa (tất nhiên là vẫn cố gắng giữ cho quần không bị ướt). Nếu đó là một con rắn độc, thì phản ứng như vậy rất có ích. Thử nghĩ mà xem, sẽ nguy hiểm làm sao nếu lần nào bị đánh thức bởi vật giống con rắn, bạn cũng chỉ ngáp ruồi và nhẹ nhàng gạt nó qua một bên. Qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm, những sinh vật không hoảng hốt trước sự xuất hiện của các vật thể giống-rắn đã không sống sót được đủ lâu và đẻ được nhiều con cái như những con người có phản ứng này, và bởi vậy, bạn thừa hưởng sự sợ hãi đó, cùng với nỗi sợ những thứ nhiều chân bò loằng ngoằng đáng ghê tởm, độ cao, những nơi tăm tối và người lạ. Bạn được lập trình để biết sợ những kẻ khủng bố hơn sợ đồ nội thất, mặc dù nếu nói về mặt thống kê thì mỗi năm, số người mất mạng vì bị ghế sofa và TV đổ đè lên người còn nhiều hơn là vì khủng bố. Khi bạn nhận thức được rằng thế giới đã nhào nặn nên tâm trí bạn chính là thế giới mà bạn đủ kỹ năng đương đầu nhất, thì cũng dễ hiểu tại sao những thứ như động cơ xe hơi, chế độ giảm cân hay công thức làm bánh soufflé lại khó nắm bắt tới vậy, và đó là còn chưa kể tới các loại thuốc nội soi và vật lý lượng tử đấy. Đây không phải là cuốn sách về những hiện tượng tâm lý bất thường. Nó nói về những thứ bình thường trong tâm lý, những thứ thông thường, mặc định được cài sẵn trong bộ não của mỗi con người, từ các nhà khoa học chế tạo tên lửa, các nguyên thủ quốc gia đến các bà cô ở văn phòng, người dùng lịch in hình mèo cho những công việc cá nhân và lịch in hình các chàng lính cứu hỏa cho những buổi họp công chuyện. Bạn nghĩ thấy tận mắt thì sẽ đáng tin, rằng những suy nghĩ của bạn luôn dựa trên những bản năng đáng tin cậy và những phân tích hợp lý, và dù đôi khi cũng mắc sai lầm, về cơ bản, bạn vẫn là người điều khiển đầy thông minh và luôn tập trung cao độ của hệ thần kinh phức tạp nhất Trái Đất. Bạn tin khả năng của mình rất tốt, trí nhớ của mình rất tuyệt hảo, suy nghĩ của mình rất hợp lý và luôn mang tính ý thức cao, câu chuyện của đời của mình là thành thật và chính xác, tính cách của mình thì vững vàng không đổi và không chê vào đâu được. Nhưng sự thật phũ phàng là bộ não luôn nói dối bạn. Bên trong hộp sọ là một âm mưu to lớn và sâu rộng với mục đích giữ cho bạn không thể lật mở những sự thật về bản thân cũng như về khả năng thực của mình. Chính sự tự tin không đáng có mà bạn sở hữu đã thay đổi cách bạn hành xử, tạo nên cánh cửa sau cực lớn và dễ mở, chào đón những tên lừa đảo, các nhà ảo thuật, nhân viên quan hệ công chúng, các nhà quảng cáo, những tên giả khoa học, những kẻ buôn bùa chú và vô số những người khác nữa. Bạn có thể học được rất nhiều về bản thân khi nhìn từ góc độ của những người có khả năng nhìn thấu hành động và biết cách thao túng tính khờ dại của bạn: Hãy học từ chính những khiếm khuyết và thất bại của bản thân. Nhờ vào một cách tiếp cận mới trong bộ môn tâm lý học, các nhà khoa học đã bắt đầu vẽ được bức tranh toàn cảnh về những lỗi lầm và khiếm khuyết trong mỗi con người. Cuốn sách này là bộ sưu tập gồm một số ảo tưởng thú vị nhất được phát hiện từ trước tới nay. Tôi hy vọng rằng khi đọc, bạn cũng sẽ được giác ngộ như tôi khi phát hiện ra chúng. Hãy coi đây là chiến dịch gây sốc và tạo sự kinh ngạc được thiết kế để giúp bạn cảm thấy kết nối hơn với cộng đồng loài người. Chúng ta cùng hội cùng thuyền cả thôi, và đây là những chướng ngại tâm lý chung mà ai cũng sở hữu. Hãy sử dụng những thứ bạn học được trong cuốn sách này để mở lòng hơn với người khác và để thành thực hơn với bản thân. Bạn không thông minh lắm đâu, nhưng có những cách tưởng chừng như vô lý, nhưng lại hiệu quả và thú vị vô cùng sẽ giúp bạn đỡ ngu ngơ hơn đấy. Cùng bắt đầu nào. Mời các bạn đón đọc Bạn Đỡ Ngu Ngơ Rồi Đấy của tác giả David McRaney.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Góc Nhìn Của Người Thông Thái
Những câu chuyện của Fulghum hết sức bình thường và đơn giản như “Bộ sưu tập trên cánh cửa tủ lạnh”, nhưng với góc nhìn của Fulghum, ông cho rằng: “Khi bạn không còn được nhìn thấy những tác phẩm nghệ thuật mới bổ sung vào bộ sưu tập trên cánh cửa tủ lạnh, điều đó đánh dấu sự trưởng thành của con cái bạn. Vài năm sau đó, khi tủ lạnh nhà bạn lại đầy ắp những tác phẩm nghệ thuật mới, nghĩa là con cái của bạn đã trở thành những bậc phụ huynh. Khi đã lên chức ông, chức bà, bạn sẽ càng say mê hơn với các tác phẩm nghệ thuật trên cánh cửa tủ lạnh và sẵn sàng dán lên đó bất cứ thứ gì mà lũ cháu nội, ngoại yêu cầu.” Hay trong “Trường học, trẻ con, người lớn và những điều phải học”, tác giả đưa ra một vấn đề mà khiến ta ngạc nhiên vì nó hẳn thế nhưng ta đã không để ý, đã để nó bị lấp đi:” Khi được hỏi tại nhà trẻ: “Bao nhiêu bạn ở đây có thể vẽ?”, mọi cánh tay đều giơ lên. Tất nhiên là tất cả chúng con đều biết vẽ. Thế các con có thể vẽ cái gì? Tất cả mọi thứ! Thế cảnh một con chó đang nuốt chiếc xe cứu hỏa trong rừng thì sao? Dĩ nhiên rồi. Thầy muốn con chó to cỡ nào?“Ai trong số các con có thể hát?”. Tất cả đều giơ tay. Tất nhiên là chúng con có thể hát! Các con biết hát bài gì nào? Tất cả các bài ạ! Nhưng nếu các con không thuộc lời thì sao? Không sao, chúng con sẽ tự chế lời. Có vấn đề gì đâu, bây giờ chúng ta hãy cùng hát nhé! Bây giờ ư? Tại sao không!(…) Câu trả lời của bọn trẻ luôn là “Có ạ!”. Lặp đi lặp lại như thế. Trong mỗi đứa trẻ luôn có một sự tự tin bẩm sinh, một nguồn vui vô tận và khát khao học tập không ngừng. Với chúng, mọi thứ đều có thể thực hiện được.Thử hỏi với cùng những câu hỏi trên tại các trường đại học, cao đẳng. Chỉ một số rất nhỏ những cánh tay đưa lên khi sinh viên được hỏi họ có thể vẽ, có thể nhảy, có thể hát, có thể sơn màu, có thể diễn kịch hay chơi một nhạc cụ không. Không hiếm các trường hợp giơ tay đã trả lời cùng với một hạn định kiểu như: “Tôi chỉ chơi đàn piano, tôi chỉ vẽ về loài ngựa, tôi chỉ nhảy với nhạc rock and roll hay tôi chỉ hát dưới vòi hoa sen”.”Vậy điều gì đã tạo nên sự khác biệt ấy? Và vì sao chúng ta dần mất hết sự tự tin khi lớn lên? Fulghum đưa ra vấn đề, và không ai khác là chính bạn phải có câu trả lời cho riêng mình.Những mẩu chuyện dung dị dưới nhãn quan rộng mở của Fulghum trong “Góc nhìn của người thông thái” đã được viết bằng một phong cách gần gũi và khiêm nhường, dí dỏm và hấp dẫn với sự thông thái của riêng ông. “Góc nhìn của người thông thái” đem lại cảm giác ấm áp như thể ta đang ngồi dưới mái hiên nhà bà mình vào một chiều chủ nhật, thong thả nhấm nháp từng ngụm kem mát lành… *** Góc Nhìn Của Người Thông Thái gồm có: Thế à Bộ sưu tập trên cánh cửa tủ lạnh Món bánh thịt và bữa ăn vào lúc hai giờ sáng Bài kiểm tra hudson’s bay Start "Cô bé lọ lem", nhân vật chú heo con và một nửa câu chuyện cười với giá 5 xu Điếu xì gà ngon nhất của tôi Ý nghĩa xã hội của chứng nấc cụt Hãy kể về những câu chuyện tình Ngày của lửa Triết lý đom đóm Vụ ném trứng lịch sử Bán chim ở đền - cho đi và nhận lại Lợi nhuận và thua lỗ - nguyên tắc cơ bản nhất trong kinh doanh Cách duy nhất để ra ngoài là bước vào trong Lão già quái chiêu Howard và Chúa trời Bạn có biết hát không? Câu chuyện về bài hát "Home on the Range" Những nghi thức đón chào năm mới Grady và hai thùng sơn màu vàng chanh Học cách phân biệt phiền phức và khó khăn thực sự Gyda - con chó trinh nữ Khu nhà kho ẩn dật Fulghum và Quán trọ Một người Đội Quân Cứu Tế và cậu bé rung chuông Những tang lễ ấn tượng Ba bức ảnh đặc biệt Anh chàng Cỗ máy Thời Gian Nếu bạn trở về với một thời kỳ lịch sử nào đó… Anh hề xiếc Trường học, trẻ con, người lớn, và những điều phải học Emily phipps - sự tồn tại của một nhân vật hư cấu Chiếc bát chứa đựng tư duy *** THẾ À Từ "Thế à" không có trong các từ điển thông dụng cũng như chuyên ngành, và rất hiếm khi hiện diện trong văn viết. Tuy nhiên, những âm tiết này lại được chúng ta sử dụng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, cho đến tận khi xuôi tay nhắm mắt. "Thế à" là một trong những cách thức truyền đạt ngôn từ đầu tiên mà đứa trẻ học được. "À" hay những âm tiết đại loại như thế sẽ còn được sử dụng chừng nào loài người còn tồn tại. Có lẽ đây cũng là từ đầu tiên mà Adam thổ lộ với Eva ngay sau khi cắn quả táo. Và Eva biết chính xác những suy nghĩ đang diễn ra trong đầu Adam. Xuyên suốt lịch sử tiến hóa của loài người, có hàng triệu, hàng triệu âm tiết đã xuất hiện rồi biến mất trong khi chúng ta vẫn không ngừng có được những cách thức để giao tiếp với nhau. Thông thường, những âm tiết dùng để biểu cảm không được xem là một từ có nghĩa, mà chỉ là những âm thanh ngắn đại diện cho những suy nghĩ phức tạp. Đó là những tiếng càu nhàu, tiếng than vãn, tiếng khịt mũi tỏ ý chê bai, tiếng tặc lưỡi, tiếng huýt sáo kết hợp với những biểu hiện phức tạp trên gương mặt hay ngôn ngữ hình thể: ừ, à, ừm, hừ, hey, oh, ok… Những âm tiết này thường vô nghĩa và xét về mặt chính tả thì không thể ký âm trên giấy. "Thế à" đứng đầu danh sách những âm tiết nhỏ nhưng có nhiều ý nghĩa. Chúng ta nói "Thế à" với một đứa bé khi nó ngã, bị cụng đầu hay bị kẹp tay. Điều đó có nghĩa là chúng ta biết đứa trẻ có bị đau, nhưng nỗi đau này sẽ nhanh chóng qua đi, đứa trẻ có nguồn an ủi để chịu đau, có thể tiếp tục đứng lên và bước tiếp. Về phía đứa trẻ, nó có thể hiểu rằng tiếng "Thế à" của cha mẹ đồng nghĩa với việc nó không nhất thiết phải chạy ngay đến chỗ cha mẹ mỗi khi bị đau để được nhận những cái hôn xoa dịu, và cần phải biết tự mình đi lấy bông băng khi cần thiết. "Thế à" có thể được coi là bước đầu tiên trong việc tách dần đứa trẻ ra khỏi cha mẹ để nó trở nên độc lập hơn. Chúng ta ngày một nhiều tuổi, kiến thức và kinh nghiệm cũng ngày một phong phú hơn, và chúng ta sẽ ngày càng hiểu được đâu chỉ là những khó khăn nhất thời trong muôn vàn khó khăn ở đời. Không phải bất kỳ việc nào cũng cần đến 911 (số khẩn cấp của cảnh sát Mỹ), đôi khi chỉ cần "Thế à" là vấn đề có thể được giải quyết. Nếu tôi bị đau ngực, có lẽ tôi sẽ nghĩ ngay đến việc đi cấp cứu với tâm trạng lo sợ "Chúa ơi! Mình đang lên cơn đau tim!". Nhưng cũng với những triệu chứng ấy, bác sĩ của tôi chỉ "ừ, à" cho qua, bà ấy có thể nghĩ do bị đầy hơi, nên chỉ cần uống một viên thuốc làm giảm nồng độ axit trong dạ dày rồi lại tiếp tục công việc của mình. Tương tự, khi chiếc xe tải cũ của tôi bị chết máy, tôi nghĩ là nó tiêu đời rồi, nhưng đối với người thợ máy của tôi thì đó chỉ là một hỏng hóc nhỏ về điện. "À, chẳng qua do dây đánh lửa bị chập thôi". Đây cũng có thể là từ để chỉ thái độ buông xuôi với những sự việc mà chúng ta không thể ứng phó được. Từ khi còn nằm nôi, chúng ta đã biết Rock-a-bye-baby[1] và điều gì sẽ xảy ra nếu cành cây bị gãy. Ở trường mẫu giáo, chúng ta được nhắc nhở về bài học tình thế. Tất cả những con ngựa của nhà vua và tất cả những người đàn ông của nhà vua đều không thể cùng nhau đặt cậu bé trứng Humpty Dumpty[2] thêm một lần nào nữa. Tôi quen thuộc với sự chết chóc, thường xuyên thấy nó trong các bệnh viện và nghĩa trang. Nếu tôi nhận thấy cái chết của chính mình đang đến gần, phản ứng của tôi lúc đó có thể sẽ là "Thế à". "Thế à" trong trường hợp này chính là một trạng thái tinh thần, một triết lý sống. Đây cũng là một cách nói để đón nhận những điều không mong đợi trong cuộc sống, và khả năng đón nhận cái chết cho dù nó xảy ra vào bất cứ thời điểm nào trong đời. Khi nói "ừ, à", người ta dường như không chỉ mong đợi sự bất ngờ, mà họ còn tin là nó sẽ xảy ra, như thể sự bất ngờ chính là một khía cạnh của sự tồn tại. "Thế à" có nghĩa là "Chúng tôi vẫn đang bước tiếp", "Gì nào?", "Bạn không bao giờ có thể nói về điều sẽ xảy ra", "Thế là quá nhiều cho một kế hoạch", "Chú ý, chúng ta sắp đi qua hầm", "Không sao", "Ngày mai sẽ là một ngày mới", "Bạn không thể hàn gắn trở lại quả trứng vỡ", "Suốt hàng trăm năm nay, điều đó chưa có gì thay đổi". "Thế à" không chỉ là một phản ứng tức thời trước những chuyện vặt vãnh. "Thế à" là một thái độ, một quan điểm về vũ trụ. Nó chính là một phần trong phương trình tóm tắt quan điểm của tôi về điều kiện của sự tồn tại: "à há" + "ôi chao"+ "thế à" + "Chúa ơi" = "a ha!". Mời các bạn đón đọc Góc Nhìn Của Người Thông Thái của tác giả Robert Fulghum.
Work-life Balance: Khi Người Trẻ Cần Cảm Hứng Và Kế Hoạch Để Theo Đuổi Sự Nghiệp
Bạn cảm thấy quay cuồng với cuộc sống? Công việc. Gia đình. Giấc ngủ. Bạn bè - tất cả đều quan trọng với bạn và bạn chẳng thể tìm đủ chỗ cho chúng trong 24 tiếng đồng hồ ít ỏi! Xin chào, bạn không phải là người duy nhất gặp khó khăn. Chúng ta đều có những lúc căng thẳng và mệt mỏi vì không thể cân bằng công việc với cuộc sống, đến mức cảm thấy tội lỗi nếu lỡ không hoàn thành được một việc gì đó trong danh sách những điều cần ưu tiên. Cuốn sách thông minh, tinh tế và đầy tâm lý của Randi Zuckerberg sẽ phá vỡ quan điểm không đáng có này! Bằng cách cung cấp phương pháp Bộ Ba Lựa Chọn và những lời khuyên đầy thực tiễn, Randi đặt vào tay người đọc bí quyết để sống cuộc đời tươi đẹp nhất, sắp xếp cuộc sống thật hiệu quả. Thông qua nhiều câu chuyện quản lý cuộc sống của những chuyên gia tại các công ty hàng đầu thuộc thung lũng Silicon, của những người mẹ mong muốn dành thêm thời gian cho gia đình, của những sinh viên mới ra trường luôn cố gắng kiểm soát mọi thứ, Randi đã truyền tải thông điệp: Đừng mong chờ sự cân bằng hoàn hảo, mà thay vì thế, hãy dám lựa chọn, gạt bỏ những kỳ vọng vô lý và tận hưởng những điều bạn thật sự trân trọng. Không chỉ phù hợp với những doanh nhân và lãnh đạo cấp cao, bộ công cụ có trong tác phẩm “Work-Life Balance” khả dụng với tất cả mọi người, đặc biệt là với những bạn trẻ - những người luôn cần cảm hứng và một kế hoạch sáng suốt để theo đuổi sự nghiệp.  Về tác giả: Randi Zuckerberg là doanh nhân, nhà văn, người có tiếng nói trong giới công nghệ. Cô là cựu giám đốc phát triển thị trường và phát ngôn viên của Facebook, chị gái của CEO Facebook Mark Zuckerberg. Randi thường xuyên được mời diễn thuyết về công nghệ, kinh doanh và nữ quyền trong kinh doanh trên khắp thế giới.  *** Tôi rất lấy làm hân hạnh khi được thấy các bạn, những người vốn đã rất tuyệt vời, trở nên hạnh phúc hơn, quyết tâm hơn và thậm chí, mạnh mẽ hơn. Bộ Ba Lựa Chọn đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi và tôi rất vui mừng được chia sẻ phương pháp này tới các bạn. Bằng cách chỉ tập trung làm tốt một số việc mỗi ngày, thay vì cố gắng hoàn thành mọi thứ (để rồi thất bại thảm hại), tôi đã có một cái nhìn khác về thành công và hạnh phúc. Tôi cũng đã trút bỏ được rất nhiều mặc cảm tội lỗi canh cánh trong lòng suốt nhiều năm qua. Bây giờ mỗi sáng thức dậy, tôi nhìn vào gương, và nói, “Công việc. Giấc ngủ. Gia đình. Thể dục. Bạn bè. Hãy chọn ba điều đi.” Hãy tin tôi đi, cách này hiệu quả đấy! Và bạn sẽ hiểu rõ hơn hiệu quả của nó khi đọc những trang tới. Tôi rất muốn biết Bộ Ba Lựa Chọn của bạn là gì. Hãy đăng lên các trang mạng xã hội với từ khóa #pickthree hoặc gắn thẻ tôi @randizuckerberg và cho tôi biết bạn đã học thêm được điều gì về bản thân, điều gì đã thay đổi nhờ vào Bộ Ba Lựa Chọn của bạn (với tôi, bây giờ đó là Công việc, Thể dục và Gia đình), và điều mà bạn muốn thay đổi. Những việc này sẽ buộc bản thân chúng ta phải nghiêm túc trong hành trình tìm kiếm một trạng thái sống thiên lệch hợp lý. Khoan đã, sao cơ? Hãy đọc tiếp nhé…  *** “Tôi thà chết vì đam mê còn hơn là sống trong nỗi buồn chán.” – Vincent van Gogh Năm nay, tôi đã tự hứa với bản thân sẽ thôi không mặc cảm tội lỗi về mọi thứ nữa. Mặc cảm tội lỗi vì chưa bao giờ hoàn hảo (hay thực sự là, không bao giờ hoàn hảo), mặc cảm vì không có một tủ quần áo chỉn chu nhất hay thân hình hoàn mỹ nhất, mặc cảm vì ăn quá nhiều tinh bột hoặc uống quá nhiều cà phê, mặc cảm vì đã đầu tư và mạo hiểm trong công việc nhưng không đem lại kết quả gì, mặc cảm vì không trả lời tất cả thư điện tử, mặc cảm vì không phải là người mẹ/người vợ/người bạn hoàn hảo. (Tôi cảm thấy mệt mỏi vì phải liệt kê tất cả những điều khiến tôi cảm thấy tội lỗi vô nghĩa như thế này.) Khi ngẫm nghĩ về lý do tại sao mình phải lãng phí quá nhiều quỹ thời gian vốn ngắn ngủi và quý báu trên thế gian này chỉ để xin lỗi về mọi thứ, tôi nhận ra rằng hành động này bắt nguồn từ sức ép mạnh mẽ muốn có tất cả, muốn làm tất cả, và muốn trở thành tất cả trong cùng một lúc. Bạn không thể trở thành tất cả trong mắt của mọi người, cho dù là học sinh, phụ huynh, ông chủ, nhân viên, người chồng/vợ, vận động viên, nghệ sĩ, người bạn trong lúc hoạn nạn, doanh nhân hay một người làm kiêm nhiệm nhiều nghề. Chúng ta đã được dạy là phải làm thật tốt tất cả mọi thứ để đạt được sự cân bằng xa vời và phi thực tế nào đó trong tất cả mọi việc thường ngày. Tôi sẽ đập tan thứ ảo tưởng đó! Tôi cho rằng quan niệm cân bằng cũng sai lạc, giống như người Scotland chính gốc chỉ biết nhảy điệu nhạc truyền thống của người Ireland vậy (bạn hiểu chứ, sự sai lạc ấy?). Tôi tin rằng việc cố gắng hoàn hảo hóa cuộc sống là nền tảng tai hại của một trong ba điều sau: Thất bại, những kỳ vọng phi lý, hoặc tệ hơn, SỰ TẦM THƯỜNG! Thật đáng sợ! Những người bạn yêu quý, những đam mê và ước muốn của bạn không nên bị gò bó trong việc bạn có thể cân bằng chúng như thế nào. Hãy thừa nhận đi, bạn không thể đạt được những điều quan trọng hay hữu nghĩa với mình bằng cách cố GIÀNH LẤY TẤT CẢ trong vòng 24 tiếng đồng hồ được. Cực kỳ áp lực! Nhắc tới việc giành lấy tất cả, mặc dù tôi rất ủng hộ triết lý sống “càng nhiều càng tốt”, nhưng xin thứ lỗi, “tất cả” không phải lúc nào cũng tốt hơn. Bạn đã bao giờ tham dự bữa tiệc đứng, nơi người ta được ăn uống thỏa thích trong 24 tiếng ở Vegas chưa? Sau 10 phần ăn, vào lúc 3 giờ sáng, liệu bạn có còn nghĩ rằng cố giành lấy tất cả là quyết định đúng đắn trong đời mình không? Bất cứ điều gì bạn muốn đạt được – công việc, gia đình, tình hình sức khỏe, đam mê cá nhân, một dự án cụ thể nào đó, đời sống xã hội cá nhân, hay bất cứ điều gì! – bạn phải ưu tiên cho nó bằng cách xếp ở đầu danh sách việc cần làm. Hết lần này đến lần khác, rồi lần khác, lần khác và lần khác nữa. Cân bằng ư? A! Tôi có một giả thuyết khác để thành công đấy! SỐNG THIÊN LỆCH HỢP LÝ Ý tưởng về việc kiểm soát tốt cách sống thiên lệch lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời tôi khi tôi nộp đơn vào đại học. Tôi là một thí sinh đầy tham vọng, hăng hái và quyết tâm tại trường trung học Horace Mann khá nổi tiếng ở Riverdale, New York. Giống như tất cả các học sinh trường tư khác ở New York, tôi nghĩ rằng đỉnh cao cuộc sống là được nhận vào Đại học Harvard. Ai đó có thể gọi đây là ÁP LỰC không!? Vấn đề là, tôi không phải là kiểu người mà bạn sẽ nghĩ đến khi nói tới Harvard. Có một năm, tôi đã phải học lại hai môn. Tôi không có điểm SAT hoàn hảo. Tôi không phải chủ tịch hội học sinh. Tôi không sáng lập tổ chức phi lợi nhuận nào hay thực tập tại các công ty nổi tiếng. Tôi không có bất cứ mối quan hệ hay vốn liếng nào. Thay vào đó, tôi là một kẻ đam mê sân khấu. Lớn lên, tôi suốt ngày ca hát hoặc làm việc trong nhà hát, bất cứ việc gì tôi có thể làm. Cả mùa hè của tôi dành để lưu diễn với một nhóm Opera bán chuyên. Tôi biểu diễn ở rất nhiều chương trình khác nhau trong năm. Tôi đã thực hiện một nghiên cứu riêng khi tham dự những buổi tổng duyệt các vở Opera tại Lincoln Center và viết bài luận cuối kỳ dựa trên những kết quả nghiên cứu đó. Tôi chọn khóa học thực hành nhạc lý nâng cao thay vì toán vi phân. Tôi đã bỏ môn khoa học vào năm cuối trung học để có thể tập trung nhiều hơn vào âm nhạc. Ước mơ của tôi là được biểu diễn ở Broadway, và nếu không thể biểu diễn ở Broadway được thì tôi sẽ điều hành Broadway. Dù cho gia đình rất ủng hộ tôi và kế hoạch cuộc đời của tôi, nhưng tôi cũng không chắc là họ tin rằng tôi sẽ được hát bài Fair Harvard*. Mẹ tôi nói bà đã cúi gằm mặt vì xấu hổ khi thầy Singer, giáo viên tư vấn hướng nghiệp ở trường trung học của tôi, hỏi trường nào là nguyện vọng I của tôi; và bà phải thú nhận nơi mà bà nghĩ là lựa chọn không tưởng: Harvard. Làm như tôi sẽ thực sự được nhận không bằng! Nhưng, để khuyến khích ước mơ của tôi, bà đã đưa tôi đi tham quan khuôn viên trường; tất nhiên, tôi đã yêu ngôi trường này. Từ những tòa nhà với lối kiến trúc cổ điển tuyệt đẹp đến những truyền thống và lịch sử, tôi thật sự RẤT MUỐN vào đó. * Ca khúc truyền thống của trường Đại học Harvard. Chúng tôi gặp nhân viên tuyển sinh, người đã nói điều mà tôi nhớ mãi. Những lời của cô ấy đã trở thành nền tảng cho cuốn sách này: “Randi”, nhân viên tuyển sinh đó nói, “Harvard tìm kiếm hai loại người. Một là những người giữ được sự cân bằng, và hai là những người kiểm soát tốt sự thiên lệch. Những sinh viên giữ được sự cân bằng sẽ đóng vai trò xương sống trong lớp học, nhưng những học sinh kiểm soát tốt sự mất cân bằng hợp lý mới là người khiến lớp học trở nên vô cùng thú vị.” Ôi chúa ơi, đó chính là tôi! Tôi đã nghĩ thế. Tôi là một trong những người sống thiên lệch hợp lý đó! Chín tháng sau, tôi nhận được phong bì dập nổi dày cộp của Harvard với lá thư mời nhập học khóa năm 2003! Cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với thế giới của sự thiên lệch đã thành công tốt đẹp! Ngay lúc ấy, tôi quyết định sẽ không chỉ lấy việc sống thiên lệch hợp lý làm phương châm, mà còn lan truyền những kiến thức và kinh nghiệm mà lối sống này đã giúp tôi nữa. Từ khoảnh khắc ngồi trong văn phòng tuyển sinh đó với tư cách một học sinh trung học đầy háo hức và mơ mộng, tôi đã quyết định theo đuổi đam mê của mình, trở thành một trong những người thú vị, và đào sâu tìm hiểu mọi thứ bằng cách tốt nhất có thể – tận hưởng giấc mơ được sống thiên lệch hợp lý. Khi chuyển từ đại học sang thế giới thực, tôi biết mình cần thứ gì đó để giúp quản lý khối lượng công việc dày đặc theo cách mà ứng dụng điện thoại không thể làm được. Tôi có rất nhiều sở thích bên ngoài, tôi đang làm một công việc có áp lực lớn, và chồng tôi với tôi đang cùng nhau xây dựng một gia đình. Căng thẳng đè nặng lên tôi. Ngay khi tôi nghĩ mình phải chịu thua trước áp lực và từ bỏ một vài thứ mình yêu thích, như giữ dáng hoặc đi xem kịch, tôi nhớ lại lời mà nhân viên tuyển sinh đó nói về việc “kiểm soát tốt sự thiên lệch” và một ý tưởng chợt nảy ra. Tôi không phải từ bỏ bất cứ điều gì! Tôi nghĩ. Có lẽ thay vì giữ sự cân bằng, tôi nên thay đổi tất cả và tập trung vào lối sống thiên lệch hợp lý! Thay vì cố gắng làm mọi thứ mỗi ngày, nếu tôi chỉ chú tâm vào những thứ quan trọng với cuộc đời mình (công việc, giấc ngủ, gia đình, thể dục, bạn bè) và CHỌN RA MỘT BỘ BA để tập trung vào mỗi ngày thì sẽ ra sao? Bằng cách đó, tôi có thể làm TỐT ba điều ấy và có thể chọn ba điều khác vào ngày mai. Lâu dần, tôi có thể nghỉ ngơi, chăm sóc bản thân, thành công và học hỏi thêm những điều khác – ngay cả khi đang bị con cái bám chặt lấy! Và thế đó, từ một buổi gặp mặt tuyển sinh ở Harvard, nơi mà tôi thậm chí còn không chắc mình được nhận, Bộ Ba Lựa Chọn đã ra đời. CHẮC CHẮN, TÔI KHÔNG PHẢI NGƯỜI DUY NHẤT TỪNG TRẢI QUA GIAI ĐOẠN CĂNG THẲNG đến nỗi kiệt sức. Chúng ta đều phải mang gánh nặng của thế giới trên vai. Thực tế thì, nếu xem xét kỹ những việc bạn làm được mỗi tuần, tôi nhất định sẽ xin chữ ký của bạn trong cuốn sách này! Khi bạn nghĩ về tất cả những thứ mà mình muốn cân bằng, chúng có thể khiến bạn cảm thấy bị quá tải cực kỳ. Dưới đây là danh sách những điều tôi phải làm mỗi ngày để GIÀNH LẤY MỌI THỨ: • Nuôi dạy hai đứa con trai để chúng trở thành những người đàn ông tốt, siêng năng và biết tôn trọng phụ nữ • Dành thời gian quý báu với chồng • Quản lý tốt công việc kinh doanh và làm mọi người hài lòng (việc này không hề dễ dàng ở New York!) • Viết một cuốn sách (hay đúng hơn là cuốn sách này) • Chuẩn bị và dẫn chương trình phát thanh SiriusXM hằng tuần • Ăn uống lành mạnh • Lên kế hoạch chuyến công tác cho hơn 40 bài phát biểu mà tôi vẫn làm hằng năm • Liên lạc với người trông trẻ khi đi công tác • Cảm thấy tội lỗi khi phải đi công tác và không được ở cùng các con • Giữ gìn mái ấm gia đình (ngoại trừ việc tôi sống chủ yếu ở sân bay...) • Giữ liên lạc với gia đình (con xin lỗi vì không gọi điện thoại, mẹ à! Mẹ đang ở múi giờ nào vậy?) • Hoàn thành nhiệm vụ của ban giám đốc và hội đồng tư vấn • Xem hơn 60 chương trình trong và ngoài sân khấu Broadway hằng năm để bình chọn cho giải thưởng Tony và Chita Rivera • Đăng bài lên các tài khoản xã hội • Xem tài khoản mạng xã hội của những người khác (và rồi cho rằng cuộc sống của họ tốt hơn của mình) • Trả lời một núi thư điện tử và tin nhắn (tại sao con số nho nhỏ đó trong hộp thư đến của tôi không bao giờ chịu giảm xuống?!?!) • Tự nhủ với bản thân, “Randi, mày thật sự nên trả lời thư điện tử đó”, trong khi biết rõ rằng ngay khi có thêm vài thư khác đến thì nó sẽ biến mất mãi mãi khỏi tâm trí tôi. Ôi! Sao tôi có thể quên những mục tiêu cháy bỏng của mình được nhỉ: • Gặp gỡ bạn bè. • Giữ dáng (ha!) • Ngủ (HA, viết in hoa!) • Tắm gội (Đừng nói gì cả!) Vâng, thật là mệt mỏi. Có lẽ, tôi nên bò về giường cho xong một ngày. Sẽ ra sao nếu tôi thay đổi danh sách quá tải đó từ Việc Cần Làm Hôm Nay thành Việc Cần Làm Năm Nay? Hoặc trong hơn ba năm nữa? Hoặc 10 năm! Bằng cách này, tôi có thể chọn ra một vài việc cần làm mỗi ngày và tập trung tuyệt đối để hoàn thành các nhiệm vụ mình đã chọn, và sẽ không ngập trong cảnh VIỆC NÀO CŨNG PHẢI LÀM NGAY LẬP TỨC. Ngay cả khi có rất nhiều việc phải làm, tôi vẫn cho rằng mình là một trong những người rất may mắn. Tôi có một người bạn tuyệt vời và đáng mến là chồng tôi, Brent, người đã đảm nhiệm phần lớn công việc nội trợ và chăm sóc con cái. Tôi có một đội ngũ nhân viên vô cùng tài giỏi tại Zuckerberg Media luôn đảm bảo mọi thứ diễn ra suôn sẻ. Và tôi có những cộng sự tuyệt vời tại Jim Henson Productions, Universal Kids, CAA, HarperCollins và SiriusXM. Tôi có đủ ngân sách để thuê một người giữ trẻ đáng tin cậy. Tôi có gia đình và những người bạn đáng quý luôn ủng hộ mình. Thêm vào đó, như một người bạn đã nói với tôi, “Bạn chỉ hạnh phúc ngang đứa con bất hạnh nhất của bạn”, và cả hai đứa con của tôi đều khỏe mạnh và hạnh phúc. Tạ ơn Chúa. Sự thật là, chúng ta dành hầu hết thời gian để nghĩ về niềm hạnh phúc và nỗi bất hạnh của mình. Chúng ta có hạnh phúc hơn khi chơi đùa với con cái ở nhà không? Có hạnh phúc hơn khi chạy trốn đến phòng tập thể hình trong một tiếng đồng hồ? Hay hạnh phúc hơn khi ngồi trong phòng làm việc để hoàn thành nốt phần kết bản báo cáo? Hạnh phúc là thứ mà chúng ta luôn vô thức hướng đến. Nhưng với áp lực từ việc tìm kiếm sự cân bằng, không có gì ngạc nhiên khi tất cả chúng ta đều cảm thấy bất hạnh. Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2007 đã xếp hạng Mỹ là nước hạnh phúc thứ ba trong số 35 quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Nhưng trước khi kịp ăn mừng thì, chưa đầy 10 năm sau, vào năm 2016, Hoa Kỳ tụt xuống vị trí thứ 19 trên tổng số 35. Nguyên nhân của sự sụt giảm này bao gồm việc cắt giảm trợ cấp xã hội và gia tăng nạn tham nhũng trong chính phủ.1 Nếu muốn trở nên bất hạnh hơn nữa, tất cả những gì bạn phải làm là dành một giây lên trang mạng xã hội ưa thích của mình, và bạn sẽ lập tức choáng váng trước những hình ảnh về cuộc sống hoàn hảo của người khác, kỳ nghỉ trong mơ của họ, câu lạc bộ sách đầy tri thức của họ, khiến bạn cảm thấy cuộc sống của họ tốt hơn mình RẤT NHIỀU. Bạn bắt đầu nghĩ, có lẽ mình không phải nhân tài như bạn nghĩ cách đây năm phút nữa. Tất nhiên, trong thâm tâm, chúng ta đều biết rằng, mọi người chỉ đang diễn kịch trên mạng mà thôi, họ chỉ phô ra những phần đẹp đẽ nhất, rực rỡ nhất trong cuộc đời – nhưng chúng ta vẫn không khỏi cảm thấy một chút tủi thân. Nghe có quen không? Vào năm 2016, Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Pitt khảo sát 1.787 thanh niên trên toàn quốc về việc sử dụng 11 trang mạng xã hội phổ biến (Instagram, Facebook, v.v...). Những người sử dụng nhiều trang mạng xã hội nhất (từ 7-11 trang) có nguy cơ mắc bệnh trầm cảm và lo lắng nhiều gấp ba lần những người ít sử dụng nhất (từ 0-2 trang). Việc cố gắng xuất hiện thường xuyên trên nhiều trang khác nhau (còn gọi là truyền thông xã hội đa nhiệm) đã khiến khả năng tập trung, tiếp thu và tâm trạng giảm sút.2 Cùng với đó, một nghiên cứu của Hiệp hội Sức khỏe Cộng đồng Hoàng gia cho thấy rằng mạng xã hội gây ra nỗi lo lắng, hội chứng sợ bỏ lỡ thứ gì đó (FOMO), nạn bạo hành, bệnh trầm cảm nặng và suy giảm chất lượng giấc ngủ thấp ở lứa tuổi thiếu niên.3 Và trên hết, một cuộc thăm dò ý kiến vào năm 2017 trên trang You.gov cho thấy 26% người Mỹ nói rằng, một bình luận tiêu cực trên mạng xã hội có thể hủy hoại cả ngày hôm đó của họ.4 Tệ hơn, bình luận tiêu cực thậm chí còn không phải do con người viết ra! Với số lượng robot nhắn tin đang ngày một tăng, rất có thể một con robot nào đó đang biến một ngày mới của bạn trở nên tươi đẹp hoặc tồi tệ. Hội chứng FOMO, chứng trầm cảm, sự ganh đua trên mạng xã hội – bạn rơi vào những vấn đề đó và tôi cũng vậy. Nhưng mục tiêu của bạn không phải là những thứ tuyệt vọng như thế này. Khi viết cuốn sách này, tôi đang ở trong trạng thái vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời thì luôn có lúc này lúc kia. Mọi thứ thường diễn ra khác với dự tính của bạn. Những trường hợp khẩn cấp - lớn lẫn nhỏ - luôn xảy đến vào những lúc bất ngờ và phiền toái nhất. Là một người hay lo lắng điển hình, tôi luôn sợ rằng bữa tiệc càng vui thì càng chóng tàn. Tôi còn sợ rằng chiếc cốc vơi tràn nước bất cứ lúc nào. Mỗi chúng ta đều gặp hoàn cảnh và thách thức khác nhau. Một số phải đơn thân nuôi con hoặc kiêm nhiệm nhiều việc, những công việc rất vất vả để có thể tự chủ về tài chính. Nhiều người đã được tôi luyện qua gian truân trong cuộc sống. Nói cách khác, nhiều người trong các bạn là #SIÊUANHHÙNG ngoài đời thực. Không phải trong truyện tranh mà chính trong cuộc sống hiện thực, bạn đang góp phần thay đổi thế giới này vì những người bạn yêu thương và quan tâm, bằng bất cứ giá nào. Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta luôn có một mẫu số chung: Tất cả chúng ta đều cảm thấy vô cùng áp lực khi phải cân bằng giữa những thứ mình cần, có và muốn, đồng thời phải thực hiện tuyệt đối chính xác. Nhưng nếu chúng ta không nhất thiết phải luôn ôm lấy gánh nặng ấy thì sao? Nếu bạn chỉ cần chọn ra một vài thứ để tập trung thì sao? Nếu bạn có thể cho phép bản thân sống thiên lệch hợp lý, thay vì giữ cân bằng thì sao? Và, nếu tôi chỉ cho bạn một cách để có thể hạnh phúc hơn trong dài hạn mà chỉ cần tập trung vào một số thứ nhất định (miễn là đến cuối cùng, bạn sẽ chọn hết tất cả mọi thứ trong danh sách việc cần làm) thì sao? Bạn sẽ tham gia chứ? Nào, hãy chuẩn bị sẵn sàng các kỹ năng để sống thiên lệch hợp lý, bởi vì tôi sẽ chỉ cho bạn biết phải làm như thế nào! CÔNG VIỆC. GIẤC NGỦ. GIA ĐÌNH. THỂ DỤC. BẠN BÈ. BỘ BA LỰA CHỌN. Khi mọi người biết tôi phải công tác xa nhà khoảng 100 ngày mỗi năm, phản ứng chung của họ chính là kinh ngạc. “Cậu không nhớ bọn trẻ sao?” Tất nhiên là tôi nhớ con tôi rồi! Tôi không phải quái vật. Nhưng, tôi cũng yêu công việc của mình nữa. Không gì vui hơn là được gặp gỡ các bạn bè trong giới kinh doanh, học sinh và những người mơ mộng đang khởi tạo và cải tiến các ý tưởng mới trên thế giới. Cảm giác khi tôi đi khắp nơi để làm việc, chia sẻ những câu chuyện, kết bạn mới, và truyền cảm hứng cho người khác chính là Thế Giới Hạnh Phúc đích thực của tôi. Nếu cứ suốt ngày tập trung vào việc duy trì sự cân bằng, tôi sẽ không thể được như ngày hôm nay. Khả năng trang trải cho gia đình cực kỳ quan trọng đối với tôi và đó cũng là một phần mục đích và ý nghĩa cuộc sống của chính tôi. Vậy nên, hẳn rồi, tôi có thể trở thành, giả dụ như, một người mẹ tốt hơn bây giờ 3% nếu đi công tác ít hơn – nhưng tôi cũng sẽ bớt hạnh phúc hơn rất nhiều. Tôi có niềm đam mê cháy bỏng và niềm tự hào to lớn với công việc của mình. Nếu cắt bỏ nó, thì chẳng khác nào tôi đang cắt bỏ phần quan trọng nhất trong bản chất và con người chân thật của mình. Tôi có giận bản thân vì xa nhà quá nhiều không ư? Chắc chắn có. Tôi đang ở trong cuộc chiến thứ 4.245.003 với chính mình đây này. Nhưng giờ đây, tôi hiểu rằng, chỉ khi cho phép bản thân thiên về công việc trong vài ngày và thiên về gia đình vào nhiều ngày khác, thì tôi mới thực sự hoàn thành tốt cả hai vai trò. Khi nhìn lại 20 năm trước của cuộc đời mình, tất cả những khoảnh khắc đáng tự hào nhất, hạnh phúc nhất và tuyệt vời nhất của tôi – những khoảnh khắc mà tôi hy vọng sẽ có dịp kể cho cháu chắt nghe sau này – đều diễn ra khi tôi cho phép bản thân sống thiên lệch hợp lý. Nếu khi đó tôi lựa chọn một cuộc sống cân bằng thì sẽ chẳng được HẠNH PHÚC như ngày hôm nay. Ơn trời là tôi đã sống thiên lệch! Đối với tôi, phân nửa niềm vui khi sống thiên lệch hợp lý chính là có thể tham gia những điều mà mình hứng thú. Cho dù đó là công việc, giấc ngủ, gia đình, thể dục hoặc bạn bè, tôi không bao giờ biết chính xác điều gì sẽ xảy ra, nhưng khi có đủ đam mê và thông tin, tôi luôn biết mình sẽ vui vì đã thử. Hãy sống một cuộc đời sôi nổi và thiên lệch hợp lý theo cách riêng của bạn, đừng cảm thấy tội lỗi, đừng quan tâm người khác nghĩ hay nói gì, không phải tê liệt trước nỗi sợ thất bại, đó mới là lúc cuộc vui thật sự bắt đầu. Có rất nhiều cách để có thể kiểm soát tốt sự thiên lệch. Một trong số đó là tự nguyện lựa chọn. Một số bị ép buộc do hoàn cảnh bất khả kháng. Một số là vì lợi ích của những người thân yêu. Một số là quyết định thứ gì KHÔNG cần ưu tiên, chứ không phải thứ gì cần phải tập trung vào. Tất cả những lựa chọn này đều đáng giá, tuyệt vời và đáng trân trọng như nhau. Chẳng có cách nào đúng hay sai để sống thiên lệch hợp lý, miễn là bạn đừng quá thiên lệch đến nỗi làm ảnh hưởng đến sức khỏe và hạnh phúc của mình, hoặc làm tổn thương những người yêu quý bạn – mặc dù, đôi khi chúng chắc chắn sẽ xảy ra (chúng ta sẽ nói về vấn đề này sau). Trong cuốn sách này, tôi sẽ chia sẻ các cuộc phỏng vấn mà tôi đã thực hiện với một số người kiểm soát cách sống thiên lệch hợp lý hiệu quả nhất mà tôi biết. Ví dụ như Arianna Huffington, sau khi tỉnh ngộ trước tình trạng báo động về sức khỏe của mình, đã dồn hết tâm trí vào việc nâng cao ý thức về tầm quan trọng của giấc ngủ cho những người đang đi làm. Hay như bác sĩ Adam Griesemer, người thường thực hiện những ca phẫu thuật ghép tạng cho trẻ em kéo dài hơn 40 giờ đồng hồ. Tôi từng nói chuyện với Melinda Arons, người đã bỏ công việc hấp dẫn tại Facebook để tham gia chiến dịch tranh cử tổng thống của Hillary Clinton. Tôi từng tâm tình với Rebecca Soffer, người đã mất cả cha lẫn mẹ chỉ trong một thời gian ngắn và biến nỗi đau của cô thành sức mạnh để giúp đỡ những người đang đau khổ vì cái chết của người thân. Tôi từng trò chuyện với Brad Takei, người đã quyết định mục đích cuộc đời là giúp đỡ bạn đời, George Takei, thành công trong mọi việc anh làm. Và tôi cũng từng ngồi cùng với Reshma Saujani, người nhận ra rằng thất bại trong hai cuộc bầu cử chính trị là chìa khóa để tìm ra mục đích sống cho bản thân. Tôi sẽ chia sẻ câu chuyện của những người đã sống thiên lệch hợp lý theo nhiều cách khác nhau - một số vì ý muốn cá nhân, số khác vì hoàn cảnh bắt buộc. Tôi sẽ chỉ cho bạn tất cả các mẹo, thủ thuật và bí quyết để sống hạnh phúc nhằm giúp bạn trở thành người kiểm soát cách sống thiên lệch hợp lý tốt nhất theo cách riêng của bạn. Hành trình học cách đặt ưu tiên, tập trung và, tất nhiên là, từ bỏ, bắt đầu kể từ giây phút bạn mở cuốn sách này. Tôi hoan nghênh các bạn vì đã chọn một con đường khác để tiến tới hạnh phúc. Thấy không? Bạn đang làm rất tốt trong việc sống thiên lệch hợp lý này đấy! Bộ Ba Lựa Chọn là phương châm của tôi, đức tin của tôi, động lực cuộc sống của tôi, và tôi rất hân hạnh được chia sẻ nó với các bạn. Hãy bỏ sự cân bằng đi. Hãy trở nên thật thú vị! Hãy trở nên thật khác biệt! Mời các bạn đón đọc Work-life Balance: Khi Người Trẻ Cần Cảm Hứng Và Kế Hoạch Để Theo Đuổi Sự Nghiệp của tác giả Randi Zuckerberg.
Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Trong Học Tập
Chắc hẳn bạn đã không còn xa lạ gì với thuật ngữ “bản đồ tư duy” (mindmap). Ngày nay, chỉ cần bước vào một hiệu sách bất kỳ, chúng ta cũng sẽ tìm được vô số những cuốn sách hướng dẫn về kỹ thuật ghi chép cực kỳ thông minh này. Nhưng bạn đã thực sự học được những gì từ vô vàn các cuốn sách đó?  Một trong những vấn đề lớn mà các sách về bản đồ tư duy thường gặp phải là không đi sâu vào chi tiết. Những cuốn sách luôn nói rằng chúng ta có thể vận dụng bản đồ tư duy theo rất nhiều cách, nhưng lại không nói chúng ta biết phải vận dụng như thế nào. Ngay cả khi họ đưa ra hướng dẫn, những chỉ dẫn cũng rất chung chung, chưa đủ để người học tiện áp dụng vào những tình huống thực tế cũng như trong công việc học tập hàng ngày. Bạn và tôi, chúng ta buộc phải tự tìm con đường chinh phục "bản đồ tư duy" cho riêng mình. Chính vì thế, cuốn sách "Ứng dụng bản đồ tư duy trong học tập" được thực hiện để trang bị cho bạn những chỉ dẫn cụ thể và chi tiết nhất để bạn có thể dễ dàng ứng dụng trong học tập và thi cử. Không chỉ thế, cuốn sách còn cung cấp những phương án tiếp cận và sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả theo sở thích, nhu cầu và mục tiêu của riêng cá nhân bạn. Hãy tự tin đọc và áp dụng ngay các bí quyết được trình bày trong cuốn sách nhỏ gọn nhưng rất thực tế này, và bạn sẽ thấy kết quả học tập của mình tiến bộ từng ngày! *** Suốt hàng thập kỷ qua, bản đồ tư duy là một trong số ít những công cụ “vạn năng” mà bạn có thể sử dụng hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống thường nhật, đặc biệt trong học tập. Rồi bạn sẽ thấy, bất kể sở thích của bạn là gì, nhu cầu của bạn ra sao và mục tiêu của bạn thế nào, bản đồ tư duy đều có thể hỗ trợ bạn học tập tốt hơn với ít thời gian và ít vất vả hơn. Thuật ngữ “bản đồ tư duy” chắc hẳn không còn xa lạ với chúng ta. Ngày nay, chỉ cần bước ra hiệu sách, bạn sẽ tìm được vô số những cuốn sách hướng dẫn về kỹ thuật ghi chép cực kỳ thông minh này. Nhưng bạn học được thực sự bao nhiêu từ vô vàn cuốn sách đó? Cuốn sách Ứng dụng bản đồ tư duy trong học tập ra đời với mục đích cốt lõi là trang bị cho bạn những chỉ dẫn, hướng dẫn cụ thể cũng như chi tiết nhất bạn có thể dễ dàng ứng dụng trong học tập và thi cử. Đồng thời cung cấp cho bạn những phương án tiếp cận và sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả theo sở thích, nhu cầu và mục tiêu của riêng bạn, vì chúng ta đều hiểu rằng, mỗi người là một cá nhân khác biệt và độc đáo. Hãy áp dụng những gì bạn đọc được từ cuốn sách này vào học tập. Bạn sẽ thấy thật dễ dàng vì mọi điều đã được hướng dẫn hết sức chi tiết và tỉ mỉ rồi! Và hãy bắt đầu ngay bây giờ. Càng bắt đầu sớm bao nhiêu, bạn càng nhanh chóng sử dụng thành thạo bản đồ tư duy bấy nhiêu, và kết quả là, thành tích học tập của bạn sẽ càng tăng nhanh. Bạn và tôi, chúng ta hãy cùng tìm con đường chinh phục “bản đồ tư duy” cho riêng mình. *** Bản đồ tư duy là gì? B ản đồ tư duy là kỹ thuật ghi chép sử dụng từ khóa, ý tưởng, màu sắc, hình ảnh,... để thể hiện trong một sơ đồ. Bản đồ tư duy được trình bày với từ khóa của ý tưởng chính đặt tại trung tâm và các chủ đề phụ tỏa ra xung quanh. Chủ đề phụ bao gồm những ý tưởng tương đương nhau, các ý tưởng này lại phân nhánh thành những chủ đề nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa đến bất cứ mức nào tùy vào mạch suy nghĩ của bạn. Bản đồ tư duy không phải một khái niệm mới. Trên thực tế, kỹ thuật ghi chép này đã xuất hiện cả ngàn năm trước và được những bậc thầy như Leonardo da Vinci hay Picasso sử dụng. Đến những năm 1960 và 1970, Tony Buzan đã hệ thống hóa và giới thiệu kỹ thuật này khắp thế giới. Tony Buzan bắt đầu làm việc với kỹ thuật ghi chép thông minh này khi ông nghiên cứu về tâm lý học, thần kinh học, ngôn ngữ tư duy, ngữ nghĩa học, khả năng nhận thức và khoa học cơ bản. Ông mau chóng nhận ra rằng não bộ của con người có hiệu suất mạnh hơn máy tính cả triệu lần nhưng chúng ta lại chưa có chỉ dẫn đầy đủ nào để tận dụng khả năng của nó. Ông được công nhận như một trong những chuyên gia giáo dục đầy tài năng sau khi xuất bản nhiều đầu sách về chủ đề liên quan tới bộ não con người, khả năng sáng tạo và phương pháp học tập thông minh. 2. Tại sao bản đồ tư duy lại hiệu quả? Thấu hiểu giới hạn bộ não của bạn Chúng ta thường tự nhận định bản thân là người thuận não trái hay não phải, nhưng sự thực, chúng ta sử dụng cả hai bán cầu não cho nhiều mục đích khác nhau. Chẳng hạn như, khi gặp những công việc đòi hỏi khả năng ngôn ngữ và tư duy logic, bạn sẽ tự động vận dụng cả hai bán cầu não. Tuy nhiên, bán cầu não phải, trung khu phụ trách diễn giải ý nghĩa màu sắc, hình ảnh, nhận thức và trí tưởng tượng liên quan nhiều tới khả năng sáng tạo hơn. Vì khuynh hướng tự nhiên của bộ não là hoạt động bán cầu này mạnh hơn bán cầu kia, nên chúng ta thường phải vật lộn trong việc phối hợp cả hai bán cầu não. Hơn nữa, bộ não chúng ta cần tác động nào đó mới có thể đưa thông tin từ khu vực trí nhớ ngắn hạn/tạm thời sang khu vực trí nhớ dài hạn/vĩnh viễn. Vì thế, nếu không chú trọng tới nội dung ghi nhớ, bộ não của chúng ta sẽ “hủy” thông tin đó để dành chỗ cho những tin tức mới. Biểu đồ dưới đây thể hiện tốc độ não bộ lãng quên của nhà tâm lý học Hermann Ebbinghaus, chúng ta sẽ thấy tốc độ não loại bỏ tin tức nhanh như thế nào khi chúng ta không chuyển được thông tin đó vào bộ nhớ dài hạn. a Cứ thế, chỉ sau gần một năm, lượng thông tin chúng ta ghi nhớ được gần như bằng không. Não bộ của chúng ta không được thiết kế để lưu trữ tất cả thông tin chúng ta được cung cấp. Hạn chế này không nên là lý do cản trở năng lực học tập và xử lý kiến thức của bạn. Chúng ta hoàn toàn có thể rèn luyện để thúc đẩy khả năng hoạt động của não, và bạn chỉ cần sử dụng đúng công cụ mà thôi. Các chỉ dẫn khoa học Khi não bạn tạo ra một ý nghĩ, ý nghĩ đó sẽ hình thành một đường kết nối các tế bào thần kinh tựa như một lòng sông. Chúng ta đều biết, khi nước chảy ngập, con sông sẽ không bị tù đọng, khô cạn, thậm chí biến mất. Đường dẫn tế bào thần kinh của bạn cũng vậy. Có vô vàn những hội thảo khoa học tuyên bố rằng, nếu bạn lặp đi lặp lại một thông tin đủ nhiều, thông tin đó sẽ nằm trong bộ nhớ dài hạn. Theo lẽ đó, nếu bạn ứng dụng bản đồ tư duy thường xuyên, bạn sẽ bắt đầu tạo được nhiều kết nối chưa từng xuất hiện trong não bộ và tăng cường năng lực tư duy của bạn lên rất nhiều. Thực tế, nếu trải dài toàn bộ số kết nối mà bộ não con người có thể tạo được, độ dài có thể xấp xỉ năm mét. Nhưng não không phải một đường thẳng, những ý nghĩ của chúng ta tự do chảy trôi không theo nguyên tắc nào và thường trở nên lộn xộn. Bên cạnh đó, ý nghĩ của chúng ta có xu hướng xuất hiện dưới dạng hình ảnh. Chính vì thế, bản đồ tư duy được tạo ra để mô phỏng những dòng suy nghĩ chảy trôi tự do trong não bạn, từ đó giúp bạn ghi nhớ lâu hơn. Bản đồ tư duy có thể được trình bày bằng ít hay nhiều màu sắc và được cấu tạo theo cách thức hỗ trợ bạn khai thác ý tưởng và suy nghĩ. Não bộ sẽ dễ dàng nhận dạng những hình ảnh này và cần ít hoạt động để xử lý hơn. Các nhà khoa học đã chứng minh được rằng, dù hai bán cầu não của con người hoạt động thống nhất với nhau nhưng lại được tổ chức khác nhau. Nhiều bộ não thiên về sử dụng và bồi dưỡng bán cầu này hơn bán cầu kia; dù vậy, điều tốt nhất bạn nên làm là luyện rèn toàn bộ não. Mời các bạn đón đọc Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Trong Học Tập của tác giả 1980 Books.
Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo
Cảm hứng là có thật, nhưng nó chỉ đến khi ta làm việc. - Pablo Picasso Pablo Picasso là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất thế kỉ XX với nhiều tác phẩm đắt giá. Theo các nhà thống kê, ông có tới 26.075 tác phẩm được trưng bày, xuất hiện trước công chúng (chưa tính tới những tác phẩm chưa được tìm thấy hoặc công bố). Thử thực hiện một phép tính đơn giản, Picasso sống đến 91 tuổi, vị chi là 33.403 ngày. Nếu so sánh với số tác phẩm được công chúng biết tới ở trên thì trung bình mỗi ngày ông lại sáng tạo thêm được một tác phẩm mới, tính từ khi ông 20 tuổi cho đến tận lúc qua đời. Nói một cách đơn giản thì Picasso đã sáng tạo không ngừng nghỉ mỗi ngày, trong liên tục 71 năm. Picasso chính là ví dụ sinh động cho thấy khả năng sáng tạo vô hạn của con người, cùng nỗ lực không ngừng để vượt qua giới hạn của bản thân. Bạn có biết ngọn nguồn của mọi sự sáng tạo đều nằm trong chính con người chúng ta, nó vẫn ở yên đó chờ được chúng ta thức tỉnh? Trong cuốn sách Thói quen làm nên sáng tạo, tác giả Twyla Tharp, một biên đạo múa tài năng bậc nhất nước Mỹ, đã cho chúng ta thấy tiềm lực phi thường của con người trong việc đánh thức khả năng sáng tạo. Thông qua những câu chuyện làm nghề, quan điểm triết học sâu sắc và hiểu biết rút ra từ cuộc sống hằng ngày, bà đã chứng minh được rằng sáng tạo không phải là năng lực do Chúa trời ban tặng mà nó là cốt tủy được hình thành từ sự kỷ luật, gian khổ rèn luyện để hình thành những thói quen làm nên sáng tạo. Hãy đọc sách để thấy thành công luôn bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất và sáng tạo chỉ đến khi được đầu tư công sức và thời gian theo đúng nghĩa. Trân trọng giới thiệu đến bạn cuốn sách vô cùng hữu ích này!   ** Twyla Tharp, một trong những biên đạo múa vĩ đại nhất nước Mỹ, bắt đầu sự nghiệp từ năm 1965 và đến nay, bà đã dàn dựng hơn 130 vở múa cho vũ đoàn của mình, cũng như cho Vũ đoàn Ba lê Joffrey, Vũ đoàn Ba lê New York, Vũ đoàn Ba lê Opera Paris, Vũ đoàn Ba lê Hoàng gia London và Nhà hát Ba lê Mỹ. Sử dụng âm nhạc của tất cả tác giả từ Bach, Beethoven và Mozart đến Jelly Roll Morton, Frank Sinatra và Bruce Springteen, bà là người tiên phong trong việc kết hợp múa hiện đại và ba lê với âm nhạc đại chúng. Trong lĩnh vực điện ảnh, bà từng cộng tác với Milos Forman trong phim Hair, Ragtime và Amadeus. Trong lĩnh vực truyền hình, bà chỉ đạo chương trình Baryshnikov by Tharp từng giành được hai giải Emmy. Trên sân khấu Broadway, bà đã đạo diễn phiên bản nhà hát của vở Singin’ in the Rainvà đến năm 2003, bà giành giải Tony cho vở Movin’ Out, tác phẩm bà tự tay dàn dựng, đạo diễn và biên đạo trên nền các bài hát của Billy Joel. Bà cũng từng nhận giải thưởng MacArthur Fellowship. Năm 1993, bà được kết nạp vào Viện Nghệ thuật và Khoa học Mỹ. Năm 1997, bà trở thành thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Bà đã nhận được 18 học vị tiến sĩ danh dự. Bà sống và làm việc ở thành phố New York. Mark Reiter đã cộng tác để cho ra đời 12 cuốn sách, tính cả Thói quen làm nên sáng tạo. Ông cũng là đại diện cho các tác giả tại Bronxville, New York. *** Tôi bước vào một căn phòng trắng Tôi bước vào một phòng tập nhảy nằm ở trung tâm Manhattan. Đó là căn phòng trắng rộng lớn. Tôi mặc một chiếc áo nỉ cùng cái quần jeans bạc phếch và đi đôi giày thể thao Nike. Bao quanh bốn bức tường là những tấm gương cao gần hai mét rưỡi. Một chiếc đài nằm trong góc. Sàn nhà sạch trơn, không vương tì vết, nếu không tính hàng nghìn vệt miết cùng dấu chân còn lưu lại sau những buổi tập của các vũ công. Ngoài mấy tấm gương, chiếc đài, những vệt miết và tôi, căn phòng hoàn toàn trống trải. Năm tuần nữa, tôi sẽ bay tới Los Angeles cùng một nhóm sáu vũ công để tham gia sô diễn kéo dài tám đêm liên tiếp trước 1.200 khán giả mỗi tối. Đó là nhóm nhảy của tôi. Tôi là một biên đạo múa. Tôi đã có trong tay một nửa chương trình – một vở ba lê kéo dài 50 phút cho toàn bộ sáu vũ công trên nền bản xô-nát số 9 của Beethoven dành cho đàn piano, bản “Hammerklavier”. Tôi đã sáng tác tiết mục này từ hơn một năm trước và đã dành mấy tuần vừa qua để luyện tập với cả nhóm. Nửa còn lại của chương trình vẫn còn là một ẩn số. Tôi không biết mình sẽ sử dụng bản nhạc nào. Tôi không biết mình sẽ làm việc với vũ công nào. Tôi còn chưa có ý tưởng về trang phục, thiết kế ánh sáng, hay nhạc công. Tôi cũng chưa nắm được thông tin về thời lượng của tiết mục, dù nó phải đủ dài để lấp đầy nửa còn lại của chương trình và mang đến cho khán giả thứ họ xứng đáng được nhận. Thời lượng của tiết mục sẽ quyết định khoảng thời gian tập luyện mà tôi cần. Thời gian này bao gồm việc liên lạc với vũ công, lên thời gian biểu tại phòng tập và khởi động quá trình luyện tập – tất cả đều dựa trên sự sáng tạo của tôi ở căn phòng trắng trống trơn này trong vài tuần tới. Các vũ công mong mỏi tôi sẽ thành công vì vũ đạo của tôi chính là sinh kế của họ. Các đại diện ở Los Angeles cũng kỳ vọng điều tương tự vì họ đã bán ra rất nhiều vé cùng lời hứa hẹn rằng khán giả sẽ được chứng kiến điều mới lạ và lý thú từ bàn tay tôi. Chủ rạp cũng mong như thế; vì nếu tôi không tới, rạp hát của ông ấy sẽ trống trơn suốt cả tuần. Như vậy là có rất nhiều người, bao gồm cả những người tôi còn chưa gặp bao giờ, đang gửi gắm niềm tin vào khả năng sáng tạo của tôi. Nhưng ngay lúc này, tôi không hề nghĩ tới những chuyện ấy. Tôi đứng trong một căn phòng với nghĩa vụ phải sáng tác ra tiết mục múa thật đặc sắc. Các vũ công sẽ có mặt ở đây chỉ trong vài phút nữa. Chúng tôi sẽ phải làm gì? Đối với một số người, căn phòng trống biểu trưng cho thứ gì đó sâu sắc, huyền bí và đáng sợ: Nhiệm vụ khởi đầu từ hai bàn tay trắng và nỗ lực để kiến tạo nên cái gì đó trọn vẹn, đẹp đẽ và viên mãn. Nó cũng không khác gì việc một nhà văn mở ra một trang soạn thảo trắng trên máy tính của mình; hay một họa sĩ đối mặt với tấm toan trống trơn; một nghệ sĩ điêu khắc trân mắt nhìn một tảng đá thô; một nhạc sĩ ngồi trước cây đàn piano, ngón tay bâng quơ lướt trên những phím đàn. Một số người cảm thấy khoảnh khắc này – khoảnh khắc trước khi sự sáng tạo khởi phát – quá đỗi đau đớn tới độ họ không tài nào đối mặt nổi với nó. Họ đứng dậy và rời bỏ chiếc máy tính, tấm toan, cây đàn; họ đánh một giấc, đi mua sắm, nấu bữa trưa hoặc làm đủ mọi việc lặt vặt trong nhà. Họ trì hoãn. Trong hình thái cực đoan nhất, nỗi kinh hoàng ấy khiến con người ta tê liệt hoàn toàn. Khoảng không trống vắng có lẽ chỉ tầm thường vậy thôi. Nhưng tôi đã đối mặt với nó trong suốt cuộc đời làm nghệ thuật. Đó là công việc của tôi. Đó cũng là sự nghiệp của tôi. Nói tóm lại: Việc lấp đầy khoảng không trống trơn đó đã giúp tôi tạo dựng được tên tuổi cho mình. Tôi là một vũ công kiêm biên đạo múa. Trong 35 năm qua, tôi đã sáng tác 130 vở múa và ba lê. Một số vở tốt, số khác lại dở tệ. Tôi đã làm việc với các vũ công ở hầu hết mọi không gian và môi trường mà các bạn có thể tưởng tượng ra. Tôi đã tập dượt trên đồng cỏ. Tôi đã kinh qua hàng trăm phòng tập, một số phòng rất xa hoa bởi chính sự mộc mạc chân phương và rộng lớn của nó; nhiều phòng thì bẩn thỉu, đầy sỏi sạn rác rưởi, chuột chạy rầm rập quanh bốn chân tường. Tôi đã làm việc tám tháng trời tại một phim trường ở Prague, biên đạo các bài múa và chỉ đạo các cảnh opera cho bộ phim Amadeus (tạm dịch: Sự đố kỵ của thiên tài) của Milos Forman. Tôi đã tổ chức dàn dựng các cảnh quay dùng ngựa trong Công viên Trung tâm của thành phố New York cho phim Hair (tạm dịch: Mái tóc). Tôi đã làm việc với các vũ công đến từ các nhà hát ở London, Paris, Stockholm, Sydney và Berlin. Tôi đã điều hành công ty của riêng mình suốt ba thập kỷ. Tôi đã sáng tác và đạo diễn một sô diễn rất thành công ở Broadway. Tôi đã làm việc chăm chỉ trong nhiều năm và không ngừng sáng tạo đến mức tới thời điểm này, tôi không chỉ thấy thách thức và lo lắng, mà còn có cảm giác bình yên và hứa hẹn khi đứng trước một căn phòng trắng trống trải. Nó đã trở thành mái nhà của tôi. Sau rất nhiều năm, tôi đã học được rằng sáng tạo là một công việc toàn thời gian với những mô thức thường nhật của riêng nó. Đó là lý do tại sao các nhà văn, chẳng hạn, thích thiết lập các nền nếp cho chính mình. Những người làm việc năng suất nhất bắt đầu công việc từ sáng sớm, khi không gian yên ắng, chuông điện thoại chưa reo và tâm trí họ đang tĩnh tại, tỉnh táo, chưa bị vẩn đục vì lời ra tiếng vào của mọi người. Có thể họ sẽ đặt cho mình một mục tiêu – viết 1.500 chữ, hoặc ngồi trước bàn làm việc cho tới trưa – nhưng bí mật thực sự nằm ở chỗ họ làm việc đó hằng ngày. Nói cách khác, họ có kỷ luật. Theo thời gian, khi nền nếp thường nhật dần biến thành bản năng thứ hai, kỷ luật cũng thay hình đổi dạng thành thói quen. Thực tế này đúng với mọi cá nhân hoạt động sáng tạo, dù đó là một họa sĩ bước tới trước giá vẽ vào mỗi sáng, hay một nhà nghiên cứu y khoa đến phòng thí nghiệm hằng ngày. Nền nếp cũng đóng vai trò ngang ngửa như tia chớp cảm hứng lóe lên trong quá trình sáng tạo, thậm chí còn lớn hơn. Và ai cũng có thể tự thiết lập nền nếp. Sáng tạo không chỉ là đặc sản của riêng các nghệ sĩ. Nó cũng cần thiết với các doanh nhân đang tìm kiếm những phương thức mới để hoàn tất thương vụ; nó là liều thuốc hữu hiệu cho các kỹ sư đang cố gắng giải quyết vấn đề; nó là yếu tố giúp các bậc cha mẹ muốn con cái mình nhìn nhận thế giới theo nhiều phương diện khác nhau. Trong bốn thập kỷ vừa qua, ngày nào tôi cũng bận bịu với một cuộc rượt đuổi sáng tạo đủ hình đủ dạng, trong cả công việc lẫn đời sống cá nhân. Tôi đã trăn trở rất nhiều về vấn đề thế nào là sáng tạo và làm thế nào để sáng tạo hiệu quả. Tôi cũng học được từ những kinh nghiệm đau thương, qua những lần sáng tạo theo cách tồi tệ nhất. Tôi sẽ tiết lộ cho các bạn cả hai điều nói trên. Và tôi sẽ đưa ra bài tập thách thức một số giả định về sáng tạo của bạn – để buộc các bạn cố gắng thêm, mạnh mẽ lên, bền bỉ hơn. Nói cho cùng, bạn luôn tập giãn cơ trước khi chạy bộ, khởi động trước khi tập thể hình, tập luyện trước khi chơi. Các hoạt động trí não cũng tương tự như vậy. Tôi sẽ nhấn mạnh luận điểm cho rằng khả năng sáng tạo được bồi đắp từ nền nếp và thói quen. Hãy tập làm quen với nó. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy sự mâu thuẫn mang tính triết học liên tục xuất hiện. Đó là cuộc tranh cãi bất tận, có từ thời kỳ Lãng mạn,1 giữa hai đức tin cho rằng mọi hoạt động sáng tạo đều xuất phát từ (a) một tác động ngẫu nhiên cao siêu, vô phương biện giải của cảm hứng, một nụ hôn Chúa Trời đặt lên trán bạn, cho phép bạn trao tặng Cây sáo thần cho thế giới này, hoặc (b) lao động chăm chỉ. 1 Ý chỉ giai đoạn sau năm 1789, sau khi Cách mạng tư sản Pháp đánh đổ chế độ phong kiến (Mọi chú thích trong tác phẩm đều là của người dịch). Nếu ý tứ còn chưa đủ rõ ràng, tôi xin nói tôi thiên về hướng lao động chăm chỉ. Đó là lý do tại sao cuốn sách này có tựa đề Thói quen làm nên sáng tạo. Sáng tạo là một thói quen, và sự sáng tạo đỉnh cao là kết quả của những thói quen lao động tích cực. Nói tóm lại là thế. Bộ phim Amadeus (và vở kịch của Peter Shaffer, nền tảng của bộ phim) đã kịch tính hóa và lãng mạn hóa căn nguyên siêu phàm của các thiên tài sáng tạo. Antonio Salieri, trong vai nhà soạn nhạc tài năng chuyên nghề viết mướn, bị trời đày phải sống cùng thời với Mozart, người có tài năng thiên bẩm cùng tính tình vô tổ chức, luôn sáng tác như thể có bàn tay của Chúa Trời chạm vào. Salieri nhận thức rõ tầm vóc thiên tư của Mozart, và vô cùng đau khổ vì nghĩ Chúa đã chọn một kẻ khốn nạn làm nơi ký thác sức sáng tạo thần thánh của Người.   Mời các bạn đón đọc Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo của tác giả Twyla Tharp.