Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco

Cuốn sách Bọn rợ rình ở cổng là câu chuyện có thật về cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh quy và Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và RJ Reynolds. Nội dung chính nói về việc mua lại có đòn bẩy (LBO) của tập đoàn RJR Nabisco với nhịp độ nhanh chóng và chi tiết, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Cuốn sách thể hiện lòng tham đáng kinh ngạc của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông… Việc mua lại diễn ra được mở đầu bằng một cuộc chiến đấu thầu giữa ban lãnh đạo (do CEO Ross Johnson dẫn đầu), KKR, công ty cổ phần tư nhân lâu đời, và một số người chơi “nhỏ hơn”. Việc mua lại có đòn bẩy thường khiến công ty bị mua lại phải gánh rất nhiều nợ, đòi hỏi các nhà quản lý phải cắt giảm chi phí (thường bao gồm cả nhân sự) – đó là lý do tại sao những điều này không được nhân viên, công chúng và giới báo chí ưa chuộng. Khoản mua lại trị giá 25 tỷ đô la này, mà cuối cùng KKR đã giành được bởi cũng không khác gì, đặc biệt vì đây là LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Những người phản đối nỗ lực mua lại công ty của Johnson, Henry Kravis và anh họ của ông ta là George R. Roberts, là những người tiên phong trong việc mua lại có đòn bẩy (LBO). Kravis là người đầu tiên mà Johnson nói chuyện về việc thực hiện LBO và cảm thấy bị phản bội sau khi biết rằng Johnson muốn thực hiện thỏa thuận với một công ty khác, bộ phận Shearson Lehman Hutton trước đây của American Express. Ted Forstmann và công ty mua lại Forstmann Little của ông cũng đóng một vai trò quan trọng. Khi lên nắm quyền điều hành RJR Nabisco và thấy giá cổ phiếu của công ty đang trì trệ, Ross Johnson đã tìm cách để có được giá trị lớn hơn cho các cổ đông của mình và cuối cùng đã được các cố vấn ngân hàng đầu tư (của Lehman Brothers) thuyết phục rằng ông nên thực hiện một vụ mua lại có đòn bẩy. Và ngay sau khi giá thầu được công bố, các nhà thầu cho công ty đã xuất hiện. KKR đã trở thành con mồi đầu tiên của LBO. Hầu như tất cả các ngân hàng đầu tư lớn đều tham gia với tư cách là cố vấn cho thương vụ này. Một số nhân vật quan trọng trong giới tài chính xuất hiện. Bruce Wasserstein, CEO của Lazard đã tham gia, cùng với Joe Perella, Eric Gleacher, Tom Hill.   Sau khi Kravis và Johnson không thể dung hòa được sự khác biệt của họ, một cuộc chiến đấu thầu đã diễn ra mà cuối cùng Johnson sẽ thua. Tác dụng phụ đáng tiếc của việc tăng giá mua đối với các cổ đông là tạo ra mức nợ đáng lo ngại cho công ty. Cuốn sách bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco. Sau đó, nó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật.   Đánh giá của chuyên gia, tổ chức uy tín về cuốn sách cùng các giải thưởng  “Một trong những cuốn sách kinh doanh tuyệt vời nhất từng được biết tới…” — Joe Nocera, New York Times “Một tác phẩm xuất sắc, tái hiện câu chuyện với quy mô ấn tượng… Lối viết hoa mỹ… bố cục chặt chẽ từ đầu đến cuối.” — Scot J. Paltrow, Los Angeles Times Book Review “Nội dung rất ấn tượng… bối cảnh đặc sắc… một tác phẩm có chất liệu điện ảnh nhưng cũng là cuốn sách được viết cực kỳ công phu.” — KeN auletta, New York Daily News “Thật khó để hình dung ra một cuốn sách hay hơn, lột tả hết bản chất của bối cảnh kinh tế những năm 1980… và cũng khó tưởng tượng ra một ai đó có tài viết lách hơn Burrough và Helyar.” — Bill BarNhart, Chicago Tribune *** Hẳn là nhiều người vẫn còn nhớ đến cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh kẹo và thuốc lá Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và thuốc lá RJ Reynolds gây rúng động Phố Wall hơn 30 năm về trước. Việc sáp nhập bắt đầu với quyết định thực hiện mua lại có đòn bẩy (LBO - Leveraged Buyout) của CEO Ross Johnson và kết thúc với chiến thắng trị giá 25 tỷ đô la của công ty cổ phần tư nhân lâu đời KKR, LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Toàn bộ những diễn biến của thương vụ đình đám này được Bryan Burrough và John Helyar tái hiện một cách hết sức chân thật trong cuốn tiểu thuyết kinh doanh kinh điển Bọn Rợ Rình Trước Cổng. Đây là cuốn sách đầu tiên cho chúng ta thấy rõ thực hư về những sự kiện gây chấn động một thời, nó đã được chuyển thể thành phim chiếu trên kênh HBO vào năm 1993 và phim tài liệu chiếu trên kênh History vào năm 2002.  Bằng sự chuyên nghiệp và thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự, tính chính xác khi làm việc cho tờ Wall Street Journal, hai tác giả đã không bỏ sót bất cứ chi tiết nào dù là nhỏ nhất, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như những bí mật trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco, sau đó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật, cuốn sách này sẽ khiến chúng ta phải kinh ngạc vì những mánh khóe, thủ đoạn, lòng tham không đáy của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông…  Được New York Times Book Review đánh giá là “Một trong những bản tường thuật hay nhất, hấp dẫn nhất về những gì đã xảy ra với các công ty Mỹ và Phố Wall vào những năm 1980”, qua cuốn sách, độc giả sẽ hiểu rõ hơn về các rủi ro khi thực hiện LBO, những sai lầm có thể khiến cả doanh nghiệp lớn sụp đổ trong nháy mắt. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Không những vậy, thất bại của CEO Ross Johnson và hàng loạt nhân vật tiếng tăm trong giới kinh doanh đã trở thành những tấm gương, những bài học đắt giá về cái tâm, cái tầm của các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới. Bài học thứ nhất: Bất kỳ thành quách kiên cố nào cũng đều có thể bị phá huỷ từ bên trong, và người dễ dàng làm điều đó nhất, ít bị đề phòng nhất chính là lãnh đạo, chỉ huy của tòa thành ấy. Việc trao quyền cho nhầm người khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả sẽ là nguy cơ tiềm ẩn khôn lường cho doanh nghiệp. Bài học thứ hai: Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Khi người lãnh đạo có được những thứ mình muốn quá dễ dàng thì sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào trong những mưu toan, thủ đoạn trục lợi. Vì thế cuốn sách này sẽ bài học về quản trị nhân sự, tuyển dụng nhân tài sao cho vừa phù hợp, vừa hiệu quả, vừa bền vững. Bài học thứ ba: Thành công của một lãnh đạo không chỉ là xây dựng và phát triển một đội ngũ đủ sức đạt được những thành tích xuất sắc trong nhiệm kỳ của mình mà còn phải tạo ra những người lãnh đạo kế nhiệm đủ tầm khác. Bài học thứ tư: Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn trong một doanh nghiệp. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp của Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. Bài học thứ năm: Cần hơn nữa những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Bọn Rợ Rình Trước Cổng - Bài học đắt giá giành cho những nhà quản lý Đây không chỉ là cuốn sách khiến người đọc phải ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách những người lãnh đạo doanh nghiệp đang trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả nhất định không thể bỏ qua.  *** Bryan Burrough là đặc phái viên của Vanity Fair và cựu phóng viên của The Wall Street Journal, ông đã báo cáo về nhiều chủ đề, bao gồm các sự kiện dẫn đến cuộc chiến ở Iraq, sự mất tích của Natalee Holloway và vụ Anthony Pellicano. Bryan còn là tác giả của nhiều bài phê bình sách và bài báo trên The New York Times, Los Angeles Times và Washington Post. John Helyar là một nhà báo và tác giả người Mỹ. Ông tốt nghiệp Đại học Boston và đã làm việc cho The Wall Street Journal, Fortune, ESPN.com, ESPN The Magazine và Bloomberg News. Bài viết của ông và Bryan Burrough về RJR Nabisco đã mang về cho cả hai giải thưởng danh giá Gerald Loeb. *** LỜI GIỚI THIỆU cho bản tiếng Việt 1 Bất kỳ thành quách hay pháo đài kiên cố nào cũng đều có thể bị phá hủy từ bên trong. Và người thuận lợi nhất, dễ dàng nhất, ít bị đề phòng nhất để phá hủy lại chính là người lãnh đạo của cái pháo đài ấy. Đây không chỉ là cuốn sách để người đọc ồ à ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách khiến những người lãnh đạo doanh nghiệp như chúng ta nhức nhối và trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả (corporate governance). Trăm năm là rất dài. Nhưng trăm năm dường như vẫn là chưa đủ để tích lũy độ dày cần thiết giúp cái vỏ trứng mong manh có thể chống chọi được những sự phá hoại từ bên trong. Những câu chuyện “chất như nước cất” về quá trình khởi nghiệp, tạo dựng và phát triển của các đế chế hàng đầu thế giới như Reynolds trong ngành thuốc lá hay Nabisco trong ngành bánh kẹo có lẽ sẽ là động lực hừng hực cho những chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhưng câu chuyện về sự sụp đổ nhanh chóng của những đế chế trăm năm ấy chỉ trong một thời gian rất ngắn có thể làm cho lãnh đạo của những tập đoàn lớn nhiều nghìn tỷ chúng ta lạnh lưng rợn gáy. Việc cho phép những công cụ tài chính nguy hiểm được hoạt động thiếu kiểm soát lại là trách nhiệm và bài học nhức nhối cho những người quản lý nhà nước. Nhưng trao quyền nhầm người trong khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả có lẽ là nguyên nhân lớn nhất. 2 Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Có lẽ với một số độc giả, Ross Johnson cũng sẽ là một nhà quản lý hiệu quả nếu được sử dụng ở đúng vai trò, vị trí và kèm với một số cơ chế kiểm soát phù hợp. Khi trái ngọt đến quá dễ dàng thì người ta sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào những thủ đoạn chính trị nội bộ, những mua chuộc dối trá và những ê kíp đoàn kết nhất trí ru ngủ… Cuốn sách này vì thế cũng là một bài học về quản trị nhân sự. Tuyển dụng và phát triển nhân tài như thế nào để vừa phù hợp, vừa hiệu quả và bền vững không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Không phải cứ nhanh hơn là hay hơn. Không phải cứ trao quyền là tốt hơn. Không hẳn cứ trọng dụng là tiến bộ hơn. Đúng người (Who), đúng việc (What) nhưng còn phải đúng cách (How) nữa. Và cũng vì thế nên trách nhiệm quản trị nhân sự không phải là của trưởng phòng hay giám đốc nhân sự. Trách nhiệm ấy là của Ban điều hành, Hội đồng quản trị và cả Đại hội đồng cổ đông. Đặc biệt là với những nhân sự nòng cốt. 3 Thành công của một lãnh đạo không chỉ giới hạn trong việc xây dựng, phát triển và lãnh đạo đội ngũ đủ sức đạt được những kết quả hoạt động mong đợi trong nhiệm kỳ của mình. Thành công của lãnh đạo còn được đánh giá bởi kết quả của sự chuẩn bị lực lượng kế thừa đủ chất lượng, đủ sức lãnh đạo tổ chức thành công trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Trách nhiệm của người lãnh đạo không phải là tạo ra những người đi theo: Họ cần tạo ra những người lãnh đạo đủ tầm khác. Nhìn từ góc độ này, những người lãnh đạo tiền nhiệm của Ross Johnson tại các doanh nghiệp liên quan đều là những người lãnh đạo tồi, cho dù tính cách và phong cách lãnh đạo của mỗi người đều rất khác nhau. 4 Muốn hủy diệt một quốc gia, hãy lấy hết đất đai của họ. Nhưng muốn hủy diệt một dân tộc, chỉ cần làm ô nhiễm hay pha loãng văn hóa của họ. Trong doanh nghiệp cũng vậy. Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn của doanh nghiệp ấy. Cuốn sách chia sẻ những câu chuyện tuyệt vời về sức mạnh vô địch của văn hóa doanh nghiệp. Không có một văn hóa đủ mạnh thì chắc là cả Nabisco lẫn Reynolds đã sớm chìm vào dòng lịch sử chứ không thể sừng sững với thời gian như vậy. Văn hóa của một tổ chức không phải là thứ mà họ tuyên bố hay tuyên truyền. Văn hóa ấy được bắt nguồn từ những người lãnh đạo cao nhất và thấm nhuần vào suy nghĩ, hoạt động cũng như hành vi hằng ngày của tất cả các cấp lãnh đạo và nhân viên của tổ chức ấy. Văn hóa ấy không nhất thiết phải là “tốt” dưới con mắt của cộng đồng xã hội. Nhưng nhất thiết phải phù hợp với đặc tính ngành nghề, bổ trợ cho sự phát triển của tổ chức và tăng cường gắn kết với những người quan trọng cần thiết cho sự thành công của tổ chức: cổ đông, nhân viên và khách hàng. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp ở doanh nghiệp thuốc lá Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. 5 Kết cục đau thương cho những thương hiệu hàng đầu trong câu chuyện đặt ra câu hỏi nhức nhối về công thức truyền thừa của các tổ chức: Làm sao để trường tồn? Văn hóa mạnh: Đúng rồi. Nhưng sẽ đến lúc chính văn hóa ấy cản trở doanh nghiệp thay đổi và phát triển. Lãnh đạo tâm - tầm - tài: Đúng rồi. Nhưng lãnh đạo nào rồi cũng sẽ ra đi, mà có phải lãnh đạo nào cũng minh mẫn suốt đời đâu. Có lẽ sẽ cần hơn nữa những sự cảm nhận và thôi thúc sứ mệnh, những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và sự bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Nhưng khổ nỗi, tất cả những điều ấy đều đến từ hay bị điều chỉnh bởi lãnh đạo. Làm sao để kiểm soát được lãnh đạo, hoặc ít nhất để lãnh đạo tự kiểm soát được chính mình, thì chỉ có những người tạo ra lãnh đạo trả lời được mà thôi. Vài dòng tâm tư khi đọc cuốn sách Bọn rợ rình trước cổngtrong chuyến đi cứu trợ miền Trung năm 2020. Trần Bằng Việt Chuyên gia tư vấn cao cấp Chủ tịch Giải pháp Phát triển Đông A *** LỜI TÁC GIẢ Năm 1989, chúng tôi viết Bọn rợ rình trước cổng kể về các sự kiện đang diễn ra; bây giờ mọi thứ đã trở thành dĩ vãng. Một số cuốn sách có vòng đời dài hơn các cuốn khác. Chúng tôi nghĩ rằng cuốn sách này là một trong số đó. Nó vẫn được dùng để giảng dạy về nhiều chủ đề cho sinh viên trong các trường đào tạo kinh doanh lớn, từ đạo đức kinh doanh đến nghiệp vụ ngân hàng đầu tư. Năm 1993, cuốn sách được chuyển thể thành phim và chiếu trên kênh HBO. Năm 2002, 14 năm sau khi gây chấn động, cuộc chiến RJR lại được chuyển thể thành một bộ phim tài liệu chiếu trên kênh History. Sự đón nhận này của công chúng là những gì chúng tôi chưa từng dám nghĩ tới khi bắt tay viết cuốn sách. Trên thực tế, mục tiêu chính của chúng tôi chỉ đơn giản là kiểm tra năng lực của chính mình, xem liệu chúng tôi có thể tự viết một cuốn sách hay không; cả hai chúng tôi đều chưa từng thử viết sách. Bọn rợ rình trước cổng cũng không phải là cuốn sách được các nhà xuất bản tranh giành. Trên thực tế, trong số hơn chục nhà xuất bản chúng tôi đã tiếp xúc, chính xác chỉ có nhà xuất bản Harper & Row (nay là nhà xuất bản Harper Collins) tỏ ra quan tâm một chút. Mọi người đã chán ngấy với các câu chuyện xuất hiện nhiều tuần trên những mặt báo về RJR. Còn ai muốn đọc thêm nữa? Là phóng viên của tờ Wall Street Journal, chúng tôi đã cố gắng làm cho Bọn rợ rình trước cổng thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự và tính chính xác mà chúng tôi đã nắm vững khi viết báo. Thật sự, Bọn rợ rình trước cổng sẽ không thể ra đời nếu không có sự khích lệ mà hai biên tập viên của cuốn sách này, Norman Pearlstine và Paul Steiger, dành cho chúng tôi. Không chỉ vậy, chúng tôi còn được nghỉ phép không lương trong tám tháng để thực hiện cuốn sách này. Tháng 10 năm đó, khi câu chuyện về RJR bùng nổ, tôi là phóng viên của Wall Street Journal, tờ báo đầu tiên đưa tin về vụ sáp nhập và mua lại đình đám ở Phố Wall; còn John, sống tại Atlanta, phụ trách viết bài về công ty. Chúng tôi đã cùng nhau viết về mọi ngóc ngách của trận chiến RJR kéo dài sáu tuần. Chỉ đến khi trận chiến kết thúc, chúng tôi mới thống nhất cùng nhau viết sách, thế là chúng tôi gặp nhau. John giơ một cuốn tạp chí Timelên, trên trang bìa là bức ảnh đáng hổ thẹn của Ross Johnson, để tôi có thể nhận ra anh ở sân bay Atlanta. Chúng tôi thường có chút ngại ngùng khi thừa nhận đã nghiên cứu và viết Bọn rợ rình trước cổng trong tám tháng ngắn ngủi, từ tháng Một đến tháng Tám năm 1989. Đó là quãng thời gian buồn vui lẫn lộn với chúng tôi. Tôi sống trong một căn hộ không có điều hòa ở khu phố Park Slope, quận Brooklyn. Tôi đi tàu điện ngầm đến Manhattan để thực hiện sáu cuộc phỏng vấn mỗi ngày; chúng tôi nhất trí với nhau rằng tất cả các cuộc phỏng vấn nên được thực hiện trực tiếp. Buổi tối, tôi trở về nhà, kiểm tra, đối chiếu thông tin và viết lại những ghi chú trong buổi phỏng vấn. Đôi khi, vì trời mùa hè quá nóng, tôi chỉ mặc chiếc quần bơi và áo phông. John phải di chuyển rất nhiều, qua lại giữa Atlanta, Bắc Carolina và New York để khớp nối các câu chuyện về con đường tiến thân đến đỉnh cao quyền lực của Ross Johnson. Chúng tôi làm việc độc lập, trừ khi có các cuộc phỏng vấn quan trọng với chính Johnson, đã có các cuộc phỏng vấn dài không chính thức ở Atlanta và Manhattan, có thêm bánh pizza và nước ngọt. Khi đang viết sách, chúng tôi đã lo rằng câu chuyện về RJR sẽ bị lu mờ bởi một số thương vụ đình đám hơn, khắc nghiệt hơn. Giữa những kẻ tập kích công ty, các nghệ sĩ LBO và những nhà tài phiệt đầu tư vào trái phiếu rác, toàn bộ giới kinh doanh của những năm 1980 như phát điên. Những cuộc đột kích man rợ diễn ra sau Bọn rợ rình trước cổng có thể làm cho trận chiến RJR từ bản anh hùng ca chỉ còn là vài dòng chú thích. (Đó là lý do tại sao Harper muốn ra mắt cuốn sách thật nhanh.) Chúng tôi đã sẵn sàng cho ngày đen tối đó, nhưng nó không bao giờ đến. Hóa ra cuộc chiến giành RJR vừa xác lập và kết thúc một kỷ nguyên. Trong gần một thập kỷ sau đó, vụ trúng thầu trị giá 25 tỷ đô-la của KKR vẫn được xem là thương vụ lớn nhất mọi thời đại. Có một số yếu tố kết hợp với nhau làm giảm quy mô của các giao dịch trong vài năm. Cỗ máy kiếm tiền siêu đẳng đằng sau LBO - trái phiếu rác - đã ngắc ngoải, và có lúc gần như dừng hoạt động. Mike Milken bị bắt giam; Drexel Burnham phá sản, và trong thời kỳ suy thoái đầu thập niên 1990, các công ty ốm yếu sử dụng đòn bẩy quá mức đã gây tiếng xấu cho LBO. Henry Kravis thôi không nhòm ngó các cuộc chơi lớn nữa. Ông ta còn bận với việc chăm sóc sức khỏe và ăn uống - cũng như chuyện nợ nần của RJR. Những ngôi sao khác của Phố Wall trong thập niên 1980, những kẻ từng chinh chiến để giành lấy RJR đã kiêu ngạo quá mức và trở nên quá đỗi nhạt nhòa. John Gutfreund bị hất cẳng vào năm 1991, khi đang là chủ tịch của Salomon Brothers, sau một vụ bê bối giao dịch trái phiếu kho bạc. Chủ tịch Tom Strauss cũng phải từ chức. Ông này từng tham gia với Peter Cohen trong vụ nhập nhèm ở một quỹ phòng hộ. Những người khác cũng chuyển sang các công ty quản lý quỹ, bao gồm Tom Hill ở tập đoàn Blackstone và Steve Waters ở một quỹ đầu tư tư nhân của châu Âu có tên Compass Partners. Nhân vật duy nhất nổi lên như một ngôi sao trong vụ Bọn rợ rình trước cổng là Steve Goldstone. Vị luật sư từng làm cho Ross Johnson cuối cùng đã trở thành CEO của RJR Nabisco. Nhưng ngay cả việc Goldstone leo lên được vị trí này cũng chủ yếu nhờ sự sụp đổ của công ty hùng mạnh một thời. Năm 1999, ông bán Nabisco cho Phillip Morris, thoái vốn khỏi hoạt động kinh doanh thuốc lá quốc tế của RJR, và đưa công ty trở lại điểm xuất phát: một công ty thuốc lá Mỹ có trụ sở tại Winston-Salem, Bắc Carolina. Kohlberg Kravis đã rời khỏi RJR ngay sau đó, với những khoản lợi nhuận khiêm tốn. Nhưng ngay khi những sát thủ Phố Wall của thập niên 1980 lặng lẽ lùi dần vào sau ánh hoàng hôn, họ đã mở ra buổi bình minh của thập niên 1990 thậm chí còn hỗn độn hơn. Ban đầu, các CEO của Mỹ bị sốc và kinh hoàng bởi những gì bọn rợ đã làm, nhưng cuối cùng lại theo chân họ. Từ vụ RJR, họ đã hiểu những gì mà những kẻ giàu sụ dễ dàng kiếm được. Họ bắt đầu lao vào giành lấy phần của mình. “CEO của các tập đoàn đã học được hai điều từ các vụ LBO,” Dick Beattie, người vẫn tiếp tục với các thỏa thuận lớn cho đến những năm 1990, nói. “Trước tiên, cách để có một khối tài sản kếch xù là thông qua sở hữu cổ phần, chứ không phải là dựa vào tiền lương và tiền thưởng, và thứ hai, anh không cần phải làm LBO mới có trong tay cổ phiếu. Anh có thể cho mình quyền mua bán cổ phiếu. Với cách làm phổ biến đó, các CEO của những năm 1990 đã thu về bộn tiền khiến Ross Johnson phải bối rối và lây lan tính tham lam trên cả Phố Main* lẫn Phố Wall. Tính tham lam đó thậm chí còn lây lan đến cả những công ty kế toán vốn ù lì, nay biến thành các công ty tổ chức sòng bạc hơn là làm công việc kiểm toán. “Lỗi là ở các nhân viên ngân hàng đầu tư,” Paul Volcker gào lên. Ông là cựu Chủ tịch Fed, người đã rất nỗ lực giải cứu Arthur Andersen nhưng bất thành trong một vụ bê bối gây nhiều tranh cãi. Lúc ông mới đến Phố Wall vào đầu năm 2002, những tay đầu cơ cổ phiếu ở đây đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đám đông nhân viên kiểm toán thường đội mũ lưỡi trai màu xanh lá cây để che nắng này*. Volcker kể lại: “Các kế toán viên cảm thấy thế này: ‘Chúng ta cũng giỏi như bọn họ, và chúng ta đang làm mọi việc.’ Bầu không khí bao trùm nơi đây là: ‘Tiền ở đó, đến mà lấy.”’ Hãy gọi đó là “chiến thắng của bọn rợ” cho đó là lý do để cuốn sách này vẫn mãi liên hệ đến những con người của hiện tại. Các CEO khét tiếng ngày nay như Dennis Kozlowski và Bernie Ebbers thực sự là những phiên bản Ross Johnson thời hiện đại. Họ đã phát triển những gì mà ông tiên phong: CEO chỉ là những kẻ tư lợi, không phải là người của công ty. Các CEO như những tay giang hồ liều lĩnh và là những kẻ trơ tráo tước đoạt tài sản của công ty. Chỉ khác là các thương vụ họ thực hiện ở quy mô, tầm vóc lớn hơn, trong thị trường bò (bull market) và thời kỳ bong bóng công nghệ của những năm 1990, khi số cổ phiếu và lượng tiền chiếm đoạt lớn hơn rất nhiều. Ngay cả những kẻ bất tài như Henry Samueli và Henry Nicholas, đồng chủ tịch của một công ty có tên Broadcom, cũng thu về mỗi người 800 triệu đô-la lợi nhuận. Họ bán cổ phiếu thưởng lấy tiền mặt khi ngành viễn thông vẫn còn đang “nổi”. So với số tiền đó, chiếc dù vàng đáng xấu hổ một thời trị giá 53 triệu đô-la của Ross Johnson vẫn còn là ít. Nhưng ngay cả khi có các thương vụ đã vượt qua Bọn rợ rình trước cổng về quy mô tiền mặt, chúng cũng không được dựng thành phim. Và nguyên nhân không nằm ở tài năng của các tác giả, có Chúa mới biết. Đó là vì trong sáu tuần chinh chiến vào năm 1988 đó, khi một nhóm các ông trùm kinh doanh mới phất lên giành giật quyền sở hữu một công ty lớn và trở thành những ông chủ lớn thống trị Phố Wall, trật tự hoàn hảo của thế giới mới đã được thiết lập. Hệ tư tưởng của một thời đại đã được thể hiện đầy đủ trong cuộc chiến giành RJR: những cảm xúc thô thiển xung đột kịch liệt với tính tự cao tự đại: cốt truyện không hề bị méo mó và các nhân vật lại càng không. Các tác giả khác đã cùng viết nên những cuốn sách đáng tự hào, những thiên tiểu thuyết về kinh doanh. Cuốn Indecent Exposure (tạm dịch: Để lộ âm tàng) của David McClintick là khuôn mẫu cho tất cả chúng ta, nhưng không có cuốn sách nào lại đặc biệt với nhiều tư liệu rùng rợn đến vậy. Chúng tôi viết về những nhân viên ngân hàng đầu tư vừa nuốt vội bánh Milk Bone, vừa chạy như bay đến khu trung tâm Manhattan, hạ giá thầu vào phút cuối. Chúng tôi viết về một CEO, người có con chó được sắp xếp bay trên một chiếc máy bay phản lực với khẩu hiệu sống: “Cứ mỗi giây qua đi, vài triệu đô-la lại trở thành quá khứ xa vời.” Chúng tôi mãi mãi biết ơn họ đã cho chúng tôi nguồn tư liệu quý để viết nên cuốn sách này. Bạn không thể cảm nhận được điều đó đâu. Mời các bạn đón đọc Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco của tác giả Bryan Burrough & John Helyar & Hoàng Thị Ngọc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiếc Ngai Vàng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Chiếc Ngai Vàng của tác giả Lan Khai. Lan Khai (24 tháng 6 năm 1906 – 1945). Trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam trước năm 1945, Lan Khai được xem là một cây bút sung mãn, một nhà văn "đường rừng" sáng giá. Dù ở thể loại nào ngòi bút của ông vẫn thuyết phục được cảm tình và lý tính của độc giả. Đặc sắc nhất vẫn là ở lĩnh vực sáng tác hiện thực về đời sống miền núi. Mời các bạn đón đọc Tiểu thuyết lịch sử: Chiếc ngai vàng. *** Tóm tắt Chiếc ngai vàng là tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Lan Khai, viết về cuộc đời và sự nghiệp của vua Hùng thứ 18, An Dương Vương. Tác phẩm được chia thành 12 chương, kể về cuộc đời của An Dương Vương từ khi còn là một thiếu niên, đến khi trở thành vua Hùng, rồi đến khi thất bại trước quân xâm lược Triệu Đà. Đánh giá Chiếc ngai vàng là một tiểu thuyết lịch sử xuất sắc, được đánh giá cao về mặt nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm đã tái hiện một cách chân thực và sinh động lịch sử nước ta thời Hùng Vương, đặc biệt là cuộc đời và sự nghiệp của An Dương Vương. Về mặt nội dung, Chiếc ngai vàng đã khắc họa một cách sâu sắc và cảm động hình tượng của An Dương Vương - một vị vua anh minh, dũng cảm nhưng cũng mắc sai lầm đáng tiếc. Tác phẩm đã thể hiện niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Về mặt nghệ thuật, Chiếc ngai vàng có lối viết hấp dẫn, lôi cuốn, kết hợp hài hòa giữa yếu tố lịch sử và yếu tố nghệ thuật. Tác phẩm sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như: miêu tả, kể chuyện, đối thoại,... để khắc họa nhân vật và sự kiện một cách sinh động. Chiếc ngai vàng là một tác phẩm văn học có giá trị, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam. Một số nhận xét của độc giả về tác phẩm "Chiếc ngai vàng là một tiểu thuyết lịch sử hay và ý nghĩa. Tác phẩm đã giúp tôi hiểu thêm về lịch sử nước ta thời Hùng Vương, đặc biệt là cuộc đời và sự nghiệp của An Dương Vương." "Chiếc ngai vàng là một tác phẩm văn học xuất sắc, được viết với lối văn hấp dẫn, lôi cuốn. Tôi rất thích tác phẩm này." "Chiếc ngai vàng là một tác phẩm văn học giàu giá trị nhân văn. Tác phẩm đã thể hiện niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân dân ta." Kết luận Chiếc ngai vàng là một tiểu thuyết lịch sử hay và ý nghĩa, xứng đáng được bạn đọc đón nhận. Mời các bạn mượn đọc sách Chiếc Ngai Vàng của tác giả Lan Khai.
Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn - Dominique Loreau Sinh ra và lớn lên tại Pháp, nhưng vì luôn tò mò về những đất nước khác trên thế giới, tôi đã quyết tâm đi đây đi đó trong những năm tháng sinh viên. Mười chín tuổi, tôi làm trợ giảng tại Anh và hai mươi bốn tuổi, tôi theo học đại học tại Missouri, Mỹ. Tôi cũng khám phá gần như toàn bộ các bang khác của Mỹ, cùng với Canada, Mexico và các nước Trung Mỹ. Khi tham quan Vườn Trà Nhật Bản tại công viên Cổng Vàng của San Francisco, tôi tha thiết muốn tìm ra cội nguồn của vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Vậy là tôi tới Nhật Bản, một đất nước luôn cuốn hút tôi đến mức không từ ngữ nào có thể diễn tả được. Tôi đến Nhật Bản và ở lại đó. Việc trải nghiệm hai nền văn hóa hoàn toàn khác biệt nhau gợi lên sự tự vấn không ngừng trong tôi. Tôi bắt đầu tìm kiếm một cách sống hoàn hảo. Và bằng quá trình loại bỏ dần dần, tôi bắt đầu hiểu rằng theo đuổi sự giản dị là con đường đúng đắn dành cho mình, để sống thoải mái và có một tâm hồn thanh thản. Tại sao lại là Nhật Bản? Tôi thường được hỏi khi kể với mọi người rằng mình đã sống ở đây hơn ba mươi năm. Và cũng như tất cả những người đã chọn Nhật Bản là quê hương thứ hai, tôi trả lời: Nhật Bản là niềm say mê, là sự cần thiết sâu thẳm trong tim. Tôi cảm thấy dễ chịu, bị mê hoặc, thậm chí cho đến tận bây giờ, bởi viễn cảnh mỗi ngày là một khám phá thú vị mới. Trong nhiều năm, tôi luôn bị Thiền Nhật Bản và các hình thức biểu thị của nó như tranh thủy mặc, đền đài, những khu vườn, suối nước nóng, nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản (ikebana)... lôi cuốn. Tôi quả thực rất may mắn, khi sớm được gặp một bậc thầy về tranh thủy mặc (sumi-e) và dành trọn mười năm để học hỏi không chỉ về nghệ thuật tranh thủy mặc nói riêng mà còn về quan niệm rất Nhật Bản đằng sau môn nghệ thuật ấy: thái độ chấp nhận tất cả những gì cuộc sống ban tặng mà không cần phải phê phán, phân tích hay giải thích. Nói một cách đơn giản, tranh thủy mặc là một sự thể hiện của cách sống Thiền. Tôi dạy tiếng Pháp tại một viện đại học Phật giáo và tham gia một khóa tu tập tại Thiền viện Aichi Senmon Niso-do ở Nagoya. Khi rời khỏi đó, tôi mới hiểu hơn bao giờ hết, đằng sau nét hiện đại của đất nước, vẻ bề ngoài công nghệ cao là một triết lý sống được truyền từ đời xưa, thấm nhuần trong mọi khía cạnh của cuộc sống tại Nhật Bản đến từng chi tiết nhỏ bé nhất. Càng hiểu về nước Nhật, tôi càng nhận thức được tính tích cực và giá trị bồi đắp của sự giản dị: một nguyên tắc mà những triết gia cổ điển, những vị thánh Cơ Đốc giáo, các đại sư Phật giáo và những vị hiền triết Ấn Độ đã nỗ lực truyền bá hàng thế kỷ, để chúng ta có thể sống tự do mà không bị gò bó bởi định kiến, áp lực và gánh nặng đang làm sao nhãng sự tập trung của chúng ta, gây ra các hội chứng căng thẳng. Sự giản dị mang đến giải pháp để giải quyết rất nhiều vấn đề. Tuy nhiên, học cách sống đơn giản lại không hề đơn giản chút nào. Tôi đã trải nghiệm một quá trình biến đổi dần dần, nhu cầu sống một cuộc sống với ít vật dụng hơn ngày một tăng lên và bù lại, tôi cảm thấy mình nhẹ nhõm hơn, tự do hơn, cơ động hơn và, tất nhiên, tinh tế hơn. Từng chút một, tôi nhận ra rằng khi giảm bớt hành trang, những gì tôi đã bỏ lại dường như càng ít quan trọng đi. Chúng ta thật sự cần rất ít để tồn tại. Và vì thế, tôi đã giác ngộ một chân lý uyên thâm rằng, càng sở hữu ít đồ vật hơn, chúng ta càng cảm thấy tự do và trưởng thành. Tôi cũng hiểu được sự cần thiết của lời cảnh báo: chủ nghĩa tiêu dùng, tính trì trệ (cả về thể chất và tâm lý) và sự tiêu cực luôn chực chờ để đánh gục chúng ta mỗi khi nản chí. Cuốn sách này tập hợp những ghi chép trong nhiều năm sống tại Nhật Bản của tôi, lưu giữ và tổng hợp những trải nghiệm, những điều bất ngờ mà tôi gặp quá trình đọc và suy ngẫm, một sự biểu thị của lý tưởng cá nhân, một tín ngưỡng, quy tắc hành xử, một lối sống mà tôi rất muốn duy trì và luôn nỗ lực để thực hành. Tôi giữ tất cả những cuốn sổ ghi chép của mình, mang chúng theo mỗi khi đi đây đó, như là kim chỉ nam nhắc nhở tôi về những điều mà tôi thường quên hoặc không thực hành. Chúng mang đến cho tôi cảm giác dễ chịu, là sự khẳng định và cũng là cội nguồn của niềm tin nội tâm khi cả thế giới bên ngoài dường như đang trở nên xiên lệch. Những cuốn sổ ghi chép là kho báu chứa đựng những lời khuyên và bài tập thực hành mỗi khi cần thiết để thấm nhuần, thích nghi với những thách thức mới, với sự thay đổi về nhu cầu, khả năng và tình huống (bạn sẽ tìm thấy chỗ để tự ghi chép ở trang 307). Chúng ta mới chỉ mới bắt đầu nhận thức về nguy cơ của sự thừa thãi và dư dả vật chất. Ngày càng có nhiều người kiếm tìm niềm vui và lợi ích của cách sống đơn giản hơn, gần gũi với thiên nhiên hơn và vượt lên trên sự cám dỗ để sáng tạo ra những phong cách sống mới hiện đại, nhiều ý nghĩa. Cuốn sách này dành cho tất cả những độc giả như thế. Tôi hy vọng rằng, cuốn sách sẽ giúp quảng bá sự hiểu biết đúng đắn về nghệ thuật sống tối giản như một cách sống viên mãn thật sự. *** Tóm tắt Cuốn sách Nghệ thuật tối giản - Có ít đi, sống nhiều hơn của Dominique Loreau là một cẩm nang hướng dẫn về cách sống tối giản, được tác giả đúc kết từ những trải nghiệm của bản thân trong nhiều năm sống tại Nhật Bản. Theo tác giả, sống tối giản không có nghĩa là sống thiếu thốn, mà là sống với những gì thật sự cần thiết, để có được sự tự do, bình yên và hạnh phúc trong tâm hồn. Cuốn sách được chia thành ba phần chính: Phần 1: Tối giản vật chất Phần này đề cập đến những lợi ích của việc tối giản vật chất, chẳng hạn như: * Giảm bớt căng thẳng và lo lắng * Tăng cường sự tự do và chủ động * Cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần Tác giả cũng đưa ra một số lời khuyên cụ thể để giúp độc giả bắt đầu thực hiện lối sống tối giản, chẳng hạn như: * Tách biệt bản thân khỏi những thứ không cần thiết * Tạo ra một không gian sống gọn gàng, ngăn nắp * Tập trung vào những trải nghiệm hơn là vật chất Phần 2: Tối giản tâm trí Phần này đề cập đến những cách để tối giản tâm trí, chẳng hạn như: * Học cách chấp nhận * Tập trung vào hiện tại * Tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn Tác giả cũng chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình tối giản tâm trí, chẳng hạn như: * Học cách chấp nhận những điều không thể thay đổi * Tập trung vào những điều tích cực trong cuộc sống * Tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn thông qua thiền định Phần 3: Tối giản mối quan hệ Phần này đề cập đến những cách để tối giản mối quan hệ, chẳng hạn như: * Loại bỏ những mối quan hệ độc hại * Tập trung vào những mối quan hệ có ý nghĩa * Tạo ra sự cân bằng trong các mối quan hệ Tác giả cũng đưa ra một số lời khuyên cụ thể để giúp độc giả cải thiện các mối quan hệ của mình, chẳng hạn như: * Loại bỏ những mối quan hệ không mang lại giá trị * Tập trung vào những mối quan hệ có ý nghĩa * Tìm kiếm sự cân bằng trong các mối quan hệ Đánh giá Cuốn sách Nghệ thuật tối giản - Có ít đi, sống nhiều hơn là một cuốn sách hữu ích và dễ đọc, cung cấp cho độc giả những thông tin và lời khuyên thực tế để bắt đầu thực hiện lối sống tối giản. Tác giả đã chia sẻ những trải nghiệm và quan điểm của bản thân một cách chân thành và gần gũi, giúp độc giả hiểu rõ hơn về những lợi ích của lối sống tối giản. Cuốn sách phù hợp với những độc giả đang tìm kiếm một lối sống đơn giản, bình yên và hạnh phúc hơn. Một số câu nói hay trong sách "Sống tối giản không có nghĩa là sống thiếu thốn, mà là sống với những gì thật sự cần thiết." "Khi chúng ta sở hữu ít hơn, chúng ta sẽ có nhiều thời gian hơn để dành cho những thứ quan trọng." "Tối giản không chỉ là một lối sống, mà còn là một cách suy nghĩ." "Tối giản không phải là một mục tiêu, mà là một hành trình." Kết luận Cuốn sách Nghệ thuật tối giản - Có ít đi, sống nhiều hơn là một cuốn sách đáng đọc dành cho những ai đang tìm kiếm một lối sống đơn giản, bình yên và hạnh phúc hơn. Mời các bạn mượn đọc sách Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn của tác giả Dominique Loreau.
Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman. CÓ BAO GIỜ BẠN TỰ HỎI... Ấn tượng bạn để lại trong lòng cấp trên của bạn như thế nào? Bạn có nên tin vào những điều cấp trên đã hứa hay không? Bạn đang nuôi dưỡng mối quan hệ với một khách hàng tiềm năng, hay đang lãng phí thời gian của bản thân? Liệu các thành viên trong nhóm có hiểu những gì bạn nói hay không? Làm thế nào để biết rằng anh ấy/cô ấy thật sự ủng hộ ý kiến của bạn? Khán giả đang chán ngán, thất vọng, hay thích thú với những gì bạn đang trình bày? Lời đáp cho những câu hỏi trên đang ở ngay trước mắt bạn. Bạn biết đấy, chính ngôn ngữ là phương tiện được dùng để chuyển tải thông điệp trong công việc cũng như trong giao tiếp thường ngày. Tuy nhiên, có những điều không phải lúc nào cũng được nói ra bằng ngôn ngữ. Chẳng hạn, cấp trên của bạn nói rằng cô ấy sẽ xem xét việc thăng chức cho bạn, nhưng trong khi nói, cô ấy lại khoanh tay và mỉm cười gượng gạo. Rõ ràng hai thông điệp mà cô ấy đưa ra hoàn toàn trái ngược nhau. Tương tự, nếu một khách hàng nói với bạn rằng ông ấy không quan tâm tới chuyện mua xe mới, nhưng ánh mắt ông ấy lại không rời bản hợp đồng trên bàn thì điều đó nghĩa là ông ấy thực sự muốn có một chiếc xe mới. Dấu hiệu của giao tiếp không lời thường tiết lộ những động cơ và cảm xúc ẩn chứa bên trong như sự sợ hãi, lòng trung thực, niềm vui, sự do dự, nỗi thất vọng và hơn thế nữa… Những cử chỉ nhỏ nhặt nhất, như cách đồng nghiệp của bạn đứng hoặc bước vào phòng cũng cho thấy sự tự tin, thận trọng hoặc độ tin cậy nơi họ. Rồi, cách bạn ngồi, đứng hoặc cách bạn nhìn người khác cũng hé lộ phần nào trạng thái cảm xúc trong con người bạn. Bạn là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Ngay từ lúc lọt lòng, tôi đã là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Có thể bạn sẽ ngạc nhiên về điều này. Nhưng, giống như tôi – bạn cũng là một chuyên gia như vậy. Khi còn là trẻ sơ sinh, chúng ta đã biết biểu lộ nhiều nét mặt khác nhau để thể hiện tâm trạng và nhu cầu của bản thân. Chúng ta biết chỉ đúng những vật mình thích, biết kết nối với mẹ qua ánh mắt yêu thương. Lớn hơn một chút, chúng ta biết tiếp thu những cử chỉ và biểu hiện phù hợp với truyền thống văn hóa trong gia đình. Rồi khi trưởng thành, chúng ta học cách chọn lọc (và che đậy) những dấu hiệu mình muốn hoặc không muốn. Tất cả những điều đó được thực hiện một cách vô thức. Đối với tôi, từ khi tôi theo học chương trình cao học và chuẩn bị trở thành nhà trị liệu thì việc thực hiện những dấu hiệu không lời đã không còn là vô thức nữa. Tôi bắt đầu để ý tới các cử chỉ mà mình thể hiện hoặc bắt gặp trong giao tiếp. Việc tham gia giảng dạy chương trình Ngôn ngữ Thần kinh học và Phương pháp Erickson trong thôi miên và liệu pháp tâm lý đã dạy tôi cách quan sát những chuyển động mắt, những biểu hiện trên gương mặt và những cử chỉ cơ thể nhằm khám phá sự đồng thuận hay phản kháng ẩn chứa bên trong chúng. Khi tôi bắt đầu tư vấn cho nhiều tổ chức thương mại và diễn thuyết trước đông đảo khán giả trong và ngoài nước, tôi chú ý hơn tới ngôn ngữ cơ thể mình, sao cho mọi cử chỉ, tư thế, và biểu hiện của tôi đều phản ánh chính xác thông điệp mà tôi muốn truyền tải. Sau này, tôi truyền lại ý tưởng và kỹ thuật đó cho các nhân viên và các nhà quản lý mà tôi đào tạo. Trước khi cho ra đời cuốn sách này, tôi đã tìm hiểu hầu hết những tiến bộ gần đây trong nhiều lĩnh vực. Các nhà nghiên cứu thuộc ngành tâm lý học, thần kinh học, y học, xã hội học, nhân chủng học và giao tiếp học đã chia sẻ với tôi phương pháp và suy nghĩ của họ trong lĩnh vực giao tiếp không lời. Nhờ những đóng góp ấy, tôi hiểu hơn vì sao và làm thế nào ngôn ngữ hình thể lại có được sức mạnh kỳ diệu đến như vậy. Ngôn ngữ hình thể nơi công sở Hiểu rõ vai trò của ngôn ngữ hình thể trong các hoạt động thường ngày là việc hết sức quan trọng. Rất nhiều nhân viên, nhà quản lý chỉ vì không đọc được dấu hiệu ngôn ngữ cử chỉ của đối phương, hoặc không nhận ra sự khác biệt về văn hóa khi đưa ra cử chỉ, khiến cho mọi nỗ lực trong mối quan hệ hai bên bị đổ vỡ. cũng như sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp, đặc biệt là trong môi trường công sở. Khi nắm vững các kỹ năng được trình bày ở đây, bạn sẽ không chỉ đọc chính xác các dấu hiệu không lời từ đối phương, mà còn biết sử dụng ngôn ngữ hình thể một cách hiệu quả, nhờ đó đạt được lợi thế cạnh tranh trong đàm phán. Và điều này có thể áp dụng vào bất cứ lĩnh vực nào! Thực tế cho thấy, thành công trong công việc gắn liền với trình độ và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hình thể. Những ví dụ sau sẽ chứng minh rất rõ điều ấy. Khả năng lãnh đạo Vào cuối Thời đại Công nghiệp (Industrial Age), hiệu quả của lối quản lý mệnh lệnh và kiểm soát đang suy giảm mạnh. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo (từ các thành viên ban quản trị cấp cao đến các tổ trưởng sản xuất) đều phải tìm cách lãnh đạo cấp dưới thông qua ảnh hưởng của mình hơn là dựa vào quyền hành từ chức vụ. Ảnh hưởng đó có được nhờ vào hai khả năng sau: ■ Hiểu tâm lý nhân viên, biết lắng nghe những gì họ nói và biết đọc những thông điệp không lời mà họ thể hiện. ■ Cử chỉ và lời nói phải đồng bộ. Điều này có nghĩa là ngôn ngữ hình thể phải phù hợp với lời nói để từ đó củng cố nội dung muốn truyền đạt thay vì phá hỏng nó. Giáo dục Ngôn ngữ cử chỉ của giáo viên là nhân tố quan trọng thúc đẩy học sinh hoàn thành bài tập về nhà. Nghiên cứu ở các nhóm học sinh tiểu học, trung học và đại học cho thấy, ở mọi lứa tuổi khác nhau, học sinh đều có thiện cảm với những giáo viên hay sử dụng cử chỉ thân thiện hơn, như giao tiếp bằng mắt, gật đầu, hướng người về trước, mỉm cười… Việc phát huy những cử chỉ này ở giáo viên sẽ giúp học sinh có thêm động lực học tập, các em sẽ yêu thích giờ học hơn và sẵn sàng nghe theo lời thầy cô giáo. Bán hàng Khi một nhân viên bán hàng gặp gỡ khách hàng tiềm năng, khách hàng sẽ đánh giá nhân viên ấy dựa vào vẻ ngoài và cách cư xử của họ. Quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng bảy giây nhưng ấn tượng đó lại kéo dài. Việc bán hàng được hay không tùy thuộc vào những hành vi không lời được thể hiện ngay trong lần gặp đầu tiên. Trang điểm, tư thế, tác phong, nét mặt và ánh mắt là những yếu tố mà các nhân viên bán hàng thành công cần nắm vững và biết cách vận dụng. Đàm phán Một cuộc đàm phán thành công có thể nhờ vào khả năng nắm bắt những ẩn ý sau lời nói của đối phương. Để có được điều này, bạn cần hiểu được ngôn ngữ hình thể. Nhà đàm phán tài ba là người nhận ra khi nào nên trì hoãn hoặc thúc đẩy quá trình đàm phán. Họ biết cách xoa dịu và bình ổn những tình huống căng thẳng. Tuy nhiên, thay vì chỉ căn cứ vào lời nói, cách chủ yếu họ sử dụng để đánh giá diễn biến xung quanh là quan sát những cử chỉ không lời vốn bộc lộ những động cơ vô thức và dễ bị bỏ qua. Y tế Kỹ năng giao tiếp không lời của bác sĩ đối với bệnh nhân có một vai trò rất quan trọng. Mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều trị bệnh (như các thiết bị kỹ thuật, dụng cụ y tế), nhưng việc nhạy bén với những dấu hiệu không lời và thể hiện "sự thấu cảm lâm sàng" đối với người bệnh sẽ đem lại cảm giác hài lòng nơi người bệnh, giúp họ bình tâm và lạc quan hơn. Pháp luật Khi thẩm vấn nghi phạm, thay vì chỉ lắng nghe những câu trả lời mâu thuẫn nhau, một cảnh sát được đào tạo bài bản sẽ tìm kiếm những phản ứng tâm lý thoáng qua trên khuôn mặt nghi phạm. Chẳng hạn nụ cười thoáng qua có thể ngầm hiểu rằng nghi phạm tự tin rằng hắn vừa đánh lừa được thẩm vấn viên. Dịch vụ khách hàng Nhiều người cho rằng thái độ phục vụ tận tình của nhân viên chính là chìa khóa đem lại thành công cho dịch vụ khách hàng. Nghiên cứu cho thấy khả năng nhận biết các dấu hiệu không lời của nhân viên cũng quan trọng không kém. Việc nắm bắt ngôn ngữ hình thể một cách tinh tế sẽ giúp nhân viên hiểu rõ khách hàng thật sự đang nghĩ gì hoặc cảm nhận được gì. Xây dựng kỹ năng Vận dụng kỹ năng giao tiếp không lời nghĩa là bạn đi vào tìm hiểu và áp dụng những cử chỉ gần như vô thức trước đó. Thay vì chỉ cảm nhận về một ai đó, bạn có thể nhìn vào dấu hiệu hình thể để đọc suy nghĩ của họ. Thay vì chỉ hy vọng rằng bản thân tạo được ấn tượng tốt thì bạn có thể biết cử chỉ nào giúp bạn có được sự tự tin và lấy được thiện cảm từ đối phương. Nắm được các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết này không chỉ giúp bạn học hỏi những điều mới mẻ mà còn giúp bạn nhận thức được sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ để từ đó phát huy hơn nữa năng lực của bản thân. Bạn sẽ biết cách tạo ấn tượng tốt đẹp ngay từ lần gặp đầu tiên. Bạn cũng sẽ biết cách giải mã một ánh mắt, một nét mặt hay cử chỉ nào đó và nhanh chóng xây dựng niềm tin với khách hàng cũng như các thành viên trong nhóm. *** Đánh giá Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời của tác giả Carol Kinsey Goman là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình, đặc biệt là trong môi trường công sở. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản đến các ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau. Ưu điểm: Nội dung cuốn sách được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, với nhiều ví dụ minh họa sinh động. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt đến những ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau như lãnh đạo, bán hàng, đàm phán, dịch vụ khách hàng,... Cuốn sách có tính ứng dụng cao, giúp người đọc nâng cao kỹ năng giao tiếp và thành công hơn trong công việc. Nhược điểm: Một số thông tin trong cuốn sách có thể hơi cũ, cần cập nhật thêm. Kết luận: Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng và các kỹ năng thực tế giúp người đọc hiểu rõ hơn về ngôn ngữ không lời và sử dụng nó một cách hiệu quả trong giao tiếp. Mời các bạn mượn đọc sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman.
Vòng Tay Học Trò
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Vòng Tay Học Trò của tác giả Nguyễn Thị Hoàng: Tác giả   Tìm chân dung đích thực của tác giả ‘Vòng Tay Học Trò’ Trong sinh hoạt văn chương miền Nam 20 năm (1955-1975), Nguyễn Thị Hoàng là một trong vài nhà văn nữ, nổi tiếng ngay với tác phẩm văn xuôi đầu tay “Vòng Tay Học Trò.” Nhưng, nếu Nhã Ca (ở lãnh vực văn xuôi) cũng nổi tiếng ngay với truyện vừa “Ðêm Nghe Tiếng Ðại Bác,” lấy bối cảnh sinh hoạt của một gia đình viết về chiến tranh thì, Nguyễn Thị Hoàng lại nổi tiếng khi bà vượt qua vạch phấn cấm kỵ (taboo) của truyền thống đạo đức xã hội Việt Nam, khi viết về lãnh vực tình yêu và, tình dục giữa một cô giáo và học trò của mình, theo xu hướng hiện sinh. Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và ‘Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về’ qua nét bút của họa sĩ Chóe. Trong phần giới thiệu ngắn gọn về tiểu sử nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, trang mạng Wikipedia-Tiếng Việt, cũng ghi nhận như sau: “Tác phẩm đầu tay của bà (NTH) có nhan đề Vòng Tay Học Trò dưới bút danh Hoàng Ðông Phương. Ðây là một tiểu thuyết hiện sinh mô tả vấn đề tình yêu, tình dục giữa một cô giáo tên Tôn Nữ Quỳnh Trâm và học trò Nguyễn Duy Minh được đăng dưới hình thức nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa. Tác phẩm trở thành một trong những tác phẩm gây tranh cãi nhất thời kỳ này, và về sau được tái bản nhiều lần.” Tuy nhiên, theo một vài tư liệu hiện có trên Wikipedia thì, bước chân đầu tiên tìm đến với cõi giới văn chương của người nữ văn sĩ này, vốn là thi ca chứ không phải văn xuôi. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho nhà văn Mai Ninh (hiện cư ngụ tại Paris) năm 2003, tác giả “Vòng Tay Học Trò” cũng xác nhận rằng: “...NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách Khoa 1960), và căn chất mãi mãi cũng chỉ là thơ, rất 'dốt' và sợ cái gì liên quan đến khoa học...” Thực tế cũng cho thấy, bà không chỉ làm thơ đăng báo mà, còn có tới hai thi phẩm đã được xuất bản. Ðó là các tập thơ “Sầu Riêng,” XB năm 1960 và “Kiếp Ðam Mê” XB năm 1961.[1] Tuy nhiên, cũng khác với Nhã Ca. Nếu tác giả “Ðêm Nghe Tiếng Ðại Bác” gây xôn xao dư luận những người yêu thơ cũng như văn giới ngay tự những bài thơ thứ nhất của bà, đăng tải trên Tạp chí Hiện Ðại của nhà thơ Nguyên Sa thì, dường như thơ Nguyễn Thị Hoàng lại kém may mắn hơn! Chúng không nhận được sự chào đón hay, chú ý của dư luận quần chúng. Chính vì thế mà số người biết nhà văn Nguyễn Thị Hoàng là một người làm thơ trước khi viết văn không bao nhiêu - Trừ những người có mối quan tâm đặc biệt, muốn tìm hiểu hoặc, nghiên cứu về sự nghiệp văn chương của bà. Trong số những người có mối quan tâm đặc biệt tới lộ trình chữ, nghĩa của Nguyễn Thị Hoàng, tôi trộm nghĩ, chúng ta phải kể tới nhà văn Nguyễn Ngọc Chính. Ông là người có nhiều bài viết nhất về tác giả “Vòng Tay Học Trò.” Với loạt bài nằm trong “Hồi Ức Một Ðời Người,” họ Nguyễn đã sưu tập về cõi thơ Nguyễn Thị Hoàng và, ghi nhận: “...Trước khi nổi tiếng trong nhóm nhà văn nữ trước 1975, Nguyễn Thị Hoàng là một nhà thơ của xứ Huế với hai tập thơ Sầu Riêng (1960) và Sau Phút Ðam Mê (1961). (2) Nổi bật hơn cả là bài thơ Chi lạ rứa với 40 câu thơ mang đặc những ngôn từ của miền Trung như chi lạ rứa, bởi vì răng, bên ni bờ, đau chi mô, hiểu chi mô (...). “Những vần lục bát là thế mạnh trong thơ Nguyễn Thị Hoàng với những câu thơ rất da diết nhưng cũng rất tự nhiên như văn viết:   Em mười sáu tuổi tơ măng Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu Trong cơn chăn gối rã rời Im nghe từng chuyến xe đời đi qua Ðường về không nhịp trùng lai Chúa ơi con sợ... ngày mai một mình   Nhìn lên thành phố không đèn Âm u còn một màn đêm cuối cùng Mắt sâu dòng lệ ngập ngừng Mình xa nhau đến muôn trùng thời gian   Lênh đênh tiếng hát kinh cầu Ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ Trên cao tháp cũ nhà thờ Hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang   “Lối gieo vần trong thơ 8 chữ cũng là một thể nghiệm mới lạ của nhà thơ nữ:   Em đợi anh về những chiều thứ bẩy Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật   Cho em xin một chiều vui thứ bẩy Có nhạc phòng trà có lá me bay Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay   “Và cuối cùng là những vần thơ 5 chữ trong bài Lời Rêu:   Uống cùng nhau một giọt, Ðắng cay nào chia đôi Chung một niềm đơn độc, Riêng môi đời phai phôi.   Say giùm nhau một giọt! Chút nồng thơm cuối đời. Vướng giùm nhau sợi tóc, Ràng buộc trời sinh đôi. (...)   Và người thứ ai, theo tôi, là nhà văn Trần Áng Sơn. Trong bài viết nhan đề “Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng-Người đàn bà đẹp,” họ Trần kể, vào thời điểm tháng 4, 2002, khi ông viết bài đó, trong tay ông “...không có 1 tác phẩm nào, như một tài liệu, để gọi nói có sách, mách có chứng. Nhưng, vì quá yêu ngòi bút của bà, khởi đi từ chi tiết rất xa xăm - bài thơ Lạ Rứa! - do 1 người bạn ở Huế chép tặng 1957- tôi thực hiện cuộc trở về trong sương mù, viết bằng ký ức, cảm xúc. Cũng rất có thể, tôi bị lạc lối, nhưng tấm lòng dành cho bài thơ Lạ Rứa! vẫn như xưa...”[2] Dưới đây là nguyên văn bài thơ “Chi Lạ Rứa” của Nguyễn Thị Hoàng, trong ký ức của nhà văn Trần Áng Sơn:   “Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc, Ngó chi tui đồ cỏ mọn, hoa hèn. Nhìn chi tui hình đom đóm đêm đen, Cho tui tủi bên ni bờ cô tịch.   “Tui ao ước có bao giờ tuyệt đích, Tui van xin răng mà cứ làm ngơ. Rồi ngó tui, chi lạ rứa hững hờ, Ghét, yêu, mến, vô duyên và trơ trẽn!   “Tui đã tắt nỗi ngại ngùng bẽn lẽn, Bởi vì răng, ai biết được người hè. Nhưng màu chiều đã rũ bóng lê thê, Ni với nớ, có chi mô gần gũi!   “Chi lạ rứa, răng cứ làm tui tủi? Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau! Khối tình câm nên không sắc, không màu, Và vạn thuở chẳng nên câu luyến ái!   “Chi lạ rứa, người cứ làm tui ngại, Biết sông sâu hay cạn giữa tình đời? Bên ni bờ vẫn trong trắng chơi vơi, Mà bên nớ trầm ngâm mô có kể.   “Không muốn khóc, nhưng cứ từng ngấn lệ, Ðọng làn mi ấp ủ mối tâm tình. Bên ni bờ hoa thắm bớt tươi xanh, Mà bên nớ huy hoàng và lộng lẫy.” Nguyễn Thị Hoàng[3] Tuy chỉ với vài bài thơ do hai tác giả Nguyễn Ngọc Chính và Trần Áng Sơn ghi lại, nhưng cũng đã có một số người tự hỏi, nếu không xẩy ra cuộc tình nhiều tai tiếng giữa tác giả Nguyễn Thị Hoàng và câu học trò tên Mai Tiến Thành và (vẫn nếu), họ Hoàng không viết lại thành truyện thì không biết hôm nay, người đọc sẽ có một Nguyễn Thị Hoàng thi sĩ hay, Nguyễn Thị Hoàng văn sĩ? Nhất là khi bà từng nhấn mạnh, với bà, trước sau, căn bản vẫn là thi ca?   Dư luận chung quanh ‘Vòng tay học trò’ và đời thường của nhân vật chính Mặc dù căn cứ vào cuộc phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng dành cho nhà báo Tố Tâm ở tạp chí Ðất Mới, số 4 bộ 2, tháng 4, 1990, Việt Nam thì, cả hai tập thơ mà trang mạng Wikipedia liệt kê trong danh sách tác phẩm đã xuất bản, được bà nói rõ rằng: “...Thơ chưa in thành tập, nhưng rải rác có đăng báo. Khởi đầu năm 1960 ở Bách Khoa và từ 1961-1962 thì ở tạp chí Văn. Nhưng khi những chương đầu tiên của Vòng Tay Học Trò được in ở Bách Khoa thì tiểu thuyết là chính, thơ chỉ còn là tô điểm thế mà.”[4] Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. (Hình: NAG Trần Cao Lĩnh chụp) Nhưng, có dễ trước sau thi ca vẫn là “cây bài chủ,” hay ngọn hải đăng tâm hồn họ Nguyễn. Nên khi bước qua văn xuôi, ngay tự những trang viết thứ nhất của tiểu thuyết “Vòng Tay Học Trò,” bên cạnh sự hấp dẫn, lôi cuốn của cốt truyện chắt, chiết từ đời thật, tác giả vẫn có những đoạn tả cảnh, tình ắp đầy thi tính như: “...Một tiếng chim hót lên đầu cành thông gần mái nhà. Trâm nhìn ra. Vòm trời xanh mênh mông in hình nét đồi cong thoai thoải, sáng rực nắng chiều. Một đám mây trắng sắp sửa nhô lên sau ngọn đồi thấp nhất. Hình ảnh của những buổi chiều yên tĩnh, cuộc đời cô quạnh, buồn lãng mạn và nên thơ thoáng qua trong trí Trâm. Nàng chợt vừa sợ vừa thích nỗi cô đơn hiện tại (...). “Trâm đứng lên mở rộng cánh cửa kính. Mùi thơm quen thuộc của cỏ khô và đất mới xới, lẫn với mùi dâu chín dưới thung lũng thoảng theo gió bay lên làm Trâm tự nhiên ấm áp trong lòng, tưởng như đang đời đời yên ổn sống trên đất quê hương...” (Trích VTHT, chương 1)[5] Hoặc một đoạn khác, ở chương 2, tác giả ghi lại, những “cảm nhận” về cậu học trò tên Minh, nhân vật sẽ sớm trở thành người yêu của cô giáo Trâm (biến thân của chính tác giả): “...Trâm giấu nụ cười trong bàn tay vừa đưa lên che môi. Bây giờ, bọn học trò chăm chú vào công việc, không nhìn lên nàng nữa. Trâm tự do, dễ chịu, tha hồ nhìn xuống, quan sát từng đứa để ‘trả thù’ bị nhìn lúc mới vào. Vài đôi mắt nhìn ra cửa sổ. Trâm nghĩ, thế nào cũng có thông reo gió thổi. Có đôi mắt nhìn sững vào khoảng không hay trên vách tường trống trải. Có cặp mắt sáng rỡ nhìn lên như vừa bắt gặp một ý tưởng, một hình ảnh thần tiên nào đó đang chiếu vào khoảng tâm hồn u tối. Có cặp mặt đăm đăm nhìn xuống tờ giấy trắng như chờ mong những hàng chữ bỗng nhiên hiện hình theo phép lạ. “Cuối cùng, Trâm nhìn xuống chỗ Minh ngồi. Cậu bé đang lơ đãng chống tay vào má nhìn lên phía nàng. Cây bút xoay tròn tinh nghịch trên mấy ngón tay trắng nhỏ. Nàng mỉm cười thật nhẹ như thầm nhắc, sao em không viết gì đi. Minh mỉm cười yên lặng. Nụ cười nửa đầm ấm bắt gặp vẻ quen thân trong xa lạ, nửa ngại ngùng bối rối muốn lẩn trốn, che giấu chính mình và những ý nghĩ mình trước đôi mắt dò xét và phán đoán của kẻ khác. Rồi đôi mắt Minh cúi xuống. Ngòi bút loay hoay trong tay, bây giờ bị cắn nhẹ giữa hai hàm răng đều và nhỏ. Minh vò một mẩu giấy nhỏ vứt xuống đất, giở trang giấy khác, nhưng không viết gì được. Trâm biết Minh muốn đứng lên, chạy bay ra khỏi phòng, chạy thật xa cái nhìn xoi mói của nàng. Nhưng Trâm cứ nhìn như kẻ đi săn nhìn con thú lúng túng tìm cách thoát thân khỏi cái bẫy của mình...[6] Ðược biết “Vòng Tay Học Trò” của Nguyễn Thị Hoàng trước khi in thành sách, đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa, Saigon, 1964. Ngay khi còn ở dạng truyện đăng nhiều kỳ, VTHT cũng đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trẻ thời điểm đó. Nhưng mãi tới năm 1966, tiểu thuyết này mới được in ra. Và đó mới là thời điểm “cơn bão VTHT” đạt tới đỉnh điểm cao nhất.   Mời các bạn mượn đọc sách Vòng Tay Học Trò của tác giả Nguyễn Thị Hoàng.