Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bùa Ước

“Đến tuổi nào đó, bạn sẽ đủ ‘chín’ để bắt đầu đọc truyện cổ tích trở lại.” - C.S.Lewis Bùa ước là tập 1 trong series sách Lạc vào miền cổ tích. Các nhân vật như Công chúa ngủ trong rừng, cô bé Quàng khăn đỏ, Bạch Tuyết giờ đảm đương những trọng trách mới, và cùng các nhân vật trong thế giới hiện đại bước vào những cuộc phiêu lưu hết sức thú vị. Bùa Ước gồm có: CHUYẾN VIẾNG THĂM CỦA NỮ HOÀNG NGÀY XỬA NGÀY XƯA ĐƯỜNG VỀ THẬT XA BẤT NGỜ NGÀY SINH NHẬT MIỀN CỔ TÍCH TỪ MIỆNG ẾCH RỪNG CHÚ LÙN TÒA THÁP CỦA RAPUNZEL LÂU ĐÀI BÍ MẬT VƯƠNG QUỐC CHARMING VƯƠNG QUỐC QUÀNG KHĂN ĐỎ LÃNH ĐỊA QUỶ LÙN VÀ YÊU TINH VƯƠNG QUỐC TIÊN BẦY SÓI VƯƠNG QUỐC SAY NGỦ VƯƠNG QUỐC BẮC PHƯƠNG QUA HẦM MỎ GOLDILOCKS, BỊ TRUY NÃ DÙ CÒN SỐNG HAY ĐÃ CHẾT THÔNG ĐIỆP CỦA NÀNG TIÊN CÁ HỐ GAI QUẢ TIM ĐÁ TẤM GƯƠNG BÍ MẬT CỦA BẠCH TUYẾT THIẾP MỜI HOÀNG GIA MỘT TRUYỆN CỔ TÍCH LỜI CẢM ƠN Bộ truyện Lạc Vào Miền Cổ Tích gồm có: Bùa Ước Phù Thủy Hắc Ám Trở Lại Lời Cảnh Báo Của Anh Em Nhà Grimm ... *** Hầm ngục là một nơi vô cùng thảm đạm. Ánh sáng hiếm hoi chập chờn hắt xuống từ những ngọn đuốc đóng đinh trên tường đá. Thứ nước hôi thối từ con hào bao quanh lâu đài bên trên rỉ xuống hầm ngục. Những con chuột to xù rượt đuổi nhau sục tìm thức ăn. Quả không phải chỗ dành cho một nữ hoàng. Vừa quá nửa đêm, tất cả chìm trong im lặng, chỉ thi thoảng mới có tiếng dây xích sột soạt. Xuyên qua cái tĩnh mịch nặng nề đó, tiếng bước chân dội vang khắp sảnh khi có người đi xuống những bậc thang xoắn ốc, tiến vào hầm ngục. Một phụ nữ trẻ xuất hiện cuối bậc thang, cả người được phủ kín bằng tấm áo choàng dài màu ngọc bích. Nàng thận trọng lần bước giữa dãy phòng giam, gây hiếu kỳ cho các tù nhân trong đó. Với mỗi bước đi, nhịp chân nàng lại chậm hơn và nhịp tim đập lại thêm gấp gáp. Tù nhân được xếp chỗ theo tội lỗi đã phạm. Nàng càng dấn bước sâu vào trong hầm ngục lại càng gặp phải những tù nhân độc ác và nguy hiểm hơn. Cái đích mà nàng đang hướng đến là phòng giam ở cuối hành lang, nơi đó, viên cai ngục to lớn đang canh giữ một tù nhân đặc biệt. Nàng đến đây để tìm lời giải đáp cho một câu hỏi. Câu hỏi đơn giản thôi, nhưng nó đã xâm chiếm suy nghĩ của nàng mỗi ngày, khiến nàng thao thức hàng đêm và là thứ duy nhất hiện ra trong giấc mơ của nàng mỗi khi nàng có thể thiếp đi giây lát. Chỉ có một người có thể cho nàng câu trả lời cần biết và người đó đang ở bên kia chấn song phòng giam phía trước. “Tôi muốn gặp bà ta,” người phụ nữ khoác áo choàng bảo viên cai ngục. “Không ai được phép vào thăm bà ta cả,” viên cai ngục đáp, có vẻ thích thú với lời đề nghị lạ lùng. “Tôi đang chấp hành mệnh lệnh nghiêm ngặt của hoàng gia.” Người phụ nữ này liền hạ mũ trùm đầu xuống để lộ gương mặt. Nàng có làn da trắng như tuyết, tóc đen như gỗ mun và đôi mắt xanh như rừng thẳm. Vẻ đẹp của nàng nổi tiếng khắp vương quốc và câu chuyện về nàng lại còn vang xa hơn thế. “Nữ hoàng, xin hãy thứ lỗi cho thần!” viên cai ngục kinh ngạc tạ lỗi. Anh ta vội vã gập người cúi chào thật thấp. “Thần không trông đợi có người từ cung điện đến đây.” “Không cần tạ lỗi đâu,” nàng nói. “Nhưng làm ơn đừng tiết lộ việc ta đến đây tối nay.” “Dĩ nhiên rồi ạ,” viên cai ngục gật đầu. Người phụ nữ đến trước chấn song, chờ viên cai ngục nâng chúng lên nhưng anh ta lại ngập ngừng. “Người có chắc là muốn vào đó không, thưa Nữ hoàng?” Viên cai ngục hỏi. “Chẳng liệu được bà ta có thể làm chuyện gì đâu.” “Ta phải gặp bà ta,” nàng kiên quyết. “Bằng mọi giá.” Viên cai ngục bắt đầu quay tròn tay đòn bẩy và chấn song phòng giam được nhấc lên. Người phụ nữ hít một hơi thật sâu và tiếp tục bước qua đó. Nàng tiến vào một hành lang dài hơn, tối hơn; từng chấn song, từng rào chắn lần lượt được nhấc lên và hạ xuống khi nàng vượt qua chúng. Cuối cùng, nàng đã đến cuối hành lang, chấn song cuối cùng được nâng lên và nàng bước vào phòng giam. Tù nhân ở đây là một phụ nữ. Bà ta ngồi trên một chiếc ghế cao giữa phòng giam, ngước nhìn chằm chằm lên khung cửa sổ nhỏ hẹp. Mất ít phút để tù nhân nhận ra có vị khách viếng thăm đằng sau. Đó là người đầu tiên đến thăm bà ta từ bấy đến nay, chẳng cần nhìn bà ta cũng biết là ai; chỉ có thể là một người duy nhất đó thôi. “Xin chào, Bạch Tuyết,” tù nhân khẽ nói. “Xin chào người, Mẹ Kế,” lời đáp của Bạch Tuyết run rẩy và lo lắng. “Hy vọng mẹ vẫn khỏe.” Mặc dù Bạch Tuyết đã chuẩn bị trước những điều muốn nói, giờ đây nàng vẫn cảm thấy khó thốt nên lời. “Ta nghe nói giờ ngươi là nữ hoàng,” người mẹ kế tiếp. “Đúng vậy,” Bạch Tuyết đáp. “Con đã kế thừa ngôi vị như dự định của cha.” “Vậy thì sao ta lại có vinh hạnh này đây? Ngươi đến để xem ta héo hắt đi chăng?” người mẹ kế gằn giọng. Giọng nói ấy đầy quyền uy và sức mạnh; người ta kháo nhau rằng nó làm cho ngay cả người đàn ông mạnh mẽ nhất cũng phải tan chảy như nước đá. “Trái lại,” Bạch Tuyết đáp. “Con đến để tìm hiểu.” “Hiểu gì mới được chứ?” người mẹ kế cay nghiệt đáp trả. “Hiểu vì sao…” Bạch Tuyết ngập ngừng. “Vì sao mẹ lại phải làm những việc đó.” Khi cuối cùng cũng nói lên được lời này, Bạch Tuyết cảm thấy như có một gánh nặng vừa cất khỏi vai mình. Rốt cuộc nàng cũng hỏi được điều bấy nay vẫn đè nặng trong tâm trí. Khó khăn thế là cũng qua một nửa rồi. “Có nhiều chuyện về thế giới này mà ngươi không hiểu đâu,” người mẹ kế nói và quay lại nhìn đứa con của chồng mình. Đó là lần đầu tiên Bạch Tuyết nhìn thấy gương mặt mẹ kế sau một quãng thời gian dài. Đó là gương mặt một người phụ nữ đã từng mang vẻ đẹp hoàn hảo, người phụ nữ từng là hoàng hậu. Vậy mà giờ đây, người ngồi trước mặt nàng chỉ còn là một tù phạm, mà vẻ đẹp đã phai thành một gương mặt cau có, buồn bã. “Có lẽ là thế,” Bạch Tuyết đáp lời. “Nhưng mẹ có thể trách con vì cố gắng tìm hiểu lý do đằng sau hành động của mẹ không?” Những năm vừa qua trong đời Bạch Tuyết là giai đoạn gây xôn xao tranh cãi nhất trong lịch sử hoàng tộc của vương quốc. Ai ai cũng biết câu chuyện nàng công chúa xinh đẹp trú ẩn nơi ngôi nhà của Bảy Chú Lùn, trốn tránh mụ dì ghẻ ganh ghét. Ai ai cũng biết về quả táo tẩm độc nổi tiếng và vị hoàng tử quyết đoán đã đem Bạch Tuyết trở về từ cõi chết. Câu chuyện thật đơn giản, nhưng hậu truyện không như thế. Ngay cả khi bận bịu với việc triều chính và cuộc hôn nhân mới mẻ, Bạch Tuyết vẫn nhận thấy mình thường xuyên tự hỏi liệu lời đoán định về sự ích kỷ của mẹ kế nàng có đúng không. Điều gì đó bên trong vị nữ hoàng trẻ tuổi này vẫn không tin một người lại có thể độc ác đến vậy. “Mẹ có biết ngoài kia người ta gọi mẹ là gì không?” Bạch Tuyết hỏi. “Bên ngoài những bức tường nhà giam này, nhân gian gán cho mẹ là Hoàng hậu Độc Ác.” “Nếu thế gian đã gán cho ta tên gọi đó, vậy thì đó là cái tên mà ta sẽ học cách để sống cùng,” Hoàng hậu Độc Ác đáp. “Một khi thế gian này quyết định, không có nhiều thứ người ta có thể làm để thay đổi cách nghĩ của nó.” Bạch Tuyết lấy làm ngạc nhiên trước sự dửng dưng của người mẹ kế, nhưng Bạch Tuyết cần bà phải để tâm. Nàng cần biết trong bà vẫn còn chút nhân tính. “Họ muốn xử tử mẹ sau khi tra rõ tội lỗi mẹ đã phạm với con! Cả vương quốc này muốn mẹ phải chết!” Giọng Bạch Tuyết nhẹ dần, chỉ còn là lời thì thầm yếu ớt khi nàng cố chống lại những cảm xúc dâng trào. “Nhưng con sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Con không thể…” “Vậy ra ta phải cảm ơn ngươi vì tha chết cho ta sao?” Hoàng hậu Độc Ác hỏi vặn. “Nếu ngươi trông chờ ai đó phủ phục xuống chân ngươi và bày tỏ lòng biết ơn, ngươi đã vào nhầm phòng giam rồi đấy.” “Con không làm thế vì mẹ đâu. Con làm thế vì bản thân con,” Bạch Tuyết đáp. “Dù sao đi nữa, người là người mẹ duy nhất con từng biết. Con quyết không tin mẹ lại là quái vật vô lương tâm như người ta nói. Bất kể điều đó có đúng hay không, con tin rằng sâu thẳm trong mẹ còn có một trái tim.” Nước mắt lăn dài trên gương mặt trắng trẻo của Bạch Tuyết. Tuy đã hứa với lòng mình sẽ vững tâm, nàng vẫn không kiềm chế được cảm xúc khi đứng trước người mẹ kế. “Vậy thì ta e rằng ngươi đã sai rồi,” Hoàng hậu Độc Ác nói. “Lương tâm duy nhất ta có đã chết từ lâu và trái tim duy nhất mà ta sở hữu là một trái tim bằng đá.” Hoàng hậu Độc Ác đúng là có một quả tim đá, nhưng không phải trong người bà ta. Một hòn đá có hình dạng và kích thước hệt như trái tim người được đặt trên cái bàn nhỏ ở góc phòng giam. Đó là vật duy nhất Hoàng hậu Độc Ác được phép giữ bên mình khi bà ta bị bắt. Bạch Tuyết nhận ra hòn đá đó từ những ngày thơ ấu. Nó bao giờ cũng rất quý giá đối với mẹ kế nàng, Hoàng hậu Độc Ác chưa bao giờ để nó ra khỏi tầm mắt. Bạch Tuyết chưa từng được phép chạm vào hay cầm lấy nó, nhưng bây giờ thì không gì có thể ngăn cản nàng. Nàng bước ngang qua phòng giam, cầm vật đó lên và tò mò nhìn. Nó gợi lại biết bao nhiêu hồi ức. Mọi sự thờ ơ và nỗi buồn mẹ kế đã gây cho nàng khi nàng còn là một đứa trẻ ùa về. “Cả đời này con chỉ muốn một điều duy nhất,” Bạch Tuyết nói. “Tình yêu thương của mẹ. Khi còn là một cô bé, con từng dành hàng giờ lẩn trốn trong lâu đài, những mong mẹ sẽ nhận thấy thiếu vắng con, nhưng mẹ chưa từng nhận ra. Mẹ ở trong phòng hết ngày này qua ngày khác với tấm gương, kem dưỡng da của mẹ và hòn đá này. Mẹ dành nhiều thời gian cho những người lạ mặt với các bí quyết chống lão hóa hơn là cho con gái của mẹ. Nhưng vì sao chứ?” Hoàng hậu Độc Ác không trả lời. “Bốn lần mẹ cố gắng giết con, ba lần chính tay mẹ thực hiện,” Bạch Tuyết tiếp, lắc đầu không tin được. “Khi mẹ phục sức như một bà già và đến tìm con nơi nhà của các chú lùn, con biết đó là mẹ chứ. Con biết mẹ rất nguy hiểm, nhưng con vẫn để mẹ vào nhà. Con vẫn hy vọng rằng mẹ sẽ thay đổi. Con đã để mẹ làm tổn thương con.” Bạch Tuyết chưa bao giờ tiết lộ điều này với bất cứ ai, nàng chỉ biết vùi mặt vào tay khóc sau khi thốt nên lời. “Ngươi nghĩ ngươi biết thế nào là tan nát cõi lòng ư?” Hoàng hậu Độc Ác nói với vẻ gay gắt đến độ khiến người con riêng của chồng giật mình. “Ngươi chẳng biết gì về nỗi đau cả. Ngươi không bao giờ nhận được chút trìu mến nào từ ta nhưng từ khi được sinh ra, ngươi đã được cả vương quốc này yêu mến. Người khác, trái lại, không được may mắn thế. Với Người khác, Bạch Tuyết à, đôi khi tình yêu duy nhất của đời họ cũng bị tước đi.” Bạch Tuyết không biết phải nói gì. Bà ấy đang nói về tình yêu nào đó? “Mẹ đang nói về cha con sao?” Bạch Tuyết hỏi. Hoàng hậu Độc Ác nhắm mắt lại và lắc đầu. “Tính ngây thơ quả là một phẩm chất được nhiều ưu ái,” bà ta nói. “Tin hay không thì tùy, Bạch Tuyết à, ta từng có cuộc đời của riêng ta trước khi bước vào cuộc đời ngươi.” Bạch Tuyết lặng đi và hơi xấu hổ. Dĩ nhiên nàng biết mẹ kế từng có một cuộc đời khác trước khi kết hôn với cha nàng, nhưng nàng chưa bao giờ nghĩ tới những gì có trong cuộc đời đó. Mẹ kế của nàng luôn rất kín đáo, Bạch Tuyết chẳng có lý do gì để nghĩ sâu xa cả. “Tấm gương của ta đâu?” Hoàng hậu Độc Ác gặng hỏi. “Nó sẽ bị phá hủy,” Bạch Tuyết đáp lời bà. Đột nhiên, hòn đá của Hoàng hậu Độc Ác trong tay Bạch Tuyết trở nặng. Bạch Tuyết không rõ liệu có thật vậy không hay nàng chỉ tưởng tượng thế thôi. Cánh tay cầm hòn đã trở nên mỏi nhừ và nàng phải đặt nó xuống. “Có quá nhiều điều mẹ không nói cho con,” Bạch Tuyết nói. “Có quá nhiều điều bao nhiêu năm nay mẹ giấu con.” Hoàng hậu Độc Ác cúi đầu và nhìn chằm chằm xuống đất. Bà giữ im lặng. “Con có lẽ là người duy nhất trên thế gian dành cho mẹ lòng thương cảm. Làm ơn nói con biết rằng lòng thương đó không phải là vô ích,” Bạch Tuyết van xin. “Nếu có chuyện gì trong quá khứ tác động đến những quyết định gần đây của mẹ, hãy cho con biết.” Vẫn không có câu trả lời nào. “Con sẽ không rời khỏi đây đến chừng nào mẹ kể con nghe!” Bạch Tuyết kêu lên, lần đầu trong đời nàng lớn tiếng. “Được thôi,” Hoàng hậu Độc Ác nói. Bạch Tuyết liền ngồi xuống một chiếc ghế cao khác trong phòng giam. Hoàng hậu Độc Ác nấn ná trong giây lát trước khi bắt đầu và Bạch Tuyết càng thêm chờ đợi. “Người ta sẽ mãi mãi lãng mạn hóa câu chuyện của ngươi,” bà ta bảo Bạch Tuyết. “Sẽ không có ai đoái hoài đến câu chuyện của ta. Ta sẽ tiếp tục bị hạ nhục, biến thành một kẻ độc ác ghê tởm cho đến muôn đời. Tuy nhiên, điều mà thế giới không thể nhận ra là một nhân vật phản diện chỉ là một nạn nhân mà chuyện của họ vẫn chưa được kể. Tất cả những gì ta đã làm, sự nghiệp cả đời ta và tội lỗi của ta chống lại ngươi, tất cả là vì ông ấy.” Bạch Tuyết cảm thấy trái tim mình trở nên nặng nề. Đầu óc nàng choáng váng và sự tò mò chiếm lĩnh toàn bộ con người nàng. “Ai cơ?” nàng vội hỏi đến độ quên kiềm chế sự nóng vội trong giọng nói. Hoàng hậu Độc Ác nhắm mắt lại và để những ký ức trở lại. Hình ảnh những nơi chốn, những người bà đã biết trong quá khứ hiện ra từ thẳm sâu tâm trí như ánh đom đóm trong hang động. Có rất nhiều điều bà đã chứng kiến trong những năm tháng thanh xuân, quá nhiều thứ bà ước rằng mình nhớ và quá nhiều thứ bà muốn quên đi. “Ta sẽ kể ngươi nghe về quá khứ của ta, hay ít nhất là quá khứ của người từng là ta,” Hoàng hậu Độc Ác nói. “Nhưng ta cảnh báo ngươi. Chuyện của ta không phải là một câu chuyện có kết thúc hạnh phúc mãi mãi.”   Mời các bạn đón đọc Bùa Ước của tác giả Chris Colfer.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kỵ Sỹ Không Đầu
Main Rid sinh năm 1818 tại Bắc Ailen và mất năm 1883 tại Luân Đôn. Từ nhỏ ông đã tỏ ra là một cậu bé rất có cá tính, can đảm, ưa thể thao, thích đi đây đi đó mặc dù xuất thân trong một gia đình đã mấy đời làm linh mục. Vào năm hai mươi tuổi, ông bỏ nhà, vượt Đại Tây Dương sang chây Mỹ. Tuy nhiên khác với những kẻ hướng về vùng đất mới với ước mong khi trở về nặng túi, Main Rid ra đi với lòng khao khát tự do và khám phá những thế giới mới. Ở Mỹ Châu, dấu chân ông ngang dọc khắp nơi, ông làm đủ nghề: giáo viên, buôn bán, săn bắn, đồng thời còn là phóng viên chuyên viết phóng sự, làm thơ, làm nghệ sỹ, viết văn. Năm 1847 cuộc chiến tranh giữa Hoa kỳ và Mếch-xích bùng nổ, ông gia nhập đội quan những người tình nguyện, nhưng sau đó ông đã nhận ra đây chỉ là một cuộc chiến tranh ăn cướp. Rồi ông bị thương nặng. Chính trong thời gian chữa vết thương ông đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình “Những mũi tên tự do” được in ở Anh năm 1849. Và từ đó, tức là khi quay về lại châu Âu ông đã lần lượt cho ra đời một loạt các tiểu thuyết đặc sắc “Những kẻ săn da đầu” “Ôxkêôla thủ lĩnh bộ lạc Xêminol” “Những người Kvaterôn”. Tiểu thuyết “Kỵ sỹ không đầu” ra đời năm 1865 là quyển tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Main Rid, được đông đảo bạn đọc trên nhiều nước nhiệt liệt hoan nghênh. KỴ SỸ KHÔNG ĐẦU mở ra cho bạn đọc thấy một chương bi thảm và hùng tráng trong lịch sử của mảnh đất Tếchdơt hoang sơ ngày đó. Đó là câu chuyện về mối tình nồng cháy giữa chàng trai săn ngựa hoang Moric Gieran dũng cảm, hào hiệp và nàng Luiza kiều diễu khao khát tự do. Biết bao hoạn nạn đã đến với đôi trai tài gái sắc này, song tình yêu của họ đã vượt lên hết thảy. Đó cũng là câu chuyện kể về mối xung đột dữ đội giữa một bên là những kẻ đầy dã tâm xâm chiếm đất đai, phá hoại hạnh phúc lứa đôi và sẵn sàng giết người như đại úy giải ngũ Kôlhaun, bọn “Mèo rừng” “Sói đồng”... với một bên là những con người trung thực, giàu nghị lực, biết tôn trọng nhân phẩm và sự công bằng như già Zep Xtump, chàng trai Henri... Qua câu chuyện rùng rơn, khốc liệt mang màu sắc phiêu lưu hoang dã, hấp dẫn bạn đọc này, Main Rid giúp chúng ta thấy rõ quá trình xâm nhập của các địa chủ Mỹ tới các vùng đất Mếchxich, cho thấy sự phân hóa của xã hội và ngay cả trong từng gia đình thời bấy giờ, cho thấy quan hệ người với người căng thẳng và thù địch trên mỗi bước đi. Cũng qua đó ông khẳng định quyền tự do, quyền bình đẳng cho mọi màu da, lên án chế độ nô lệ và coi đó là một vết nhơ làm ô nhục nước Mỹ, đồng thời ông cũng nói về những người da trắng nghèo khổ mà địa vị xã hội của họ cũng chẳng khác gì so với những người nô lệ. Vào cuối đời, Main Rid còn đến châu Mỹ một lần nữa. Lúc này Châu Mỹ đã hoàn toàn biến đổi. Nó không còn là đất nước của những người khai phá gan dạ mà là đất nước của sự kinh doanh, cạnh tranh gay gắt. Song những trang sách thời ấy của ông vốn thắm đượm tình yêu con người. lòng dũng cảm, tính cao thương vẫn mãi mãi truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho những trái tim trẻ tuổi tiếp tục làm những điều thiện cho đời. Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm KỴ SỸ KHÔNG ĐẦU với bạn đọc. *** Con hươu vùng Tếchdớt đang mơ màng trong đêm tĩnh mịch của trảng cỏ mênh mông chợt nghe thấy tiếng vó ngựa. Nhưng nó cũng chưa vội rời bỏ chỗ nằm, thậm chí còn chưa chịu nhỏm dậy. Khoảng không bao la này đâu phải chỉ có mình nó. Lũ ngựa hoang thảo nguyên cũng gặm cỏ ở đây vào ban đêm. Chú hươu chỉ rướn đầu lên - cặp sừng của nó đã nhô ra sau đám cỏ - nó nghe ngóng: tiếng động có lặp lại hay không? Một lần nữa tiếng vó ngựa lại vọng đến, nhưng bây giờ thì nó vang lên một cách khác. Có thể phân biệt được, cả tiếng kim loại, tiếng đập của vỏ thép vào đá sỏi. Đối với chú hươu tiếng động đó thật là nguy hiểm, khiến hành động của nó thay đổi ngay lập tức. Bật nhảy chồm lên và lao vút đi, nhưng ngay sau đó nó chợt đứng lại và ngoảnh ra sau, nó muốn biết: kẻ nào đã xáo động giấc ngủ của nó? Và trong ánh trăng vằng vặc chú hươu đã kịp nhận ra kẻ thù nguy hiểm nhất: đó là con người. Một người cưỡi ngựa đang tiến gần lại. Bị một nỗi sợ hãi bản năng xâm chiếm, chú hươu chực phóng tiếp. Nhưng có một cái gì đó trong diện mạo của người kỵ sỹ, một cái gì đó thật kỳ dị đã giữ chân nó lại. Con hươu dường như chỉ đứng trên hai chân sau, đầu ngoảnh lại, vừa run sợ vừa tiếp tục nhìn. Trong đôi mắt nâu mở to của nó ánh lên nỗi kiếp sợ và ngạc nhiên. Cái gì quái lạ trong hình dạng kỳ dị kia làm chú hươu chết lặng chăm chăm nhìn như vậy? Con ngựa ư? Không đây là một con ngựa rất bình thường được đóng yên cương cẩn thận - con ngựa rõ ràng không thể gợi lên cho nó nỗi ngạc nhiên và sợ hãi nào. Thế thì chú hươu chỉ có thể sợ người kỵ sỹ. Đúng như vậy! Người kỵ sỹ đã làm chú hươu khiếp sợ. Diện mạo người ấy có cái gì đó hết sức khủng khiếp, trái tự nhiên. Trời! Người kỵ sỹ không có đầu! Đến một con vật không lý trí cũng nhận ra điều đó. Ngay từ giây phút đầu tiên nhận ra, chú hươu đã hoảng hốt, không tài nào hiểu nổi: cái gì vậy? Kinh hoảng, nó bỏ chạy. Nó còn chưa dừng lại khi nào còn chưa bơi qua con sông Lêông và dòng nước cuồn cuộn còn chưa ngăn cách nó với người kỵ sĩ đáng sợ kia. Không hề chú ý đến chú hươu đang hoảng hốt bỏ chạy, dường như không biết đến sự hiện diện của nó, người kỵ sĩ không đầu tiếp tục con đường của mình. Kỵ sĩ cũng đi về phía con sông, nhưng chàng không hề vội vã, cả người và ngựa, bằng những bước chân long trọng, tiến bước chậm rãi, im lìm. Người kỵ sĩ không thốt ra một lời nói, cũng không có một cử chỉ nào thúc giục con ngựa, mà dường như đang chìm sâu vào những suy tư của mình, kỵ sĩ nới lỏng tay cương và con ngựa mệt mỏi gặm cỏ. Bỗng có tiếng rú của bọn sói thảo nguyên, con ngựa ngẩng lên, thở phì phì và dừng lại. Như đắm mình trong những tình cảm thấm sâu nào đó, nên những sự việc nhỏ bé không kéo được chàng ra khỏi trạng thái đăm chiêu. Không một tiếng động nào có thể hé mở được bí mật của chàng. Con hươu hoảng hốt, con ngựa, bầy sói và vầng trăng nửa đêm là những người duy nhất chứng kiến sự đăm chiêu trầm lặng ấy của chàng. Kỵ sĩ khoác trên vai một tấm xerap1 rộng, khi gió giật, tấm choàng phồng lên làm che lấp một phần thân hình. Chàng mang đôi ghệt bằng da báo để tránh hơi ẩm ban đêm và những cơn mưa rào nhiệt đới. Chàng đi về phía trước, lặng lẽ như những vì sao lấp lánh trên đầu, thờ ơ như tiếng dế kêu ri rỉ trong cỏ, như ngọn gió đêm vờn trên những nếp áo choàng. Cuối cùng hình như có một cái gì đó cũng kéo được kỵ sĩ ra khỏi mối trầm tư - con ngựa của chàng chuyển nước kiệu rồi lắc đầu và hý lên vui mừng - nó rướn cổ lên chạy về phía trước, lỗ mũi phập phồng và trong khoảnh khắc đã phóng nước đại. Con ngựa càng lao nhanh khi dòng sông hiện ra gần trước mắt. Kỵ sĩ chưa dừng lại chừng nào chưa đến với dòng nước trong vắt và nước chưa dâng lên đến đầu gối chàng. Con ngựa vục mõm uống hối hả. Khi đã thỏa mãn cơn khát, nó bơi qua dòng sông và bằng một bước nhảy vọt, con ngựa nhanh nhẹn lao lên bờ dốc. Đến bờ, kỵ sĩ dừng lại, như chờ cho ngựa rũ nước. Tiếng dây cương, tiếng bàn đạp loảng xoảng trong đám mây bụi nước. Kỵ sĩ không đầu hiện lên trong vầng sáng đó và tiếp tục con đường của mình. Con ngựa chắc đã bị đinh thúc dồn và bị cương giật nên nó không còn đủng đỉnh nữa mà phi chạy một cách thành thạo về phía trước, như trên con đường mòn quen thuộc. Phía trước, trảng cỏ mênh mông trải tận chân trời. Và trên nền xanh thẳm của bầu trời nổi lên hình dạng kỳ dị, giống như một con nhân sư bị phạt cụt. Hình dạng kỳ dị đó xa dần cho tới khi biến đi trong ánh trăng tà huyền ảo. Mời các bạn đón đọc Kỵ Sỹ Không Đầu của tác giả Main Rid.
Tarát Bunba
Tarát Bunba là hiện thân của những đặc điểm cao quý nhất của dân tộc Cô-dắc. Hình ảnh Bunba đượm vẻ nghiêm khắc mà lại dịu dàng của mối tình phụ tử. Tarát là người cha của các con mình, đồng thời cũng là người cha của tất cả những người Cô-dắc tín phục ông, đã ký thác cuộc đời, tâm hồn và thể xác cho ông – người chỉ huy kính mến. Khi cầm súng bắn đứa con trai rứt ruột của mình đã phản lại dân tộc, Bunba không những chỉ làm nhiệm vụ của một người lính mà làm nhiệm vụ thiêng liêng của người con của dân tộc Cô-dắc. Tiếng nói của ông già nghiêm khắc còn văng vẳng đâu đây: “Tao đã đẻ ra mày thì bây giờ chính tao lại giết mày…”. *** Gogol (1809-1852) sinh ngày 31.3.1809 là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Gogol sinh ra ở vùng Sorochintsi của Guberniya Poltava (bây giờ là Ukraina) trong một gia đình thuộc mức tầm thường người Ukraina (hay đúng hơn là người Ruthenia). Tên ban đầu của ông theo tiếng Ukraina là Mykola. Bố của Gogol là Vasily Afansevich Gogol, một kịch tác gia tài tử, chết khi ông mới 15 tuổi. Mẹ ông là Mariya Yanopvskaya, luôn có tâm trí buồn sầu u uất và mộ đạo. Sự mộ đạo này cũng đã có ảnh hưởng tới thế giới quan và trạng thái tâm thần u sầu sau này của ông. Khi sinh Gogol, con trai đầu lòng trong số ba người con, bà chỉ mới 15 tuổi. Vào năm lên 12 tuổi, Gogol được gửi vào học trong Lycée Nezhinski. Hai năm cuối ở Lycée Nezhinski là lúc Gogol bắt đầu đi vào nghiệp viết. Các truyện ngắn hay thơ được ông gửi đăng trong tạp chí của trường, đã tỏ rõ trước cho thấy những dấu hiệu của một tài năng. Cũng giống như những chàng trai trẻ Ukraina khác, vào năm 19 tuổi, ông đã chuyển tới thủ đô Sankt-Peterburg để tìm vận may (1828). Vào năm 1831, ông gặp Aleksandr Sergeyevich Pushkin, người đã ủng hộ ông trở thành nhà văn và là bạn của ông sau này. Ông đã dạy lịch sử tại Trường Đại học Quốc gia Sankt-Peterburg từ năm 1834 đến năm 1835. Tác phẩm đầu tay, Hans Kuchelgarten (1829), do ông tự bỏ tiền túi ra in, là một thất bại hoàn toàn, và ông đã ném vào ngọn lửa tất cả những ấn bản ông thấy. Ông tiếp tục viết một số lượng lớn các tập truyện ngắn ở Sankt-Peterburg, bao gồm Nevsky Prospekt, Nhật ký của một người điên, Chiếc áo choàng và Cái mũi (truyện này đã được dựng thành vở opera Cái mũi do Dmitry Shostakovich dàn dựng). Mặc dù tập 1 của truyện Những buổi tối trong một trang trại gần Dikanka là thành công thực sự đầu tiên của ông, tên tuổi ông lại chìm đi sau khi xuất bản truyện Arabesques. Vở kịch vui nhộn Viên Tổng thanh tra, làm năm 1836, lại một lần nữa giúp ông thu hút được sự chú ý của công chúng tới tư cách là một nhà văn. Với giọng văn mỉa mai, châm biếm, cũng giống như trong phần lớn các tác phẩm của ông, đã tạo ra khá nhiều cuộc tranh luận, và sau đó Gogol đã phải chạy sang Roma. Tại đây, ông đã sáng tác Những linh hồn chết (1842), tác phẩm được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất của văn chương thế giới. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nẩy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. Tác phẩm tiêu biểu 1829 : Vinh quang xứ Italy (thơ) 1829 : Thơ kể chuyện (được xuất bản với bút danh V.Alov) 1830 : Người đàn bà (truyện ngắn) 1831 - 1832 : Những buổi tối ở thôn ấp gần Dikanka (tập truyện ngắn) 1835 : Mirgorod (tập truyện ngắn) Những điền chủ cổ xưa Taras Bulba (dựa trên vở opera cùng tên của Mykola Lysenko) Viy Chuyện Ivan Ivanovich cãi nhau với Ivan Nikiforovich như thế nào 1835: Ả Rập (tập truyện ngắn) Bức chân dung (truyện ngắn) Một chương trong cuốn tiểu thuyết lịch sử xưa cũ (truyện ngắn) Đại lộ Nevsky (truyện ngắn) Người tù binh Kavkaz (truyện ngắn) Nhật ký một người điên (truyện ngắn) 1836 : Cái mũi (truyện ngắn) 1836 : Cái bánh xe (truyện ngắn) 1836 : Quan thanh tra (hài kịch) 1842 : Rời nhà hát (tiểu luận) 1842 : Roma (đoạn truyện) 1842 : Chiếc áo khoác (truyện ngắn) 1842 : Đám cưới (kịch, Modest Mussorgsky đã dựng thành vở opera cùng tên và được Mikhail Ippolitov-Ivanov hoàn thiện) 1842 : Những linh hồn chết (tiểu thuyết) 1843 : Những con bạc (kịch) 1847 : Những đoạn chọn lọc từ các lá thư gửi bạn (tập thư và tiểu luận) Mời các bạn đón đọc Tarát Bunba của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.
Dám Bị Ghét
Ở vùng ngoại ô của cố đô được ngợi ca là thành phố ngàn năm lịch sử, có một Triết gia phát biểu rằng, thế giới vô cùng đơn giản và con người có thể hạnh phúc ngay lúc này. Không thể chấp nhận quan điểm đó, một người trẻ tuổi đã tới gặp để hỏi rõ ông thực sự nghĩ gì. Trong con mắt buồn bã của Chàng thanh niên, thế giới chỉ như một cõi hỗn mang đầy mâu thuẫn, không hề có hạnh phúc. Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Chàng thanh niên: Thầy khẳng định đó không phải lý tưởng mà là hiện thực? Nghĩa là, mọi vấn đề trong cuộc đời của thầy và tôi đều đơn giản? Triết gia: Tất nhiên là vậy. Chàng thanh niên: Được thôi. Trước khi tranh luận, tôi xin được trình bày mục đích chuyến viếng thăm lần này. Trước hết, lý do đầu tiên tôi đến đây là để tranh luận cho ra nhẽ với thầy. Và nếu được, tôi mong thầy rút lại ý kiến của mình. Triết gia: Ha ha ha. Chàng thanh niên: Bởi vì tôi đã nghe lời đồn đại về thầy. Rằng có một Triết gia khác người sống ở vùng này đang truyền bá một lý tưởng khó ai có thể làm ngơ. Đó chính là con người có thể thay đổi, thế giới cực kỳ đơn giản và ai cũng có thể hạnh phúc. Với tôi, đó đều là những luận điệu không thể chấp nhận được. Vì vậy, tôi muốn đích thân đến trao đổi với thầy và nếu có điểm gì bất hợp lý, tôi xin phép được điều chỉnh lại... Liệu thầy có phiền không? Triết gia: Không hề. Tôi rất hoan nghênh. Bản thân tôi cũng mong muốn được lắng nghe tiếng nói của những thanh niên như cậu để học hỏi thêm nhiều điều. Chàng thanh niên: Cám ơn thầy. Tôi cũng không có ý định chưa rõ trắng đen đã phủ định thầy. Hãy giả định rằng luận điểm của thầy là đúng, từ đây, chúng ta bắt đầu suy nghĩ. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Nếu như mệnh đề này có phần nào chân lý thì có lẽ chỉ là trong thế giới của trẻ thơ. Thế giới của trẻ thơ không có những nghĩa vụ thực tế như lao động, nộp thuế, trẻ thơ sống những ngày tự do, thoải mái trong vòng tay che chở của cha mẹ và xã hội, chúng cho rằng cuộc sống như vậy sẽ kéo dài mãi mãi và mình có thể làm được bất cứ điều gì. Cặp mắt chúng đã được che đi để khỏi chứng kiến hiện thực phũ phàng. Vậy nên, đúng là thế giới phản chiếu trong đôi mắt trẻ mang một hình hài đơn giản. Nhưng càng lớn, thế giới lại càng hiện rõ bản chất, nó nhắc đi nhắc lại với chúng ta cái thực tế "Mày chẳng qua chỉ có thế mà thôi", nó biến mọi khả năng được mong đợi trong cuộc đời trở thành bất khả thi. Những tháng ngày hạnh phúc, lãng mạn kết thúc, nhường chỗ cho thời kỳ chủ nghĩa hiện thực tàn khốc. Triết gia: Ừm, thú vị lắm. Chàng thanh niên: Không chỉ có vậy. Con người ta khi trưởng thành sẽ bị ràng buộc bởi những mối quan hệ xã hội phức tạp, bị đẩy cho nhiều trách nhiệm. Bất kể là trách nhiệm trong công việc, gia đình hay trách nhiệm xã hội. Tất nhiên, các vấn đề xã hội mà khi còn nhỏ con người chưa thể hiểu được như sự kỳ thị, chiến tranh, giai cấp cũng đặt ra trước mặt chúng ta, và ta không thể phớt lờ. Tôi nói không đúng sao? Triết gia: Đúng chứ. Cậu cứ tiếp tục đi. Chàng thanh niên: Trong thời đại tôn giáo còn thịnh hành thì có lẽ chúng ta còn có sự cứu rỗi. Khi đó, ý chỉ của các thần chính là chân lý, là thế giới, là tất cả. Chỉ cần nghe theo ý chỉ đó thì sẽ chẳng còn mấy vấn đề cần lo lắng. Nhưng giờ tôn giáo đã mất đi sức mạnh và tín ngưỡng cũng chỉ mang tính hình thức. Không có chỗ dựa tinh thần, ai cũng run rẩy vì bất an, bị giam cầm trong nỗi hoài nghi. Mọi người sống mà chỉ nghĩ đến bản thân. Đó chính là xã hội hiện đại. Vậy, thưa thầy, xin hãy trả lời tôi. Trước một hiện thực như vậy, mà thầy vẫn cho rằng thế giới đơn giản sao? Triết gia: Câu trả lời của tôi không hề thay đổi. Thế giới đơn giản, cuộc đời cũng đơn giản. Chàng thanh niên: Tại sao? Chẳng phải ai cũng thấy thế giới là một mớ hỗn độn đầy mâu thuẫn sao? Triết gia: Đó không phải bản thân thế giới phức tạp, mà là cậu đang thấy thế giới phức tạp. Chàng thanh niên: Tôi sao? Triết gia: Con người không sống trong thế giới khách quan mà sống trong thế giới chủ quan do chính mình tạo ra. Thế giới cậu đang thấy khác với thế giới tôi đang thấy, thêm nữa có lẽ là một thế giới khó có thể chia sẻ với bất kỳ ai khác. Chàng thanh niên: Thầy nói vậy nghĩa là sao? Chẳng phải cả thầy và tôi đều đang sống trong cùng một thời đại, cùng một đất nước và cùng thấy những điều giống nhau sao? Triết gia: Xem nào, trông cậu còn trẻ lắm, vậy cậu đã uống nước giếng vừa mới múc lên bao giờ chưa? Chàng thanh niên: Nước giếng à? Thực ra thì đã khá lâu rồi, nhà bà tôi ở quê có một giếng nước. Uống nước giếng mát lạnh ở nhà bà vào những ngày hè nóng bức là một niềm vui lớn. Triết gia: Có lẽ cậu cũng biết là nhiệt độ của nước giếng quanh năm ổn định ở mức 18 độ c. Đây là con số khách quan, ai đo cũng vậy. Nhưng nước giếng uống vào mùa hè, ta cảm thấy mát lạnh, còn uống vào mùa đông lại cảm thấy ấm áp. Nghĩa là dù nhiệt độ trên nhiệt kế luôn giữ ở mức 18 độ c nhưng cảm nhận vào mùa hè và mùa đông lại khác nhau. Chàng thanh niên: Đó là ảo giác gây ra bởi sự thay đổi của môi trường. Triết gia: Không, không phải là ảo giác. Đối với cậu lúc đó, nước giếng mát và ấm đều là sự thật không thể phủ nhận. Sống trong một thế giới chủ quan là như thế. Nhận định chủ quan rằng chúng ta "thấy như thế nào" là tất cả, và chúng ta không thể thoát khỏi nhận thức chủ quan của mình. Bây giờ, thế giới trong mắt cậu là một mớ hỗn độn, phức tạp, kỳ quái. Nhưng, nếu bản thân cậu thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản. Vấn đề không phải thế giới như thế nào mà là cậu như thế nào. Chàng thanh niên: Tôi như thế nào? Triết gia: Đúng vậy. Có khi cậu đang nhìn thế giới qua cặp kính râm. Hiển nhiên thế giới nhìn qua đó phải u ám rồi. Vậy thì đừng rầu rĩ vì thế giới u ám nữa, chỉ cần bỏ kính râm ra là được. Thế giới cậu thấy khi bỏ cặp kính râm ra có khi lại quá chói chang, khiến cậu buộc phải nhắm mắt lại, có khi khiến cậu lại muốn đeo kính vào. Dù vậy, cậu có dám bỏ luôn kính ra không? Cậu có dám nhìn thẳng vào thế giới này không? Cậu có cái can đảm đó không? Chàng thanh niên: Can đảm ư? Triết gia: Đúng vậy, đây là vấn đề can đảm. Chàng thanh niên: ... Thôi được rồi. Tôi có cả núi ý kiến phản bác nhưng có lẽ nên để sau. Tôi xin xác nhận lại là, thầy cho rằng "con người có thể thay đổi"? Và nếu tôi thay đổi, thế giới sẽ trở lại hình hài đơn giản của nó. Triết gia: Tất nhiên, con người có thể thay đổi. Không chỉ thế, con người còn có thể trở nên hạnh phúc. Chàng thanh niên: Bất kỳ ai, không có ngoại lệ? Triết gia: Không có ngoại lệ, vả lại còn có thể vào bất cứ lúc nào. Chàng thanh niên: Ha ha, một tuyên bố mạnh bạo! Thật thú vị, thưa thầy. Giờ tôi xin phép được phản bác! Triết gia: Tôi sẽ không bỏ chạy hay trốn tránh đâu. Chúng ta cứ thong thả trò chuyện. Quan điểm của cậu là "con người không thể thay đổi" đúng không? Chàng thanh niên: Không thể thay đổi. Hiện tại, chính tôi đang khổ sở vì mình không thể thay đổi đây. Triết gia: Nhưng, cậu cũng mong muốn thay đổi? Chàng thanh niên: Tất nhiên rồi. Nếu có thể thay đổi được, nếu có thể làm lại cuộc đời, tôi sẽ vui sướng quỳ gối trước thầy. Nhưng chỉ sợ lại thành ra thầy quỳ gối trước tôi mất thôi. Triết gia: Được thôi. Sẽ thú vị lắm đây. Nhìn cậu, tôi lại nhớ đến mình thời sinh viên. Nhớ đến mình thời còn trẻ tràn đầy nhiệt huyết, đã tới tận nơi gặp Triết gia để mưu cầu chân lý. Chàng thanh niên: Vâng, đúng thế đấy. Tôi đang mưu cầu chân lý. Chân lý của cuộc đời. Triết gia: Trước đây tôi chưa từng nhận đệ tử, cũng không hề thấy cần thiết phải làm điều đó. Nhưng kể từ khi trở thành môn đồ của triết học Hy Lạp và gặp được một quan niệm khác, tôi có cảm giác trong thâm tâm mình đã chờ đợi một Chàng thanh niên như cậu bấy lâu nay. Một quan niệm khác? Đó là gì vậy? Nào, hãy cùng vào thư phòng của tôi. Sẽ là một đêm dài đây. Tôi sẽ pha cà phê nóng. ❄❄❄❄❄❄❄❄❄ Cuốn sách này tóm tắt tư tưỏng của Alfred Adler (tâm lý học Adler), người được mệnh danh là một trong "ba người khổng lồ của tâm lý học" sánh ngang với Freud và Jung, qua hình thức câu chuyện "cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và Triết gia". Được sự ủng hộ to lớn ở các nước châu Âu và Mỹ, tâm lý học Adler đưa ra câu trả lời rất đơn giản và cụ thể cho câu hỏi mang tính triết học "Làm thế nào để con người sống hạnh phúc?" Hiểu được tư tưỏng có thể coi là một chân lý thế giới này, cuộc đời bạn từ nay sẽ thay đổi ra sao? Hay sẽ không có gì thay đổi...? Nào, hãy cùng Chàng thanh niên bước qua "cánh cửa". *** Các bạn thường than vãn về các mối quan hệ làm các bạn trở nên mệt mỏi. Người ngoài thì thấy các bạn nhạt nhẽo và vô nghĩa. Bản thân các bạn thì thấy bản thân mình kém cỏi so với mọi người. Quá khứ của bạn cũng chẳng mấy tốt đẹp, đầy những điều buồn đau và nhìn về một tương lai không mấy tươi sáng. Bạn lại sống trong một môi trường đòi hỏi những yêu cầu đầy khắc nghiệt và thậm chí những quy chuẩn hết sức phi lý. Bạn trở nên bế tắc bởi các thứ bao quanh và càng tồi tệ khi phải sống theo khuôn mẫu của người khác. Và cách giải thoát cho bạn là bạn dám sống với cá tính, với nhu cầu của mình. Và Dám bị ghét của hai tác giả Nhật Bản Kishimi Ichiro và Koga Fumitake sẽ là cánh cửa giúp bạn giải quyết những vấn đề trên. Bạn bất hạnh không phải do quá khứ và hoàn cảnh, càng không phải do thiếu năng lực. Bạn chỉ thiếu “can đảm” mà thôi. Nói một cách khác, bạn không đủ “can đảm” để dám hạnh phúc.” [...] Bởi can đảm để dám hạnh phúc bao gồm cả “can đảm để dám bị ghét” nữa. [...] Chỉ khi dám bị người khác ghét bỏ, chúng ta mới có được tự do, có được hạnh phúc. Cuốn self- help mang hình bóng của một tác phẩm văn học kinh điển Khi nhìn tên sách và trang bìa của cuốn sách thì đích thực đây là một cuốn self – help. Nhưng điểm bất ngờ là khi mở những trang đầu tiên, đọc những câu mở đầu chúng ta lại nghĩ rằng đây là một tác phẩm văn học kinh điển. Đó là một cuộc đối thoại giữa Chàng thanh niên và người Triết gia. Tất cả đều có cốt truyện, có nhân vật và sự việc, nó không hề giống những cuốn self – help khác mà các bạn đã từng đọc. Cuốn sách được trình bày một cách sinh động, cuốn hút và văn phong cũng vô cùng mới mẻ, hấp dẫn, đem lại sự cuốn hút, không hề nhàm chán đối với người đọc.     Chàng thanh niên: Tôi xin hỏi lại thầy. Có phải thầy cho rằng thế giới đơn giản đến từng ngóc ngách? Triết gia: Đúng vậy. Thế giới đơn giản đến khó tin. Đời người cũng vậy. Một cuốn sách self – help quá đặc biệt, khi những thông điệp, những bài học được truyền tải qua góc nhìn của chàng thanh niên và nhà Triết gia. Điều này tạo nên một dấu ấn đặc biệt của Dám bị ghét so với những cuốn self - help khác! Cậu bất hạnh bởi cậu tự chọn lấy bất hạnh                    Nhiều người luôn than rằng tại sao tôi lại bất hạnh như thế này? Nhưng cuộc sống này là của bạn, là do bạn điều khiển. Chỉ là bạn có biết tận dụng và tận hưởng nó hay không mà thôi. Chả ai đem đến bất hạnh cho bạn cả vì làm gì có ai sống cuộc sống của bạn, làm gì có ai lựa chọn cách sống thay bạn. Bạn bất hạnh là do chính bản thân bạn tự lựa chọn lấy. Ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, cậu đã chọn “bất hạnh”. Đó không phải là cậu sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh hay rơi vào tình cảnh bất hạnh, mà vì cậu đã cho rằng đối với bản thân mình “bất hạnh” là một dạng “thiện”. Những câu nói của nhà Triết gia giải đáp những câu hỏi của chàng thanh niên khiến chúng ta có những cái nhìn khách quan hơn về cuộc sống, nhìn bao dung hơn về cuộc đời, đơn giản cách nhìn nhận và cảm nhận. Cuộc đời cậu được quyết định “ngay tại đây, vào lúc này” Nhà triết gia đã giảng giải cho chàng thanh niên rất nhiều điều triết lý liên quan đến tâm lý học Adler. Đặc biệt là vấn đề thay đổi lối sống. Nhà triết gia nói rằng cậu không thể thay đổi bản thân vì cậu quyết tâm không thay đổi. Và cách để thay đổi lối sống chính là quyết tâm từ bỏ lối sống hiện nay. Hơn thế nữa, nhà Triết gia còn nói về các cái cớ để không từ bỏ lối sống hiện tại, những triết lý không hề sáo rỗng như đem lại những nhận thức mới mẻ hơn cho chính chàng thanh niên. Dự thi trượt thì cũng phải làm. Như có thể sẽ trưởng thành hơn hoặc có thể sẽ hiểu ra rằng mình cần phải đi theo con đường khác. Dù thế nào cũng có thể tiến lên phía trước. Thay đổi lối sống hiện tại chính là như vậy đó. Nếu cứ mãi không gửi bản thảo dự thi, sẽ chẳng tiến lên được... Cậu không cho rằng cứ đưa đủ các “lý do không thể làm được” để đáp lại một vấn đề đơn giản – một việc cần phải làm là một cách sống khổ sở sao?... Nhà triết gia còn cho rằng, cuộc đời của chàng thanh niên được quyết định ở chính thời điểm này, chứ không phải là những gì diễn ra ở trong quá khứ, không phải những gì đã xảy ra trước kia. Dù quá khứ có tối tăm đến mức nào chả ảnh hưởng gì đến tương lai cả. Mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ quan hệ giữa người với người Chàng thanh niên hỏi nhà Triết gia rằng “Để xóa tan phiền muộn thì chỉ có cách sống một mình trong vũ trụ” nghĩa là sao, chẳng phải nếu chỉ sống một mình sẽ lại bị cảm giác cô độc làm cho phiền muộn hay sao? Và nhà triết gia đáp lại rằng cậu cô độc không phải vì cậu có một mình. Và theo nhà triết gia nói về Adler cho rằng mọi phiền muộn đều bắt nguồn từ mối quan hệ giữa người với người. Vì những phiền muộn nội tâm không hề tồn tại mà trong bất cứ muộn phiền nào đều mang bóng dáng của người khác. Những muộn phiền này được Adler cho rằng, nếu như thế giới chỉ có chính mình, không có xuất hiện người khác, thì sự phiền muộn cũng sẽ tan biến. Cô độc không phải vì chỉ có một mình. Cậu cảm thấy mình bị tách biệt, xa lánh khỏi những người xung quanh, khỏi xã hội, cộng đồng, đó mới gọi là cô độc. Chúng ta cần người khác để cảm thấy cô độc. Nghĩa là con người chỉ trở thành “cá nhân” khi đặt vào các mối quan hệ xã hội mà thôi. Đời không phải là cuộc cạnh tranh với người khác Trong mỗi chúng ta, chắc chắn ai cũng có tâm lý, cuộc đời là một sự rượt đuổi, một sự cạnh tranh khốc liệt để chúng ta vươn lên vị trí số một. Nhưng theo Adler, tâm lý không ngừng phấn đấu để bản thân tiến lên thêm một bước, chứ không phải là tâm lý cạnh tranh để vượt lên trên người khác. Nhà triết gia có những câu nói rất ấn tượng và sâu sắc dành cho chàng thanh niên trẻ tuổi Chàng thanh niên  Ý thầy nói rằng đời không phải là cuộc cạnh tranh? Triết gia                Đúng vậy. Không cần cạnh tranh với ai cả. Chỉ cần không  ngừng tiến lên là được. Tất nhiên cũng không cần so sánh mình với người khác. Chúng ta ai cũng khác nhau. Chẳng có người nào giống hệt người nào về mặt giới tính, tuổi tác, kiến thức, kinh nghiệm , ngoại hình cả. Hãy có cái nhìn tích cực về những điểm khác biệt giữa mình và người khác. Chúng ta không giống nhau nhưng lại bình đẳng với nhau. Tự do thực sự là gì ? Chúng ta nói chúng ta muốn một cuộc sống tự do nhưng bản chất của tự do là gì, thực sự tự do là gì thì lại rất ít người biết. Theo như nhà triết gia tự do thực sự là đẩy bản thân lăn ngược lên dốc. Hay cụ thể hơn là tự do là bị người khác ghét. Chắc hẳn chúng chả muốn ai ghét mình cả. Chúng ta đều muốn ai cũng sẽ hòa hợp với mình. Nhưng để  sống mà không một ai ghét là một cách rất mất tự do. Chúng ta phải xoay sở bản thân chúng ta theo người nọ, theo người kia. Nhiều khi chúng ta cảm thấy thật mệt mỏi khi phải xoay sở như vậy. Nếu muốn được tự do tức là ta không phải xoay sở theo ai cả nghĩa là bị người khác ghét. Cái giá này là cái giá khá đắt chúng ta phải trả để tìm được sự tự do. Không sợ bị ghét mà cứ tiến lên phía trước. Không sống như hòn đá lăn xuống dốc mà cố gắng leo lên con dốc trước mặt. Đó chính là tự do đối với con người. Nếu trước mặt tôi có hai lựa chọn “cuộc đời được tất cả mọi người yêu mến” và “cuộc đời có những người ghét mình”, tôi sẽ không hề băn khoăn mà chọn cuộc đời sau. Tôi quan tâm tới việc mình như thế nào hơn là mình được mọi người đánh giá ra sao. Cũng có nghĩa là tôi muốn sống tự do. Sống hết mình “ngay tại đây, vào lúc này”