Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

14 Ngày Kinh Hoàng

"Trờ chơi tử thần" cuối cùng cũng đến hồi kết. Một phụ nữ ăn trộm trong siêu thị, bị nhân viên cửa hàng tóm được. Ông chủ thương tình giữ cô ta ở lại làm việc, nhưng dần phát hiện cô có nhiều điều khó hiểu. Một ngôi nhà ẩn trong rừng sâu, một đứa "con gái" bí ẩn... Ông chủ tìm cách tiếp cận mới biết cô cất giấu một bí mật kinh hoàng. Một nhà phê bình ẩm thực tiếng tăm tình cơ được thường thức một món ăn bí mật mà ông đã nếm từ hàng chục năm trước. Để tìm ra sự thật về món ăn này, ông bắt đầu bí mật điều tra và đã phát hiện ra một sự thật ghê rợn... Người kể câu chuyện trong buổi tối thứ mười ba là Chris. Cậu ta nói câu chuyện của mình là câu chuyện đặc biệt, cần sự tương tác của mọi người. Hơn nữa, dựa vào biểu hiện của mọi người trong quá trình tham gia, cậu ta có thể đoán được ai là "người tổ chức". Câu chuyện của cậu ta liệu có "công hiệu" như những gì mình nói? Nam Thiên – người cuối cùng sẽ kể câu chuyện như thế nào? Liệu có điều gì khiến tất cả mọi người đều phải bất ngờ? Ai sẽ là người chiến thắng trong trò chơi này? Thân phận thật sự của "người tổ chức" có được phá giải? Tất cả sẽ được giải đáp vào buổi tối thứ mười bốn. *** 14 ngày kinh hoàng – Ninh Hàng Nhất : cái kết đặc sắc Người tổ chức cuối cùng cũng lộ diện sau 14 ngày kinh hoàng. Ninh Hàng Nhất đã rất thành công khi thổi một luồng gió mới vào thể loại trinh thám cổ điển. Sau 4 tập truyện trinh thám gồm 1 câu chuyện chính dẫn dắt nhân vật và 14 câu chuyện nhỏ, tập 5 của cuốn tiểu thuyết 1/14 này mang tên 14 ngày kinh hoàng cuối cùng cũng đã phần nào làm hài lòng ngay cả những độc giả khó tính nhất. Câu chuyện của Nam Thiên Tạm thời bỏ qua 2 câu chuyện nhỏ như 11 câu chuyện trước đó. Câu chuyện của Sa Gia và Chris, suy cho cùng cũng chỉ làm cho bữa điểm tâm của câu chuyện cuối cùng của Nam Thiên thêm đặc sắc mà thôi. Bởi vì suy cho cùng, sau câu chuyện của Nam Thiên, người tổ chức sẽ lộ diện. Vậy hắn là ai? Sau khi kể xong câu chuyện của mình, Nam Thiên đã dùng một thủ thuật nhỏ, và qua đó biết được chân tướng của người tổ chức. Tất cả đều bàng hoàng Nhưng với Ninh Hàng Nhất, như vậy là chưa đủ để thách thức những người có chỉ số IQ trên 150. Ông liên tục tạo ra bất ngờ này đến bất ngờ khác. Và cuối cùng thì mọi việc mới vỡ lẽ. 14 người, cuối cùng chỉ có 2 người chết. Người tổ chức ra đầu thú với cảnh sát. Mọi chuyện đã kết thúc như vậy. Nhưng phần Vĩ thanh lại mở ra một câu chuyện mới, đứng đằng sau giật dây Người tổ chức, lại là một Mr Robot với thương hiệu “Kẻ nhắc tuồng”. Hy vọng trong tương lai sẽ xuất hiện thêm một tiểu thuyết 1/14 kế tiếp, và nhân vật kẻ nhắc tuồng này lại tiếp tục con đường của mình. Đối với hắn, Trò chơi tử thần mà hắn vạch ra xuyên suốt 14 ngày kinh hoàng này chính là một trò chơi, không hơn không kém. Đỉnh cao của trinh thám cổ điển Nhắc tới trinh thám cổ điển là nhắc tới những tiểu thuyết trinh thám mà tại đó, không dựa vào pháp y, không dựa vào dấu vân tay, nhóm máu, dấu chân…để điều tra ra chân tướng hung thủ. Hầu hết truyện trinh thám cổ điển đều phải dựa vào suy luận và sự thông minh của thám tử để tìm ra chân tướng. Ngày nay với sự hiện đại của công nghệ, đặc biệt là ứng dụng trong việc tìm ra thời gian tử vong, dựa vào dấu chân để tra ra chiều cao hung thủ…và nhiều thứ khác nữa, việc phá án đã đơn giản đi rất nhiều. Bởi vậy, để tạo ra một tiểu thuyết trinh thám cổ điển, nơi chỉ số IQ và suy luận logic lên ngôi, thì bối cảnh mà các tác giả tiểu thuyết trinh thám thường chọn là thời trung đại, hoặc các khu vực khép kín. 10 người da đen nhỏ của Agatha Christine cũng lấy bối cảnh là đảo hoang. Tokyo Hoàng đạo án thì là một vụ án của 40 năm về trước. Các bối cảnh trong truyện trinh thám Kindaichi cũng tập trung cho những địa điểm biệt lập với thế giới bên ngoài. Và Ninh Hàng Nhất cũng không ngoại lệ khi tạo ra một buồng giam 14 người trong 14 ngày, bắt họ tham gia trò chơi tử thần này. Sau khi cái kết được tiết lộ, những fan hâm mộ trung thành của truyện trinh thám cổ điển sẽ phần nào thỏa mãn, đặc biệt là lý giải logic được những “hạt sạn” trong tập 4 (Người thừa thứ 14-đã được reviewsach.net giới thiệu cách đây ít lâu). Những điểm cộng và điểm trừ của tập truyện 14 câu chuyện nhỏ được gắn kết lại xuyên suốt một câu chuyện lớn. Đó chính là tài năng của người kể chuyện. Trong 14 câu chuyện đó, có chuyện hay, có chuyện dở. Có kinh dị, có trinh thám, có bí ẩn, có hư cấu, có giả tưởng. Là một nổi lẩu thập cẩm gia vị đầy đủ, những kiến thức từ kinh tế, xã hội, tôn giáo, tri thức nhân loại cũng được tác giả vận dụng và khéo léo kết hợp hết sức tài tình. Nếu tách riêng 14 câu chuyện riêng lẻ ra, chắc hẳn không nhận được nhiều sự quan tâm lớn đến vậy. Điểm trừ là 14 câu chuyện quá dài, giống như Nghìn lẻ một đêm. Giọng văn trầm ổn, không tạo ra sự đáng sợ, hồi hộp và cuốn hút mặc dù một số đoạn có gắn mác kinh dị. Có lẽ ngay từ đầu, tác giả nên chọn 7 câu chuyện, làm thành tiểu thuyết 1/7 thì hơn. Để tình tiết trôi nhanh hơn, làm cho độc giả nghẹt thở, chỉ có vậy mới xứng danh là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hàng đầu.  Nhưng nếu ít người như vậy thì Người tổ chức sẽ nhanh chóng bị nhận diện. Thông điệp từ tác giả thông qua cuốn tiểu thuyết Không phải ngẫu nhiên mà Trò chơi tử thần được ngẫu nhiên xuất hiện. Nhân quả thường đến muộn, làm nhiều người tưởng rằng không có báo ứng. Thông qua cuốn tiểu thuyết, người đọc ngoài được trổ tài phá án, còn biết cách để sống lương thiện hơn. Sẽ không có 14 ngày kinh hoàng của những tiểu thuyết gia lừng danh nếu như ngày đó, không có một cuốn tiểu thuyết trinh thám đỉnh cao bị đạo văn. Mở rộng ra trong cuộc sống, kiếm tiền chân chính vẫn là an toàn nhất cho chính mình, cho lương tâm thanh thản và an nhàn. Một cách khách quan nhất, nếu bạn là một fan hâm mộ truyện trinh thám không dễ đầu hàng trước những câu hỏi logic hack não, thì tiểu thuyết 1/14 nói chung và 14 ngày kinh hoàng nói riêng vẫn là một câu chuyện đáng giá. *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14 Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam.   Bộ 1/14 gồm có: Trò Chơi Tử Thần Khách Trọ Và Xác Sống Lời Cảnh Báo Người Thừa Thứ 14 14 Ngày Kinh Hoàng *** "T hông qua sự kiện vừa rồi, tôi gần như đã biết ‘người tổ chức’ là ai.” Câu nói này khiến mọi người sửng sốt. Mười một nhà văn đều trợn tròn mắt nhìn về phía thiếu niên thiên tài Chris. Sao cơ? Nam Thiên thấy vô cùng kinh ngạc. Những lời của Chris là thật sao? Hôm nay, là ngày thứ mười mọi người bị nhốt ở đây, câu đố đã được giải rồi sao? Rõ ràng tất cả đều nghĩ như thế thật. Ám Hỏa vội hỏi, “Là ai?” Chris vẫn giữ nguyên vẻ bí hiểm vốn có của mình, nhưng lần này cậu ta không cười, vẻ mặt rất nghiêm túc nói, “Đại để là trong lòng tôi đã rõ nhưng chưa có chứng cứ. Nếu giờ nói ra, e rằng người đó sẽ không thừa nhận.” Cậu ta dừng lại một chút rồi tiếp, “Vì vậy, tôi nghĩ ra một cách...” Chris không nói tiếp, có thể vì cậu ta chưa nghĩ xong “cách” đó là gì, cũng có thể vì không muốn cho “người tổ chức” còn đang ẩn mình trong đám đông biết được kế hoạch. Vẻ mặt cậu ta vô cùng nghiêm túc, chưa bao giờ thấy cậu ta tỏ ra như vậy. Mọi người cũng không tiện hỏi nữa. Một lúc sau Bắc Đẩu mới lên tiếng, “Chúng ta nên cho điểm câu chuyện Quay về của Hoang Mộc Chu tiên sinh không nhỉ?” Lake lẩm bẩm, “Nếu anh ấy đã phạm luật thì việc cho điểm chẳng còn ý nghĩa gì nữa...” Anh ta nói rất nhỏ, nhưng vẫn bị Hoang Mộc Chu thính tai nghe thấy. Nhà văn lớn giận dữ nói, “Tôi không muốn tranh luận với mọi người về vấn đề tôi có phạm luật hay không! Hãy để cho ‘người tổ chức’đáng chết ấy phán xét! Dù thế nào thì câu chuyện mà tôi vất vả nghĩ ra cũng không thể không có điểm!” “Tôi tán thành!” Hạ Hầu Thân nói, “Vấn đề phạm luật sẽ do ‘người tổ chức’ quyết định, còn chúng ta phải cho điểm câu chuyện của mỗi người.” Bắc Đẩu đứng dậy chuẩn bị đi về phía tủ. Trước giờ cậu ta luôn phụ trách việc lấy giấy bút. Nhưng lần này Goth gọi với cậu ta lại, nói, “Lần nào cũng là cậu lấy, để tôi thay.” Bắc Đẩu ngây người, “vâng” một tiếng rồi ngồi xuống. Goth đi về phía tủ, mang ra một nắm bút và tập giấy rồi chia cho mọi người. Trừ Hoang Mộc Chu, mười một người khác đều viết một con số lên giấy. Goth lại thu giấy về, đưa cho Nam Thiên và Long Mã tính điểm bình quân. Quay về của Hoang Mộc Chu cuối cùng được 9,1 điểm, cũng coi là cao, song không vượt qua được con số 9,2 điểm cho câu chuyện Bí mật của Do Nông mà Bắc Đẩu kể. Hoang Mộc Chu “hừ” một tiếng, rõ ràng việc một nhà văn lớn, một tiền bối trên văn đàn như ông ta lại thua một cậu nhóc chẳng có tên tuổi quả là rất mất thể diện. Ông ta không giấu được vẻ khó chịu và bất mãn của mình, nhưng không thể nói được gì, nên lặng lẽ đứng dậy đi về phía căn phòng của mình trên gác. Hoang Mộc Chu là nhân vật chính của buổi tối thứ mười, ông ta rời khỏi thì những người khác cũng chẳng còn có lý do gì để ở lại căn phòng lớn, nên mọi người cũng lần lượt trở về phòng mình. Sa Gia và Nam Thiên đi sau cùng. Sa Gia tỏ ra lo lắng, Nam Thiên hỏi, “Cô sao vậy?” “Ngày mai đến lượt tôi kể rồi.” Sa Gia nói với vẻ bất an, “Câu chuyện tôi nghĩ ra có điểm giống với câu chuyện của Hoang Mộc Chu, bây giờ rõ ràng là không dùng được nữa rồi. Tôi còn chưa đầy một ngày để nghĩ ra câu chuyện mới...” “Không sao đâu, mười mấy tiếng chắc cũng nghĩ ra câu chuyện mới thôi.” Nam Thiên an ủi. “Nhưng, đã có mười câu chuyện được kể rồi.” Sa Gia vẫn nói với vẻ lo lắng, “Đã có nhiều chủ đề được dùng đến, tôi thấy rất khó để nghĩ ra cái gì mà kể...” Đúng vậy, Nam Thiên rất hiểu. Luật của trò chơi này là: chuyện kể sau tuyệt đối không được giống câu chuyện kể trước từ cấu tứ cho đến tình tiết, đó là thách thức rất lớn cho những người kể sau. Ý tưởng sáng tạo không là vô hạn, càng về cuối đề tài càng hạn hẹp. Nhìn dáng vẻ lo lắng, sầu muộn của Sa Gia, Nam Thiên rất muốn giúp cô. Anh suy nghĩ một lúc rồi nói, “Tôi có một kinh nghiệm xây dựng cốt truyện có thể chia sẻ với cô.” “Thật à, mau nói cho tôi biết đi!” Sa Gia vội vã nói. Nam Thiên nói, “Những lúc không tìm được cảm hứng để sáng tác, tôi thường tìm cách soi lại bản thân. Mỗi chúng ta, khẳng định là đều trải qua một số chuyện để lại ấn tượng sâu sắc, tất nhiên, những sự việc đó chỉ là những mảnh vụn trong cuộc sống, không thể nào tạo thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nhưng chúng ta có thể cải biên, thêm thắt chi tiết, từ đó có thể tạo ra một câu chuyện rất hay.” “Lấy cơ sở là những trải nghiệm của bản thân...” Sa Gia ngẫm nghĩ về những điều Nam Thiên nói, “Trước nay tôi chưa thử bao giờ.” “Vậy cô hãy thử đi!” Nam Thiên nói, “Điểm hay của cách này là, vì câu chuyện có xuất phát điểm từ những trải nghiệm của bản thân cho nên rất dễ tìm thấy cảm giác, hơn nữa, câu chuyện được xây dựng nên thường cho cảm giác chân thực hơn nhiều so với sự hư cấu thuần túy.” “Được, tôi sẽ thử.” Sa Gia gật đầu nói, “Cảm ơn anh, Nam Thiên!” “Không có gì. Hi vọng là cô sẽ nghĩ ra một câu chuyện hay.” Nam Thiên nói với vẻ chân thành, anh nhìn đồng hồ điện tử trên cổ tay, “Không còn sớm nữa, hãy nghỉ ngơi đi, đóng chặt cửa vào, chú ý an toàn nhé!” “Vâng, anh cũng thế nhé.” Sa Gia đỏ mặt nói. Họ trở về phòng của mình, khóa cửa lại. Nam Thiên thấy mệt rã rời, lên giường mấy phút sau đã ngủ say. Sáng hôm sau, mọi người lại lấy đồ ăn từ trong tủ ở căn phòng lớn tầng một làm đồ ăn sáng. Trước lúc mọi người tản ra, Long Mã ho một tiếng, nói, “Ồ, có chuyện này, tôi không thể không nói với các vị.” Mọi người nhìn về phía ông ta. Thiên Thu hỏi, “Chuyện gì?” “Là thế này”, Long Mã nói, “sau khi tôi nghe câu chuyện Quay về của Hoang Mộc Chu tiên sinh kể tối qua, tôi bỗng thấy được gợi ý.” Hoang Mộc Chu nhướng mày, chăm chú nhìn Long Mã. Long Mã nói tiếp, “Trong câu chuyện đó, cậu bé Hạ Thanh có rất nhiều điểm giống với ma quỷ1. Điều đó khiến tôi bất giác nghĩ tới hiện thực trước mắt, mười bốn người chúng ta, mà thực ra là mười ba nhà văn bị ‘người tổ chức’ giấu mặt ‘mời’ đến, liệu cũng có những điểm giống nhau nào đó không?” 1 Xem Quay về do Hoang Mộc Chu kể trong Người thừa thứ 14. Câu nói này của Long Mã khiến mọi người đều ngây ra. Lát sau, Bắc Đẩu nói, “Tôi nhớ, vào ngày đầu tiên, ‘người tổ chức’ đã nói, hắn lựa chọn chúng ta vì trong mắt hắn, chúng ta là mười bốn nhà văn viết truyện trinh thám kinh dị ưu tú nhất.” “Đúng thế, có vẻ cậu còn thấy vui vì cũng được dính một tí vào trong đó.” Thiên Thu châm biếm. Bắc Đẩu gãi đầu, tỏ ra ngượng ngùng. Long Mã nhíu mày, lắc đầu, nói, “Người ấy nói như vậy, nhưng lúc đó chúng ta cũng không nghiên cứu kĩ vấn đề này, bây giờ nghĩ lại thì thấy, đó có thể là một cái cớ.” “Anh cho rằng chuyện không đơn giản như vậy, và trong đó còn có nguyên nhân sâu xa hơn?” Goth hỏi. “Đúng thế.” Long Mã nói, “Hơn nữa, tôi cho rằng, tìm ra điểm giống nhau sẽ là mấu chốt vạch rõ thân phận của ‘người tổ chức’.” “Anh dựa vào đâu mà cho là như vậy?” Long Mã phân tích, “Thực ra, tôi đã thấy ngay cách nói ấy có phần khiên cưỡng. Khách quan mà nói, mười bốn người chúng ta được ‘mời’ đến đây là những nhà văn viết truyện trinh thám kinh dị ưu tú nhất nước, thông qua thực lực của những người đã kể chuyện có thể chứng minh rõ điều này. Nhưng e rằng, không thể nói ngoài chúng ta thì không thể tìm ra người khác nữa. Trong số bạn bè của tôi, nhiều tác giả rất có thực lực, tại sao họ lại không trong số này? Những người tham gia trò chơi này, tại sao chỉ là mười bốn? Con số 14 liệu có phải ẩn chứa một hàm nghĩa đặc biệt nào không?” Những lời của Long Mã không khỏi khiến mọi người suy nghĩ. Một lát sau, Ám Hỏa nói, “Đúng vậy, vẫn còn có những nhà văn viết trinh thám kinh dị đỉnh hơn nữa, tại sao lại chỉ có chúng ta được ‘mời’ đến? E là có điều gì đó thật.” “Nói vậy vẫn có rất nhiều điểm nghi vấn.” Hạ Hầu Thân phân tích, “Thực ra, ngay từ đầu tôi cũng thấy ngạc nhiên.” Anh ta nhìn về phía thiên tài trẻ tuổi, “Chris cũng trong số đó. Nghĩ mà xem, cậu ấy là Hoa kiều sống ở nước ngoài thế mà cũng bị cuốn vào sự kiện này. Nhà văn viết trinh thám kinh dị xuất sắc là người Hoa trên thế giới này lại càng nhiều, và như vậy càng không có lý do để chọn mười bốn người chúng ta tới đây.” “Khả năng của ‘người tổ chức’ có hạn, không thể có được bản lĩnh thông thiên để có thể bắt tất cả những người như vậy trên thế giới về đây.” Lake nói. “Vậy Chris đã được đưa đến đây như thế nào?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Anh quên rồi à?” Lake nhắc, “Chris nói, cách mà cậu ấy đến đây không giống chúng ta. Cậu ấy không phải bị làm cho mê man rồi mới đưa đến, mà trong trạng thái tỉnh táo.” “Đúng vậy.” Lúc này Hạ Hầu Thân mới nhớ ra, ông ta nhìn Chris, “Bây giờ cậu vẫn không định nói cho chúng tôi biết rốt cuộc cậu đến đây như thế nào à?” “Tôi đã nói rồi, đó là chuyện của tôi, bây giờ không thể nói được.” Chris bình thản nói, “Hình như chúng ta đã chuyển chủ đề câu chuyện rồi, nên quay lại vấn đề đang nói trước đó đi: rốt cuộc chúng ta có điểm gì giống nhau? Tôi cũng rất hứng thú với điều này.” “Chúng ta có thể nghĩ từ nhiều góc độ.” Long Mã nói, “Mười bốn người chúng ta đều có thể có những điểm giao nhau.” Hạ Hầu Thân nghĩ một chút, nói, “Tôi sống ở thành phố S, còn mọi người?” “Anh muốn xem xem chúng ta có phải là người cùng thành phố không?” Long Mã đã hiểu ra, “Tôi cũng là người thành phố S và sống ở thành phố S.” “Còn có ai sống ở thành phố S nữa không?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Tôi.” Nam Thiên nói. Goth cũng giơ tay, ý nói anh ta cũng như vậy. “Chỉ có bốn chúng tôi ở nơi này?” Hạ Hầu Thân thống kê, “Tôi, Long Mã, Goth và Nam Thiên. Thế còn mọi người?” Ông ta hỏi những người khác. Mọi người lần lượt nói về nơi ở của mình, ngoài Chris và Thiên Thu ra, còn lại cơ bản ở những thành phố không xa thành phố S là mấy. Chris dường như đã nghĩ ra manh mối, “Đối tượng mà ‘người tổ chức’ ‘mời’ đến có lẽ trung tâm là thành phố S!” “Điều này không thể coi là phát hiện lớn gì.” Bạch Kình cười méo mó, “S là thành phố lớn, các thành phố xung quanh cơ bản cũng là những khu vực phát triển. Các tác giả viết trinh thám kinh dị của nước ta vốn dĩ rất nhiều người tập trung tại khu vực này, huống chi Chris sống ở Mỹ, Thiên Thu ở thành phố B cách đây rất xa. À, phải rồi, lại còn cả Uất Trì Thành và Từ Văn đã chết nữa, có lẽ họ cũng là người ở gần thành phố S?” Xem ra, ở cùng một khu vực không thể trở thành điểm chung rồi. Đám đông lại chìm trong suy nghĩ, một lát sau, Ám Hỏa lên tiếng, “Trước đây, chúng ta có từng viết về cùng một đề tài không?” “Không thể có.” Chris phủ định quả quyết, “Tôi đã đọc sách của nhiều người trong chúng ta, đề tài, nội dung đều rất khác nhau. Huống chi nếu cả mười bốn người cùng viết về một đề tài thì truyền thông sẽ phải lên tiếng và chúng ta làm sao mà không biết?” “Vậy thì... Liệu chúng ta có từng xuất hiện trong cùng một hoàn cảnh không?” Sa Gia thăm dò, “Ví dụ như họp báo hoặc trong buổi họp các nhà văn.” “Mấy năm trước hầu như tôi đều ở Mỹ.” Chris tiếp tục phủ định khả năng này. Không khí trong căn phòng lớn lại lắng xuống, hầu như mọi người không tìm được khả năng gì nữa. Nam Thiên nhíu chặt mày, ra sức nghĩ, thế rồi trong đầu lóe lên một ý nghĩ, không kịp cân nhắc, anh nói luôn, “Liệu có phải mười bốn chúng ta đều quen một ai đó không?” Mọi người lại ngây ra. Long Mã nói, “Ý anh là, bản thân mười bốn chúng ta có thể không có điểm giao nhau, nhưng chúng ta cùng quen một người, nên đã gián tiếp khiến mười bốn người chúng ta có mối liên hệ?” “Phải, đúng là ý đó.” Nam Thiên nói. “Sao anh lại nghĩ vậy?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Không biết, đột nhiên nảy ra ý nghĩ đó.” Nam Thiên nói. “Khả năng này đúng là rất có thể...” Lake chau mày, nói với vẻ suy nghĩ, “Nhưng, làm thế nào để kiểm chứng điều này? Bạn bè, đồng nghiệp của mỗi người chưa kể bạn trên mạng, cũng phải mấy trăm người? Không lẽ chúng ta viết hết tên của họ ra rồi đối chiếu từng người một xem có cùng quen không? Như vậy sẽ rất khó khăn.” “Đúng thế.” Bạch Kình nói, “Hơn nữa, còn có một vấn đề, đó là ‘người tổ chức’ ở lẫn trong chúng ta sẽ không phối hợp làm việc đó, thêm nữa là Uất Trì Thành và Từ Văn đã chết thì sao mà biết được. Cho nên, chúng ta không thể đưa ra kết luận được.” Nghe Bạch Kình nói vậy, mọi người có vẻ ỉu xìu. Lúc đó Sa Gia nhìn Nam Thiên, hỏi, “Nam Thiên, anh thấy thế nào?” Nam Thiên trầm ngâm giây lát rồi nói, “Tôi có cảm giác, người mà chúng ta cùng quen đó đã khiến cho mười bốn chúng ta làm cùng một việc trong cùng một thời gian, và chúng ta không biết rằng đã từng làm cùng một việc.” “Ồ...” Thiên Thu bỗng nhiên khẽ thốt lên, sắc mặt lập tức trắng nhợt, Ám Hỏa đứng bên hỏi, “Cô sao thế? Nghĩ ra chuyện gì à?” “Không... không phải.” Thiên Thu cúi đầu, nói, “Tôi chỉ... bỗng thấy sợ trước những lời của Nam Thiên, cảm thấy ớn lạnh.” Hoang Mộc Chu nheo mắt, nói, “Lời của cậu ấy đáng sợ ư? Nếu trong lòng cô không có điều gì ám muội thì sao phải sợ?” Thiên Thu lấy lại tinh thần, hai tay khoanh trước ngực, nói với vẻ coi thường, “Trong lòng tôi thì có điều gì mà ám muội? Đó chỉ là thói quen của những nhà văn viết trinh thám kinh dị, liên tưởng tới một số sự việc đáng sợ và giàu kịch tính mà thôi.” Căn phòng lắng xuống một lúc. Hạ Hầu Thân thở dài, “Xem chừng, tất cả chỉ là suy đoán, không thể rút ra kết luận được.” “Không hẳn, nếu đúng như lời Nam Thiên, thì ít ra chúng ta cũng có hướng để suy nghĩ.” Long Mã nói, “Vẫn còn bốn ngày nữa, biết đâu một trong số chúng ta sẽ nghĩ ra được điều gì.” Nhắc đến vấn đề thời gian, Sa Gia lộ rõ vẻ lo lắng. Cô đứng dậy, nói, “Tối nay đến lượt tôi kể chuyện rồi, tôi phải về phòng chuẩn bị đây.” Nói xong cô rời căn phòng lớn và đi lên gác. Những người khác cũng lần lượt rời khỏi đó. Nam Thiên đứng nguyên tại chỗ, nhíu mày nhăn trán suy nghĩ về gợi ý mà mình vừa mới đưa ra. Anh không hiểu tại sao đầu óc mình bỗng dưng lại lóe ra ý nghĩ ấy, không lẽ tiềm thức đang nhắc anh có một việc nào đó mà anh đã từng làm trong quá khứ có mối liên quan đến sự kiện này? Nhưng, những việc anh trải qua quá nhiều, rốt cuộc là sự việc gì, anh vắt óc cũng không sao nghĩ ra. 7 giờ tối, một lần nữa mọi người lại tập trung ở căn phòng lớn, mỗi người một chiếc ghế da và xếp thành một vòng tròn. Trò chơi của buổi tối hôm nay đã bắt đầu. Sa Gia là nhân vật chính của tối nay. Nam Thiên ngồi cạnh cô, khẽ hỏi, “Đã nghĩ xong câu chuyện chưa?” “Rồi.” Sa Gia gật đầu, khẽ nói, “May mà có anh gợi ý.” “Cô dùng những điều mà chính bản thân đã trải qua thật à...” “Nghe xong rồi hãy nói.” Má Sa Gia thoáng đỏ, “Tóm lại là một câu chuyện đặc sắc khác thường, hơn tất cả những tác phẩm của tôi trước đây.” Hạ Hầu Thân ngồi đối diện nhìn đồng hồ, nói, “Hai người đừng thì thầm nữa, đến giờ rồi đấy!” “Vâng.” Sa Gia quay mặt về phía đám đông, cao giọng, “Tôi bắt đầu kể. Tên của câu chuyện này là Quái thai.” Mời các bạn đón đọc 14 Ngày Kinh Hoàng của tác giả Ninh Hàng Nhất.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu
Ngôi trường nữ học danh giá nhất nước Anh xảy ra liên tiếp nhiều vụ án mạng. Với nhiều học sinh xuất thân từ hoàng tộc và gia đình giàu có, liệu nhà trường có liên quan đếm âm mưu nào lớn hơn? Giữa những nữ sinh và giáo viên nữ hiền lành, kẻ sát thủ giấu mặt như con mèo rơi vào giữa đàn bồ câu. *** Review Phong: Trước khi lên đường ra nước ngoài nhằm tránh khỏi cuộc cách mạng của phe nổi dậy, vị Quốc vương của Ramat là Ali Yusuf đã tin tưởng giao số đá quý trị giá bảy trăm năm mươi ngàn bảng cho viên phi công riêng là Bob Rawlinson. Sau khi cân nhắc, Bob đã tìm đến chị gái Sutcliffe của anh đang nghỉ dưỡng tại một khách sạn của Ramat. Nhưng khi đến nơi thì người chị gái đã đi ra ngoài, không có thời gian chờ đợi vì cuộc cách mạng có thể diễn ra bất cứ lúc nào, bằng cách nào đó Bob đã đưa được số đá quý vào hành lý trong phòng người chị kèm theo một lời nhắn. Sau này, con gái của Sutcliffe là Jennifer được nhận vào học tại Meadowbank, trường nữ sinh danh giá nhất của nước Anh, cùng nhập học với cô bé còn có cái tên đáng chú ý: Công nương Shaista, em họ của Quốc vương Ali Yusuf. Cũng kể từ đây, liên tiếp những vụ giết người với đối tượng hướng đến là các cô giáo trong trường đã khiến danh tiếng của Meadowbank gần như hoàn toàn sụp đổ chỉ sau vài tuần bắt đầu kì học mới. Cuốn thứ 7 của tác giả Agatha Christie mà mình đọc. So với những cuốn rất hay của bà mình đọc gần đây thì cuốn này chỉ dừng ở mức đọc được, bà viết cuốn này khi đã 69 tuổi nên mình thấy thế là được rồi. Vụ án không hấp dẫn, có nhiều hơn một cái chết nhưng tình tiết rất bình thường chứ không nhanh và hấp dẫn như những cuốn mình đọc trước đây như “Ngôi nhà quái dị”, “Án mạng trên sông Nile” hay “Tận cùng là cái chết”. Phần phá án của Hercule Poirot có lẽ là phần mình thấy thú vị duy nhất trong truyện. Mình thích truyện kết thúc ở chương 24 hơn, đúng với phong cách những điều bất ngờ dồn dập đến ở khoảng 20 trang cuối của bà. Chương 25 giúp giải quyết toàn bộ vấn đề còn lại được đưa ra, mình đọc thấy hơi dài dòng và cũng không hứng thú lắm nhưng mình tôn trọng toàn bộ dụng ý mà bà đưa ra trong truyện. Cuốn này thực sự là một thảm họa về khâu biên tập, xứng đáng là cuốn sách đáng xấu hổ nhất của Trẻ mà mình hiện có. Trẻ là một NXB lớn, nắm bản quyền các tác phẩm của Agatha Christie nhưng tại sao họ có thể phát hành một cuốn sách đầy lỗi thế này thì mình không biết, những cuốn trước cuốn nào không ít thì nhiều cũng có lỗi, nhưng dày đặc thế này thì mình mới thấy lần đầu. Mình có kiểm tra lại lời nói đầu, thì đúng là họ cam kết đem đến những bản dịch tốt, hình thức đẹp chứ không nói gì đến việc biên tập kĩ lưỡng. Khi mình đề cập vấn đề này với admin fanpage NXB Trẻ thì nhận được phản hồi như hình dưới. Vậy hóa ra mỗi lần tái bản NXB chỉ in lại chứ không hề rà soát lỗi biên tập, trong khi việc này đã phải làm kĩ ngay khi phát hành. Không nói ra thì không chịu được vì sách của tác giả mình yêu thích lại không được quan tâm biên tập cho đúng mực, mà nói ra rồi lại thấy ức hơn vì giờ phải đọc lại toàn bộ sách, ghi chú lỗi lại với hy vọng ở lần tái bản sau, cuốn sách này sẽ được chăm chút tốt hơn. Tương lai nào cho những đứa con tinh thần của Agatha Christie khi được xuất bản tại Việt Nam … *** Review Lucy:   Tại Ramat sắp có cuộc bạo động và quốc vương nước này được sắp xếp tẩu thoát ra nước ngoài. Ông đưa cho bạn thân đồng thời là phi công một chiếc túi chứa đầy kim cương dặn dò tìm cách đưa số kim cương này thoát ra khỏi Ramat. Bởi quốc vương nhận thấy cuộc tẩu thoát lành ít dữ nhiều và ông không muốn kẻ thù nhặt lấy nó từ xác của mình. Chàng phi công đã lén nhét vào hành lí của cô cháu gái Jennifer vì cô sắp về Anh để đi học. Đúng như dự đoán. Máy bay bị gài bom phát nổ, quốc vương và phi công lao vào núi rồi chết. Số kim cương cùng cô cháu gái đến trường Meadowbank một ngôi trường nữ sinh danh giá nhất nước Anh. Tại đây xảy ra hàng loạt vụ bắt cóc, giết người nhằm mục đích chiếm đoạt số kim cương mà Jennifer vẫn không hay biết mình đang giữ. Chương mở đầu khá là rối vì giới thiệu một loạt nhân vật giáo viên, công nhân viên, học sinh, phụ huynh. Các nhân vật nối tiếp nhau xuất hiện khiến người đọc không nắm bắt kịp. Chương mở đầu không cung cấp manh mối gì nhiều chủ yếu dùng để phô chất riêng của tác giả. Nhưng cũng đừng lo vì chương sau đó sẽ tóm tắt lại các nhân vật chính và vai trò chủ chốt. Có nhiều tình tiết khá là dài dòng như chuyện cô Bulstrode dự định nghĩ hưu lặp lại suốt, đọc ngán luôn.Nhân vật ấn tượng nhất cũng là cô Bulstrode, một người hiệu trưởng thực sự có bản lĩnh và luôn ghét từ "tẻ nhạt" Mình chấm tác phẩm này 6/10 điểm. Cảm thấy bình thường, không quá thất vọng nhưng cũng không được như kỳ vọng *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Hôm ấy là ngày khai giảng kì học hè ở trường Meadowbank. Ánh chiều tà đổ xuống con đường lát sỏi rộng thênh trước tòa học xá. Cửa trước rộng mở vui đón khách, và ngay ở cửa, tương xứng một cách đáng ngưỡng mộ theo đúng tỉ lệ kiến trúc thời Georgia của tòa nhà là cô giáo Vansittart, tóc gọn gàng, áo khoác và váy được cắt may không chê vào đâu được. Một số bậc phụ huynh không biết rõ đã nhầm bà với bà Bulstrode, mà đâu hay bà Bulstrode có lệ rút lui vào cấm cung, ở đấy chỉ số ít bậc phụ huynh chọn lọc được hưởng đặc quyền mới được đón tiếp. Đứng cạnh cô Vansittart, đang điều hành ở một mức độ hơi khác là bà Chadwick, với vẻ tự tin, hiểu biết, và ở Meadowbank này bà đóng một vai trò lớn đến độ thật khó tưởng tượng trường Meadowbank lại không có bà. Chưa bao giờ ngôi trường này thiếu vắng bà. Bà Bulstrode và bà Chadwick đã cùng nhau khởi lập Meadowbank. Bà Chadwick đeo kính không gọng, đầu hơi cúi, ăn mặc không mấy cầu kỳ, giọng nói hòa nhã, và tình cờ thay lại là một nhà toán học xuất sắc. Những lời chào đón ân cần của cô Vansittart ân cần vang khắp tòa nhà. “Bà có khỏe không, thưa bà Arnold? Ồ, Lydia, chuyến đi tàu Hellenic của em có vui không? Thật là một cơ hội tuyệt vời! Em có chụp được nhiều ảnh đẹp không? “Vâng, thưa bà Garnett, bà Bulstrode đã nhận được thư của bà về Lớp Nghệ thuật, tất cả đã được thu xếp rồi. “Bà khỏe không, thưa bà Bird?… Ô? Tôi nghĩ hôm nay bà Bulstrode không có thời gian để bàn bạc chuyện này. Cô Rowan ở đây, bà có muốn nói chuyện với cô ấy về vấn đề này không? “Chúng tôi đã chuyển phòng ngủ của em rồi, Pamela ạ. Em giờ ở chái nhà phía xa, cạnh cây táo… “Vâng, quả vậy, thưa bà Violet, từ đầu mùa xuân tới giờ thời tiết thật kinh khủng. Cháu bé nhất nhà bà đây phải không? Tên cháu gì nhỉ? Hector hả? Cháu có máy bay đẹp thế, Hector. “Très heureuse de vous voir, Madame. Ah, je regrette, ce ne serait pas possible, cette après-midi. Mademoiselle Bulstrode est tellement occupée.Rất vui được gặp bà, thưa bà. Ồ, tôi rất tiếc chiều nay thì không thể rồi. Bà Bulstrode rất bận. “Xin chào giáo sư. Ngài có khám phá thêm được điều gì thú vị không?” Trong căn phòng nhỏ ở tầng một, Ann Shapland, thư ký của bà Bulstrode, đang đánh máy thoăn thoắt và chính xác. Ann năm nay ba lăm tuổi, vẻ ưa nhìn, mái tóc vừa vặn như chiếc mũ sa-tanh đen đội lên đầu. Nếu muốn, cô có thể trông quyến rũ hơn, nhưng cuộc đời đã dạy cô rằng năng lực và hiệu quả thường được trả công cao hơn vẻ ngoài, lại tránh được những phiền toái bực mình. Ở thời điểm này, cô đang tập trung vào tất cả mọi công việc mà một người thư ký hiệu trưởng của một trường nữ sinh nổi tiếng cần làm. Thỉnh thoảng, khi đặt một tờ giấy vào máy chữ, cô lại nhìn ra cửa sổ và lộ rõ niềm thích thú về những vị khách mới đến. ‘Trời đất ơi!’ Ann tự nhủ, vẻ ngưỡng mộ, ‘Mình không biết ở nước Anh vẫn còn nhiều tài xế riêng đến vậy!’ Rồi cô bất giác mỉm cười, khi một chiếc xe Rolls uy nghi chạy đi và một chiếc xe Austin nhỏ xíu, cũ mèm và méo mó tiến vào. Một ông bố vẻ lo lắng từ xe bước ra, cùng cô con gái trông bình tĩnh hơn nhiều so với ông bố. Khi ông dừng lại chừng như sắp ngã đến nơi, thì cô Vansittart từ trong nhà bước ra và làm chủ tình huống. “Thiếu tá Hargreaves phải không ạ? Đây hẳn là Alison rồi? Xin mời vào trong nhà. Mong ngài vào xem phòng của Alison…” Ann nhếch mép cười rồi tiếp tục đánh máy. ‘Ôi đúng là Vansittart, người đóng thế vinh quang,’ cô tự nhủ. ‘Cô ta có thể học theo mọi mánh lới của bà Bulstrode. Quả thật, cô ta rất thuộc bài!’ Một chiếc xe Cadillac to lớn và xa hoa đến khó tin, sơn hai tông màu, đỏ mâm xôi và xanh dương, rẽ vào (hơi khó khăn do chiều dài của nó) và đỗ phía sau chiếc xe cũ của Thiếu tá Alistair Hargreaves. Tài xế bật mở cửa, một người da sẫm, bộ râu dày, mặc áo choàng aba là lượt bước ra, theo sau là một tín đồ thời trang Pari và sau đó nữa là một cô bé mỏng mảnh, da sẫm. ‘Đấy chắc hẳn là Công nương… tên là gì ấy nhỉ,’ Ann nghĩ. ‘Không thể tưởng tượng nổi cô bé ấy mặc đồng phục, nhưng mình cho rằng điều thần kỳ sẽ xuất hiện ngày mai…’ Lần này cả cô Vansittart và bà Chadwick đều xuất hiện. ‘Họ sẽ được đưa vào danh sách diện kiến,’ Ann quả quyết. Rồi cô nghĩ, cũng khá lạ, rằng người ta không thích đùa cợt về bà Bulstrode. Bà Bulstrode là Người Ai Cũng Biết. ‘Tốt hơn nên tập trung vào chuyên môn đi,’ cô tự nhủ, ‘và gõ xong mấy bức thư này không sai lỗi thì hơn.’ Ann không phải là người hay phạm lỗi lầm. Cô đủ giỏi để có quyền chọn việc như ý. Cô từng là trợ lý riêng cho tổng giám đốc một công ty dầu mỏ, thư ký riêng cho ngài Mervyn Todhunter, nổi tiếng về sự uyên bác, thói cáu bẳn và chữ viết tay khó đọc. Trong số những người thuê cô làm việc, có hai người là Chủ tịch Nội các và một vị công chức quan trọng trong cơ quan chính phủ. Nhưng nhìn chung, công việc của cô luôn là giữa đám đàn ông. Cô băn khoăn mình sẽ thế nào, như cách nói của cô, khi hoàn toàn giữa đám phụ nữ. Ờ - thì đằng nào cũng là những trải nghiệm thôi. Và dù thế nào cũng có Dennis! Dennis thủy chung từ Malaya, từ Burma, từ nhiều nơi trên thế giới trở về, và vẫn như xưa, vẫn tận tình, và hỏi cưới cô lần nữa. Dennis thân thương! Nhưng thật là tẻ nhạt lắm mới đi cưới Dennis. Trong tương lai sắp tới, cô sẽ nhớ đến thời gian được làm việc cùng nam giới. Tất cả những giáo viên ở đây - không có lấy một mống đàn ông nào cả, ngoại trừ lão làm vườn đã tám chục tuổi. Nhưng đến đây Ann bỗng ngạc nhiên. Nhìn ra cửa sổ, cô thấy một người đàn ông đang xén hàng rào ngay phía bên kia lối đi dành cho ô tô - rõ ràng là một người làm vườn nhưng mà còn lâu mới tám chục tuổi. Trẻ, tóc đen, và điển trai. Ann ngẫm ngợi, hình như người ta có nhắc đến chuyện thuê người phụ việc, nhưng người này đâu phải dân quê mùa. À thì, ngày nay người ta làm đủ thứ việc. Một số thanh niên đang cố tích góp tiền cho dự định này nọ trong tương lai, hay chỉ kiếm đủ sống qua ngày. Nhưng anh ta đang xén hàng rào theo cách rất chuyên nghiệp. Chắc hẳn anh ta là một người làm vườn thực thụ. Mời các bạn đón đọc Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu của tác giả Agatha Christie.  
Chuyến Tàu Định Mệnh
Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.
Vệ Sĩ Vô Hình
Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** "Vệ sĩ vô hình" là tập đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztan của tác giả Dolores Redondo. Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun, - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** Bộ Thung Lung Baztán Xứ Basque gồm có: Vệ Sĩ Vô Hình Mối Bất Hòa Truyền Kiếp Lễ Vật Kinh Hoàng *** Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả tác giả trinh thám nổi tiếng nhất suốt nhiều 5-10 năm qua tại nước này. Bà là  một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. *** Ainhoa Elizasu là nạn nhân thứ hai của basajaun*, mặc dù báo chí vẫn chưa gọi hắn bằng cái tên ấy cho đến sau này, khi xuất hiện những sợi lông thú, những mẩu da và những lâu vết không thể nhận diện tìm thấy quanh các xác chết, cùng chứng cứ của một loại nghi lễ thanh tẩy rùng rợn. Quần áo nạn nhân bị xé rách, vùng kín của họ bị cạo sạch lông và hai bàn tay đặt ngửa, thi thể của các cô gái gần như trẻ con hình như bị một quyền lực độc ác, già lão như Trái đất đánh dấu. Nghĩa đen là “quý ông trong rừng”, cổ ngữ Tây Ban Nha. (Các chú thích của người dịch). Thanh tra Amaia Salazar thường theo đúng thói quen hằng ngày khi được gọi tới một hiện trường gây án lúc nửa đêm. Chị tắt báo thức buổi sáng để không làm phiền James, xếp gọn quần áo của chị và để điện thoại di động lên trên, rồi từ tốn xuống cầu thang vào bếp. Chị uống cốc cà phê sữa trong lúc mặc quần áo, để lại tin nhắn cho chồng rồi vào xe. Khi lái xe, tâm trí chị trống rỗng ngoại trừ âm thanh luôn đầy ắp trong đầu khi phải dậy từ trước rạng đông. Tàn dư của một đêm mất ngủ theo chị suốt dọc đường đến hiện trường, mặc dù từ Pamplona đến đó mất hơn một giờ chạy xe. Chị bẻ lái quá gấp và tiếng lốp xe rít lên khiến chị nhận ra mình đãng trí nhường nào. Sau đó, chị buộc mình phải chú tâm đến con đường ngoằn ngoèo dẫn lên khu rừng rậm bao quanh Elizondo. Năm phút sau, lúc đỗ xe cạnh tẩm biển của cảnh sát, chị nhận ra chiếc ô tô thể thao của bác sĩ Jorge San Martin và xe địa hình của thẩm phán Estébanez. Amaia xuống xe, chị đi vòng ra sau cốp lấy đôi ủng. Chị xỏ chân vào ủng đúng lúc phó thanh tra Jonan Etxaide và thanh tra Montes đến chỗ chị. — Không hay rồi sếp ạ, nạn nhân là một cô gái rất trẻ, - Jonan tra cứu các ghi chép, - chỉ mười hai hoặc mười ba tuổi. Mười một giờ đêm qua, bố mẹ cô bé đã báo cảnh sát khi vẫn chưa thấy con gái mình về nhà. — Hơi sớm để báo cô bé mất tích, - Amaia nhận xét. — Đúng vậy. Hình như lúc mười giờ tám phút, cô bé đã gọi vào di động cho anh trai, báo bị lỡ xe buýt ở Arizkun. — Cậu ta không nói gì cho đến mười một giờ ư? — Chị biết chuyện là thế nào rồi: “Aita và Ama* sẽ giết em mất. Anh đừng nói gì với bố mẹ nhé. Em sẽ nhờ bố mẹ của một cô bạn đưa về”. - Vì thế cậu anh trai im thin thít và tiếp tục chơi game. Đến mười một giờ, nhận ra em gái vẫn chưa về nhà và mẹ bắt đầu lo cuống lên, cậu ta mới nói cho bố mẹ. Bọn họ đến đồn cảnh sát ở Elizondo và khăng khăng rằng đã có chuyện gì đó xảy ra với con gái họ. Con bé không trả lời điện thoại di động, và họ đã gọi cho tất cả các bạn của nó. Một xe tuần tra đã tìm thấy cô bé. Cảnh sát phát hiện ra đôi giày của Ainhoa bên lề đường lúc họ đang vào chỗ rẽ. - Jonan chiếu đèn pin lên vệ đường, một đôi giày cao gót màu đen đắt tiền lấp lánh, xếp ngay ngắn ở đó. Aunaia nhìn xuống. Cha và Mẹ (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản). — Trông như chúng được xếp lại như thế này. Đã có ai chạm vào chưa? - Chị hỏi. Jonan kiểm tra lại ghi chép. Hiệu quả làm việc của viên phó thanh tra trẻ tuổi là thứ trời cho trong những vụ khó nhằn kiểu này. — Chưa, đôi giày vẫn y nguyên như lúc được tìm thấy, xếp cạnh nhau và mũi giày hướng ra đường. — Gọi các nhân viên kỹ thuật hiện trường lấy vân tay và kiểm tra mặt trong, khi nào họ xong việc. Ai xếp chúng như thế này đều phải chạm vào mặt trong cũng như bên ngoài giày. Thanh tra Montes cho đến lúc này vẫn đứng lặng lẽ, chăm chú nhìn đôi giày Ý hàng hiệu của mình, bỗng ngẩng lên như tỉnh khỏi giấc ngủ sâu. — Salazar, - anh lẩm bẩm chào Amaia rồi bước tới rìa đường, không đợi chị. Amaia cau mày bối rối và quay sang Jonan. — Anh ta làm sao thế? — Tôi không biết thưa sếp, chúng tôi đi cùng xe từ Pamplona đến đây và anh ấy chưa một lần mở miệng. Tôi nghĩ có khi anh ấy đã uống một hoặc hai cốc. Amaia cũng nghĩ như vậy. Từ khi ly dị, thanh tra Montes cứ dần dần sa sút, không chỉ trong sở thích giày Ý và những chiếc cà vạt sặc sỡ. Vài tuần lễ gần đây, Montes đặc biệt phân tâm, anh ta lạnh lùng và khó hiểu, rút sâu vào thế giới bé nhỏ của riêng mình, hầu như miễn cưỡng tiếp xúc với những người xung quanh. — Cô gái đâu? — Bên bờ sông. Chị phải đi xuống con dốc này, - Jonan đáp, và chỉ tay vẻ áy náy, như thể cái xác ở dưới kia là lỗi của mình vậy. Lúc Amaia đi xuống con dốc đã mòn bên dòng sông hơn một ngàn năm tuổi, chị trông thấy ở phía xa, nhiều ngọn đèn pha và dây chăng đánh dấu khu vực cảnh sát đang làm việc. Thẩm phán Estébanez đứng một bên, đang khẽ trò chuyện với nhân viên tòa án và liếc nhìn nơi xác chết. Hai nhân viên pháp y di chuyển vòng quanh, đèn flash chớp loe lóe từ mọi góc độ và một kỹ thuật viên thuộc Viện pháp y Navarre đang quỳ cạnh xác, hình như đang lấy nhiệt độ ở gan. Amaia hài lòng thấy mọi người đều tôn trọng lối vào mà các cảnh sát đầu tiên có mặt ở hiện trường đã thiết lập. Tuy nhiên, có quá nhiều người ở đó. Là một tín đồ Công giáo đáng lẽ chị phải làm việc gì đó, nhưng gần như vô lý vì bất cứ khi nào phải xử lý một xác chết, chị đều thấy thiếu hẳn cảm giác riêng tư và mộ đạo mà chị thường trải nghiệm trong một nghĩa địa. Dường như điều này bị xúc phạm bởi sự có mặt do nghề nghiệp của những con người xa lạ và không liên quan đang lượn quanh xác chết. Nạn nhân của kẻ giết người giống như một tác phẩm nghệ thuật nằm đó, im lìm và lặng lẽ, bất chấp nỗi kinh hoàng bẩm sinh. Mời các bạn đón đọc Vệ Sĩ Vô Hình của tác giả Dolores Redondo.
Kỳ Án Dòng Chữ Tắt
Sophie Hannah & Tuấn Việt (dịch) Hercule Poirot nghỉ ẩn ở London tại một nhà trọ ít ai ngờ đến. Tình cờ, cùng nhà trọ với ông có cảnh sát điều tra Edward Catchpool của Scotland Yard. Và cũng tình cờ ông gặp người phụ nữ tên Jennie, hốt hoảng như trong tình trạng bị nguy hiểm. Nhưng tất cả không còn là tình cờ nữa khi xảy ra vụ án mạng ba người chết tại khách sạn Bloxham và Catchpool phụ trách điều tra... "Sophie Hannah mang một không khí mới cho nhân vật Poirot. Lời văn dí dỏm hơn, hợp thời hơn. Có điều hơi dài dòng... 3.5* là hợp lý, nhưng làm tròn...." _ NQK *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Sophie Hannah là một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Anh, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1971 tại Manchester, Vương quốc Anh. Cô tốt nghiệp Đại học Manchester với bằng Cử nhân Văn học Anh và sau đó theo học Đại học Cambridge để lấy bằng Thạc sĩ Văn học Anh. Sophie Hannah bắt đầu viết thơ từ khi còn nhỏ và đã xuất bản hai tập thơ trước khi chuyển sang viết tiểu thuyết. Cô đã xuất bản 12 tiểu thuyết, trong đó có 9 tiểu thuyết trinh thám, 2 tiểu thuyết lãng mạn và 1 tiểu thuyết dành cho trẻ em. Tác phẩm đầu tay của Sophie Hannah là tiểu thuyết trinh thám "The Other Half of Me" (2007), kể về câu chuyện của một người phụ nữ phát hiện ra rằng mình có một người song sinh cùng trứng. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang hơn 20 thứ tiếng và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình. Năm 2014, Sophie Hannah được gia đình của Agatha Christie ủy quyền viết một tiểu thuyết mới về thám tử Hercule Poirot. Cuốn tiểu thuyết "The Monogram Murders" (2014) là cuốn tiểu thuyết chính thức đầu tiên được viết tiếp theo mạch văn của Agatha Christie. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang tiếng Việt và phát hành tại Việt Nam vào năm 2016. Ngoài ra, Sophie Hannah còn được biết đến với các tiểu thuyết trinh thám khác như "The Murderer's Son" (2010), "The Other Woman" (2013), "The Killing Room" (2015), "The Girl in the Red Dress" (2016), "The Woman in the Window" (2017), "The Love Song of Miss Jane Austen" (2018), "The Other Woman's Husband" (2020) và "The Body in the Woods" (2022). Nội dung một số tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt "The Monogram Murders" (2014): Câu chuyện bắt đầu khi một người đàn ông bị sát hại tại một bữa tiệc, trên người nạn nhân có một chiếc khăn tay có thêu chữ A. Poirot cùng với trợ lý của mình, Captain Hastings, bắt đầu cuộc điều tra và phát hiện ra rằng vụ án này có liên quan đến một bí mật đen tối trong quá khứ. "The Murderer's Son" (2010): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng mình có một người con trai là một kẻ giết người hàng loạt. Emma phải tìm cách ngăn chặn con trai mình gây ra thêm tội ác. "The Other Woman" (2013): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng chồng mình đã ngoại tình. Cô quyết định gặp người phụ nữ kia, người mà cô biết đến với cái tên Sarah. Emma và Sarah bắt đầu trở thành bạn bè và họ sớm phát hiện ra rằng chồng của Emma không phải là người duy nhất trong cuộc sống của họ. "The Killing Room" (2015): Câu chuyện kể về một nhóm người bị bắt cóc và đưa đến một căn phòng bí mật. Họ được cho biết rằng họ sẽ phải chơi một trò chơi để có cơ hội sống sót. Trò chơi này có tên là "The Killing Room" và nó đòi hỏi họ phải giết người để giành chiến thắng. "The Girl in the Red Dress" (2016): Câu chuyện kể về một người phụ nữ trẻ tên là Kate, người bị mất trí nhớ. Cô tỉnh dậy trong một bệnh viện và không nhớ gì về cuộc sống của mình. Kate phải tìm cách tìm lại ký ức của mình và giải mã bí ẩn về cái chết của một người phụ nữ trẻ mà cô được cho là đã giết. Tác phẩm của Sophie Hannah được đánh giá cao bởi lối viết hấp dẫn, cốt truyện chặt chẽ và các nhân vật được xây dựng chân thực. Cô là một trong những nhà văn trinh thám nổi tiếng nhất hiện nay. Thông tin bổ sung Giải thưởng: Giải Agatha Christie dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 cho "The Monogram Murders" Giải Barry dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 *** “Tóm lại, tôi không ưa cô ta,” cô phục vụ có mái tóc bay bay thì thào nói. Đó là một tiếng thì thào lớn vì mọi khách trong quán cà phê Pleasant đều nghe thấy. Ông tự hỏi, trong trường hợp này, cô ta là một cô phục vụ nào khác hay là một khách thường xuyên giống như ông. “Mắc gì tôi phải ưa cô ta, đúng không nào? Cô nghĩ khác thì tùy cô.” “Tôi nghĩ cô ta cũng tốt mà,” cô phục vụ mặt tròn, thấp bé hơn cất tiếng, có vẻ kém tự tin hơn so với ít phút trước. “Khi lên cơn ngạo mạn thì cô ta mới thế. Lúc cái mặt vênh lên thì lưỡi cô ta mới nhỏ độc. Chẳng hay ho chút nào. Tôi biết hàng tá người kiểu đó – chớ bao giờ tin họ.” “Chị nói chẳng hay ho chút nào là ý sao?” cô mặt tròn hỏi. Hercule Poirot, người duy nhất đang dùng bữa trong quán cà phê vào lúc 7 giờ 30 phút tối ngày thứ năm, tháng 2, biết rõ cô phục vụ tóc bay bay muốn ngụ ý gì. Ông mỉm cười một mình. Đây không phải lần đầu cô đưa ra một quan sát sắc bén. “Nếu vô tình thốt ra lời gì đó gay gắt thì còn tha thứ được. Tôi không ngại thú nhận, chính tôi cũng thường thế. Nhưng tôi mà vui thì tôi muốn mọi người cùng vui. Thế mới phải chứ. Nhưng có những kẻ như cô ta, chuyện chẳng có gì mà cứ trầm trọng hóa lên. Đó chính là loại người cần phải tránh thật xa.” Bien vu, Tốt, Hercule Poirot nghĩ. De la vrai sagessepopulaire. Khôn ngoan đấy. Cửa quán chợt mở tung, bật cả vào bờ tường. Đứng ở lối vào là một phụ nữ trong bộ áo khoác nâu nhạt đội chiếc nón cũng màu nâu nhưng sậm hơn. Cô có mái tóc vàng hoe. Poirot không thấy khuôn mặt cô. Đầu cô đang ngoái ra sau như chờ ai đó theo vào. Vài giây cửa ngỏ cũng là đủ lâu để cái lạnh đêm hôm tước đi hết sự ấm áp của căn phòng nhỏ. Bình thường, việc đó sẽ khiến Poirot nổi cáu, nhưng ông đang quan tâm sự xuất hiện kịch tính của kẻ mới đến nên chẳng mấy để ý tác động mà cô ta gây ra. Ông ấp bàn tay lên tách cà phê, hy vọng giữ lại chút hơi ấm cho món uống của mình. Ngôi nhà nhỏ hẹp, tường xiêu vẹo tại khu vực Gregory’s Alley này của London dù chẳng phải sang trọng gì nhưng lại có món cà phê ngon nhất thế giới. Ông không hay uống cà phê trước và sau bữa tối – thật ra, một viễn cảnh như thế luôn khiến ông thấy gơm gớm trong hoành cảnh bình thường – nhưng vào mỗi thứ năm, khi đến Pleasant chính xác lúc 7 giờ 30 tối, ông đều ban cho mình một ngoại lệ. Giờ thì ông xem cái ngoại lệ hàng tuần này là một thứ truyền thống nho nhỏ. Những nề nếp khác của quán thì ông chẳng ưa mấy: cứ mỗi khi đến quán, ông lại thấy dao nĩa, khăn ăn và ly nước bày lung tung trên bàn và phải sắp chúng lại cho đúng vị trí. Rõ ràng các cô phục vụ luôn cho rằng các món đồ này nằm đâu đó – bất cứ đâu – cũng được. Poirot không chịu và luôn đòi hỏi tái lập lại trật tự mỗi khi ông đến. “Xin lỗi, cô làm ơn đóng cửa sau khi vào được không ạ?” Tóc Bay Bay gọi với ra người phụ nữ áo-nâu-nón-nâu đang nắm chặt khung cửa, mặt vẫn hướng ra đường. “Hoặc giả cô không vào cũng chẳng sao. Chúng tôi ở trong này không muốn bị lạnh cóng đâu ạ.” Người phụ nữ bước vào. Cô ta khép cửa lại, không hề tạ lỗi vì đã để ngỏ cửa quá lâu. Từ cuối phòng cũng nghe được hơi thở gấp của cô. Cô chừng như chẳng để ý sự hiện diện của mọi người. Poirot đón cô bằng một câu Chào cô nhỏ nhẹ. Cô khẽ xoay sang ông, nhưng không đáp lễ. Mắt cô mở lớn trong nỗi lo lắng bất thường, một nỗi lo đủ rõ ràng để người lạ có thể nắm bắt được như một thứ vật chất. Poirot không còn thấy tĩnh tại và hài lòng như mọi khi. Sự thanh bình của ông đã vỡ tan. Người phụ nữ lao vội đến cửa sổ, săm soi nhìn ra ngoài. Cô ta sẽ không thấy thứ muốn tìm, Poirot nghĩ. Nhìn vào màn đêm từ một căn phòng chiếu sáng tốt thì chẳng thể thấy gì nhiều khi mà kính cửa chỉ phản chiếu hình ảnh ở bên trong căn phòng. Thế mà cô ta vẫn đăm đăm nhìn ra ngoài hồi lâu, cứ như quyết chí muốn canh gác cả con đường. “Ồ, hóa ra là,” cô Tóc Bay Bay nói với một thoáng bực bội. “Có chuyện gì vậy? Cô gặp chuyện gì sao?” Người phụ nữ áo-khoác-nâu-mũ-nâu quay đầu lại. “Không, tôi…” Lời thốt ra như một tiếng thổn thức. Nhưng cô ta nén lại được. “Không. Tôi lấy chiếc bàn ở góc có được không?” Cô trỏ vào chiếc bàn ở xa cánh cửa nhất. “Trừ chỗ quý ông kia đang ngồi, cô muốn chọn đâu cũng được ạ. Các bàn đều trống cả.” Sực nhớ đến Poirot, Tóc Bay Bay vội bảo ông, “Bữa tối của ông đang được nấu, ngon lắm đấy ạ.” Poirot rất thích nghe câu này. Thức ăn ở Pleasant ngon chẳng kém cà phê. Thật ra, xét cả hai khoản này, Poirot thấy khó tin vào điều mà ông được biết: các đầu bếp ở đây đều là người Anh. Incroyable. Không thể tin nổi. Tóc Bay Bay quay sang người phụ nữ đang lo lắng. “Cô chắc là không sao chứ, Jennie? Trông cô cứ như vừa gặp phải ma quỷ ấy.” “Tôi không sao, cảm ơn. Tôi chỉ xin một tách trà nóng thật đặc, làm ơn nhé.” Jennie bước vội đến chiếc bàn ở góc xa, ngang qua Poirot mà không hề nhìn ông. Ông khẽ xoay ghế để có thể quan sát cô. Chắc chắn cô ta đang gặp chuyện, một chuyện mà cô rõ ràng không muốn nói với các cô phục vụ. Không cởi áo, cởi nón, cô ngồi xuống chiếc ghế trông ra đường, đấu lưng với cánh cửa. Chỉ xong đâu đấy cô mới ngoái lại, nhìn ra sau. Có cơ hội quan sát chi li hơn khuôn mặt cô, Poirot đoán cô trạc bốn mươi tuổi. Đôi mắt to xanh luôn mở lớn và không bao giờ chớp. Poirot nghĩ, đôi mắt ấy như đang nhìn một cảnh tượng gây sốc. Gặp phải ma quỷ, Tóc Bay Bay đã nhận xét như thế. Nhưng Poirot chẳng thấy cảnh tượng nào kinh khủng với Jennie cả, chỉ có căn phòng vuông vức với bàn ghế, chiếc tủ gỗ treo áo khoác và nón, cùng những chiếc kệ cong vênh, đỡ trọng lượng của rất nhiều ấm tách với màu sắc, hoa văn và kích cỡ khác nhau. Các kệ này chỉ nhìn thấy thôi là cũng đủ rùng mình! Poirot chẳng hiểu sao một chiếc kệ cong oằn lại không được thay ngay bằng một chiếc kệ phẳng phiu. Ông cũng không thể hiểu nổi vì sao người ta xếp nĩa lên chiếc bàn vuông mà lại không chịu đặt nó song song với cạnh bàn. Tuy vậy, không phải ai cũng suy nghĩ như Hercule Poirot và từ lâu ông đã chấp nhận điều đó, cả mặt thuận lợi lẫn bất lợi mà nó gây ra. Ngồi nhấp nhổm trên ghế, người phụ nữ – Jennie – đăm đăm nhìn ra cửa như chờ đợi ai đó xông vào bất cứ lúc nào. Cô đang run rẩy, chắc một phần vì lạnh. Không – Poirot đổi ý – hoàn toàn không vì lạnh. Quán đã ấm lại rồi. Do muốn canh chừng cánh cửa, Jennie ngồi quay mặt về phía đó, giữ khoảng cách tối đa, dấy là kết luận hợp lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Kỳ Án Dòng Chữ Tắtcủa tác giả Agatha Christie.