Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiếng Chó Tru Trong Đêm - Erle Stanley Gardner

Truyện rất tuyệt, một trong những #Mason hay nhất tôi từng đọc. Tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn kết phải nói là: Hảo Hảo - Mỳ tép số 1 VN. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** - Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, - Della Street mở cửa. - Ông Mason đang đợi ngài ạ. Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng. - Ngài là Perry Mason? - Ông ta hỏi. - Ngài là luật sư ạ? - Vâng, - Mason đáp. - Xin mời ngài ngồi. Người đàn ông ngả xuống ghế bành, rút thuốc lá nhét một điếu vào miệng và chìa bao thuốc cho Mason. Trầm ngâm ngó bàn tay run rẩy, Mason lắc đầu từ chối. - Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn. Người đàn ông hấp tấp nhét bao thuốc vào túi. Quẹt diêm, tựa khuỷu tay vào tay vịn của ghế và châm thuốc hút. - Thư kí của tôi báo với tôi rằng. - Mason thong thả nói. - ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc. - Về con chó và di chúc, - người đàn ông lặp lại như tiếng vọng. - Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm! Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy. - Tên ngài là gì? - Artur Cartrait. - Tuổi? - Ba mươi hai. - Địa chỉ thường trú? - 4893, Milpas Draiv. - Có vợ hay độc thân? - Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng? - Vâng, - Mason nói, ngước nhìn khách hàng. - Điều đó không quan trọng đối với di chúc, - ông kia cự lại. - Mặc dù thế vẫn cần. - Nhưng tôi đã nói rồi, điều đó không liên quan gì với di chúc của tôi. - Vợ ngài tên là gì? - Paula Cartrait. - Bà ấy sống với ngài chứ? - Không. - Vậy thì ở đâu? - Tôi không rõ. Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay. - Được rồi, - ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, - trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không? - Không. - Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai? - Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không? Mason im lặng gật đầu. - Chúng ta cứ cho rằng, - Cartrait tiếp tục. - theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y? - Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, - Mason đáp. - Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc? - Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác. - Ngài có ý gì? - Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu. Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ. - Ngài muốn để tài sản lại cho ai? - Mason nhắc lại. - Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889. Mason sửng sốt nhướng lông mày. - Cho bà hàng xóm ư? - Cho bà hàng xóm, - Cartrait khẳng định. - Rất tốt. Nhưng hãy lưu ý, ngài Cartrait, ngài đang nói với luật sư của mình. Ngài không nên có bí mật gì đối với tôi. Xin đừng lo, tất cả những điều nói ra tại đây, sẽ ở lại giữa hai chúng ta mà thôi. - Thì tôi có giấu giếm gì đâu! - Cartrait kêu lên nôn nóng. - Tôi không tin chắc vào điều đó, - Mason nhận xét trầm tĩnh. - Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã. - Tôi nói hết rồi. - Hết là thế nào? - Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli. Perry Mason đặt bút xuống bàn. - Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy. - Con chó tru. Mason gật đầu vẻ khuyến khích. - Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết. - Con chó này sống ở đâu? - Trong ngôi nhà bên cạnh. - Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru? - Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli. - Hiểu rồi, - Mason gật đầu. - Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait. Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành. - Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc. - Tôi nghe đây. - Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli. - Ngài có ý nói gì? - Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp. - Điều đó không có ý nghĩa gì, - Mason chậm rãi đáp, - nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ... - Tôi không quan tâm điều đó, - Cartrait sốt ruột cắt lời ông. - Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không? - Điều đó không nhất thiết. - Thế nếu như, - cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, - vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà? - Tôi đã giải thích với ngài rồi, - Mason nhẫn nại đáp, - điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ? - Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi. - Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không? - Tất nhiên không, - Cartrait cắt ngang. - Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả. - Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó. - Ngài phải làm gì đó với con chó này. - Đề xuất của ngài? - Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù. - Dựa trên cơ sở nào? - Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, - Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc. Mason lắc đầu. - Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và... - Tôi biết, tôi biết, - Cartrait cắt lời ông. - Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi. Mason mỉm cười yếu ớt. - Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư. - Không! - Cartrait kêu lên. - Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, - ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. - Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn. Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn. - Thưa ngài Cartrait, - ông thốt ra dè dặt, - nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu? - Tôi mong được như thế. - Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài. - Tốt, - Cartrait đáp. Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi. - Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt? - Vâng. - Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo? - Ngài chưa biết Fouli, - Artur Cartrait nhắc lại. - Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy. - Con chó giống gì? - Bécgiê cảnh sát to tướng. Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười. - Nếu người đưa đơn kiện đã sơ bộ nhờ đến luật sư, kể hết với ông ta tất cả không che giấu điều gì, và trong tương lai tuân thủ các lời khuyên của luật sư, thì trong khi xem xét tố tụng về sự buộc tội giả trá, điều đó sẽ có lợi cho người kiện. Còn bây giờ, tôi muốn làm để sao cho Clinton Fouli không có nguyên cớ đâm đơn kiện ngài lên toà. Tôi sẽ đưa ngài đến gặp trợ lí ngài biện lí khu, người phụ trách những vấn đề tương tự. Tôi muốn để ngài nhắc lại với ông ấy tất cả những gì liên quan đến con chó. Có thể không nhắc tới bản di chúc. Nếu ông ấy quyết rằng điều ngài nói là đủ để có lệnh bắt giam, thì lệnh sẽ được viết. Nhưng tôi cảnh báo trước, ngài không nên giấu giếm gì cả. Hãy đưa ra trước ông ấy tất cả các cứ liệu, và lúc ấy bất cứ đơn kiện nào của Fouli cũng không làm hại được ngài. Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây? - Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, - Mason đáp. - Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy. - Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu. Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm... Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên. - Bị cắm sừng à? - Cô hỏi. - Tôi không biết, - Mason đáp, - nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta. Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ. Dorcas ở đầu dây. Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói. - Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì. - Ông ta cần gì? - Ông ta muốn đâm đơn kiện. - Về lí do gì? - Về con chó tru. - Về... - Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư. - Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế. - Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này. - Chỉ vì tiếng chó tru ấy à? - Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên. - Điều đó là chính xác, - Dorcas đồng ý. - Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ? - Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi. - Tôi sẽ đợi các anh, - ngừng một chút, Dorcas nói. - Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. - Mason đặt ống nói xuống. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #04: Tiếng Chó Tru Trong Đêm của tác giả Erle Stanley Gardner.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tủ Sách Z.28 - Người Thứ Tám
eBook Tủ Sách Z.28 gồm có:  Z.28 13 Giờ Định Mạng by Người Thứ Tám Z.28 Bà Chúa Thuốc Độc by Người Thứ Tám Z.28 Ba Lê… Mắt Biếc Môi Hồng by Người Thứ Tám Z.28 Bản Án Tử Hình by Người Thứ Tám Z.28 Bão Ngầm Trên Biển Phong Lan by Người Thứ Tám Z.28 Bắc Kinh 72 Giờ Nghẹt Thở by Nguoi Thu Tam Z.28 Bí Mật Hồng Kông - Quyển Thượng by Người Thứ Tám Z.28 Bí Mật Hồng Kông - Quyển Hạ by Người Thứ Tám Z.28 Bóng Ma Trên Công Trường Đỏ by Người Thứ Tám Z.28 Bóng Tối Đồng Pha Lan by Người Thứ Tám Z.28 Buôn Súng Lậu by Người Thứ Tám Z.28 Cuba, Đêm Dài Không Sáng by Người Thứ Tám Z.28 Đan Mạch Người Chết Hồi Sinh by Nguoi Thu Tam Z.28 Đêm Cuối Cùng Của Tử Tội by Người Thứ Tám Z.28 Đêm Loạn Hăm Bua by Người Thứ Tám Z.28 Điệp Viên Áo Tím by Nguoi Thu Tam Z.28 Điệp Vụ Săn Người by Người Thứ Tám Z.28 Đoàn Vũ Khỏa Thân by Người Thứ Tám Z.28 Gián Điệp Hoa Quỳnh by Người Thứ Tám Z.28 Gián Điệp Siêu Hình by Người Thứ Tám Z.28 Hận Vàng Ấn Độ by Người Thứ Tám Z.28 Hồn Ma Diến Điện by Người Thứ Tám Z.28 Macao... Trinh Nữ Giang Hồ by Người Thứ Tám Z.28 Máu Loang Chùa Tháp by Người Thứ Tám Z.28 Mây Mưa Thụy Sĩ by Người Thứ Tám Z.28 Mèo Xiêm Cọp Thái by Người Thứ Tám Z.28 Một Vụ Đánh Cắp Tài Liệu Nguyên Tử by Người Thứ Tám Z.28 Người Đẹp Qui-Tô by Người Thứ Tám Z.28 Núi Đá Tiên Tri by Người Thứ Tám Z.28 Nữ Thần Ám Sát by Người Thứ Tám Z.28 Phi Tuần Vĩnh Biệt by Người Thứ Tám Z.28 Sóng Gió Tam Kiều by Người Thứ Tám Z.28 Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu by Người Thứ Tám Z.28 Tia Sáng Giết Người - Quyển Thượng by Người Thứ Tám Z.28 Tia Sáng Giết Người - Quyển Hạ by Người Thứ Tám Z.28 Tử Chiến Ngoài Khơi by Người Thứ Tám Z.28 Tướng Cướp Đổi Mạng by Người Thứ Tám Z.28 Vệ Nữ Đa Tình by Người Thứ Tám Z.28 Vượt Tuyến by Người Thứ Tám ... *** Người Thứ Tám tên thật là Bùi anh Tuấn (1925-?) sinh trưởng ở đất Bắc (tỉnh Thanh Hóa – vùng địa đầu xứ Trung Kỳ). Thời ở tuổi vừa ngoài 20, Nhật hạ Pháp qua cuộc đảo chính 9/3/1945, Phong trào Việt Minh nổi lên, và cướp chính quyền trong tay Thủ Tướng chính phủ Trần Trọng Kim đặt dưới quyền lãnh đạo tối cao của nhà Vua Bảo Đại, thì Bùi anh Tuấn đã là một đảng viên VNQDĐ. Ông lao mình tham gia các hoạt động chống lại VM. Kịp đến lúc tiếng súng mở đầu cuộc chiến tranh Việt – Pháp ngày 19/12/1946, Bùi anh Tuấn bị Ban Trinh Sát (tức Công An-Mật Vụ CS theo tên gọi bây giờ) nhận diện, bắt, và đưa đi an trí tại trại giam Đầm Đùn thuộc tỉnh Thanh Hoá (Liên khu IV), nổi tiếng là địa ngục trần gian, đã vào đây khó có ngày về. Chốn ngục tù hãi hùng này là nơi giam hầu hết các anh em đảng phái QG chống lại CS Việt Minh. Cũng như vài năm sau số mệnh lại cho ông có cơ hội thoát ngục trong đường tơ kẽ tóc. Bùi anh Tuấn lần mò về Hà nội, rồi vào Nam . Trong những năm, tháng bị an trí ở Đầm Đùn, ông có duyên may gặp một bạn tù đã ở vào tuổi trung niên. Thời Pháp thuộc, ông này dạy Anh văn ở Lycée Louis Pasteur Hà nội. Nay trong thân phận tù đầy, để cố quên mà tồn tại, mà sống, ông dạy Anh ngữ cho Bùi anh Tuấn. Học cho qua ngày. Nhưng sau này, nhờ vậy, Bùi anh Tuấn có sẵn số vốn cần thiết về ngôn ngữ Hoa Kỳ khi người Mỹ thoạt đặt bước vào Miền Nam (Trước kia đại đa số người Việt 3 miền Trung Nam Bắc chỉ biết có tiếng Pháp). Năm 1957 "Điệp viên Miền Nam trên đất Bắc" ra mắt lần đầu tiên trên tờ nhật báo Dân Chúng. Và trong 3 năm liên tục, nhiều cốt truyện Gián điệp Z. 28 đã được đăng tiếp (sau đó mới in thành sách), đem lại biết bao sôi nổi, hào hứng cho nhiều từng lớp độc giả thân mến. Với hàng triệu độc giả, sau hơn 50 cuốn truyện đã xuất bản, với địa vị mỗi ngày một củng cố sau gần 20 năm tung hoành trên trường văn gián điệp, Người Thứ Tám đã phá kỷ lục về số lượng người đọc và về số lượng tác phẩm xuất bản được ưa chuộng. TÁC PHẨM: Địa Ngục (Bùi anh Tuấn, 1956) Một Vụ Đánh Cắp Tài Liệu Nguyên Tử (1965) Gián Điệp Quốc Tế (1965) Núi Đá Tiên Tri (1965) Chiến Sĩ Điệp Báo Penkovskiy (1966) Gián Điệp Nhị Trùng (1966) Phù Tang Nổi Sóng (1966) Gián Điệp Siêu Hình (1966) Vạn Tượng Khói Lửa (1966) Z.28 Buôn Súng Lậu (1966) Bạn Muốn Thành Gián Điệp (1966) Bà Chúa Thuốc Độc (1967) Tia Sáng Giết Người (1967) Bản Án Tử Hình (1967) Đêm Cuối Cùng Của Tử Tội (1967) Tử Chiến Ngoài Khơi (1967) Máu Loang Chùa Tháp (1968) Bóng Tối Đồng Pha Lan (1968) Nữ Thần Ám Sát (1968)          Phi Tuần Vĩnh Biệt (1968) Vệ Nữ Đa Tình (1968) Hồn Ma Diến Điện (1969) Gián Điệp Hoa Quỳnh (1969) Mèo Xiêm, Cọp Thái (1969) Điệp Viên Áo Tím (1969) Đoàn Vũ Khỏa Thân (1969) Kẻ Thù Không Mặt (1969) Bóng Ma Trên Công Trường Đỏ (1969) Cạm Bẫy Trên Giòng Chao Phya (1969) Điệp Vụ Săn Người (1970) Bắc Kinh: 72 Giờ Nghẹt Thở (1970) Sóng Gió Tam Kiều (1970) Kẻ Cắp Bà Già (1970) Người Đẹp Qui-Tô (1971) Đòn Phép Điệp Báo (1971) Đêm Loạn Hăm Bua (1971) Hận Vàng Ấn Độ (1971) Mây Mưa Thụy Sĩ (1971)          Z.28 Vượt Tuyến (1971) Ba Lê… Mắt Biếc Môi Hồng (1972) Bão Ngầm Trên Biển Phong Lan (1972) Cát Sơ Mia... Sông Máu Thuyền Hoa (1972) 13 Giờ Định Mạng (1972) Nhà Thám Tử Cô Đơn (1972) Hạ Uy Di, Đáy Biển Mò Kim (1973) Bí Mật Hồng Kông (1973) Đan Mạch: Người Chết Hồi Sinh (1973) Riô... Đảo Tình Bốc Cháy (1973) Macao... Trinh Nữ Giang Hồ (1973) Tướng Cướp Đổi Mạng (1974) Cuba, Đêm Dài Không Sáng (1974) Nepal... Điệp Vụ Hoa Sen (1974) Bhutan Sấm Sét Rừng Khuya (1974) Tây Ban Nha 200 Tấn Vàng Đẫm Máu (1975) Nam Tư, Anh Hùng Bạc Bịp ... Mời các bạn đón đọc Tủ Sách Z.28 của tác giả Người Thứ Tám.
Vượt Lên Hàng Đầu - Jeffrey Archer
Tiểu thuyết "Vượt Lên Hàng Đầu" là câu chuyện kể về 3 nghị sĩ trẻ thành đạt đang trên đường chạy đua vào chức Thủ Tướng. Ai sẽ thắng? Đây là cuộc chạy đua đầy mưu mô, không khoan nhượng và... Một điều không thể ngờ là những người vợ và những người tình của họ cũng góp phần không nhỏ trong sự thắng thua này. *** Tiểu thuyết Vượt Lên Hàng Đầu(First among equals) khi xuất bản ở Anh là câu chuyện xung quanh cuộc sống cá nhân và sự nghiệp của 4 chính trị gia người Anh (Simon Kerslake, Charles Seymour, Raymond Gould và Andrew Fraser) trong giai đoạn từ 1964-1991. Tác phẩm xoay quanh cuộc ganh đua để trở thành Thủ tướng Vương quốc Anh. Một vài tình huống trong cuốn tiểu thuyết được lấy từ sự nghiệp chính trị của chính tác giả lúc mới bước chân vào Hạ viện Anh. Trong cuốn tiểu thuyết cũng xuất hiện các nhân vật chính trị của nước Anh bao gồm cả Winston Churchill, Alec Douglas-Home, Harold Wilson, Edward Heath, Margaret Thatcher... Khi được xuất bản tại Hoa Kỳ, cuốn tiểu thuyết đã được viết lại. Theo đó câu chuyện xung quanh nhân vật Andrew Fraser bị loại bỏ và chuyển giao cho các nhân vật khác, đáng chú ý là Simon Kerslake. Một số sự kiện như: thay đổi đối tượng hôn nhân và mất đi người con trai của mình là những sự kiện xảy ra với Andrew Fraser trong cuốn sách xuất bản tại Anh thì lại được chuyển sang cho Simon trong cuốn xuất bản tại Mỹ. *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/04/1940) là nhà văn người Anh và cũng là một chính trị gia. Ông từng là một thành viên Quốc hội (1969-1974), và Phó Chủ tịch Đảng Bảo thủ (1985-1986). Jeffrey Archer sáng tác cuốn tiều thuyết Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là Kane and Abel) vào năm 1979. Tựa đề “Kane and Abel” dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980 và cuốn sách đã được phổ biến trên toàn thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của từ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS cũng với tên là Kane & Abel. Một số tác phẩm của tác giả Jeffrey Archer đã được dịch xuất bản tại Việt nam: Kẻ Mạo Danh Không Hơn Một Xu Không Kém Một Xu Vượt Lên Hàng Đầu Điều Lệnh Thứ Mười Một Luật Giang Hồ Hai số phận Bước Ngoặt Trong Câu Chuyện Quyền Lực Thứ Tư Ấn Tượng Sai Lầm ... *** Lời tuyên bố của Nữ hoàng đã được thông qua trước Thượng và Hạ Nghị viện. Khi cú sốc ban đầu đã được cả nước chấp nhận, chiến dịch bầu cử lại một lần nữa được đưa lên những trang đầu của báo chí. Cuộc bầu thứ nhất cho thấy Đảng Bảo thủ dẫn trước hai điểm. Báo chí gắn điều này với quan hệ không bình thường của công chúng với vị Lãnh tụ mới của Đảng Lao động nhưng cuối tuần thứ nhất, Đảng Bảo thủ bị giảm bớt một điểm và báo chí cho rằng Raymond đã bắt đầu tốt việc quản lý của anh. — Một tuần lễ là cả một thời gian dài trong chính trị, - anh nói một câu trích, - và còn hai tuần nữa phải tiếp tục. Các học giả đã đưa ra giả thuyết rằng Raymond đã tăng được uy tín của mình lên trong tuần lễ đầu do anh đã nhận được nhiều sự quan tâm hơn ở cương vị Lãnh tụ Đảng Lao động. Anh cảnh báo các cơ quan báo chí tại Trung tâm của Đảng Lao động rằng đó có thể là một tháng trăng mật kỷ lục ngắn nhất, và họ cũng không thể đợi chờ anh xử sự giống như chú rể trong ba tuần. Dấu hiệu đầu tiên của sự đổ vỡ cuộc hôn nhân đã tới khi Bộ Lao động và Giới thiệu việc làm tuyên bố rằng nạn lạm phát đã tăng lên lần đầu trong vòng chín tháng. — Và ai là Quan chưởng ấn trong ba năm cuối? - Simon hỏi trong lời phát biểu buổi tối đó ở Manchester. Raymond cố gắng làm giảm bớt số liệu như một sự trục trặc trong tháng, nhưng ngày hôm sau Simon khẳng định rằng còn có nhiều tin tức xấu hơn xung quanh sự lũng đoạn thị trường. — Tuần trăng mật, cuộc hôn nhân tan vỡ và sự ly hôn, tất cả ở trong một giai đoạn mười bốn ngày, - Raymond nói giễu cợt. - Điều gì có thể xảy ra trong bảy ngày tới? — Có thể là sự hòa giải? - Joyce đặt giả thiết. ... Mời các bạn đón đọc Vượt Lên Hàng Đầu của tác giả Jeffrey Archer.
Năm Chú Lợn Nhỏ - Agatha Christie
Năm Chú Lợn Nhỏ, Nguyên tác : Five little Pigs, là tập 25 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Vụ án xảy ra mười sáu năm trước. Amyas Crale, một họa sĩ có tài năng và đào hoa bị đầu độc bởi chất độc coniine. Chất độc này vốn do Meredith Blake, một nhà thực vật học nghiệp dư, và người quen của Amyas chiết xuất từ thảo dược. Tối hôm trước, Meridith vừa khoe với các bạn bè người quen về chất này, và sáng hôm sau thì ông thấy chai chứa chất này chỉ còn non nửa. Ngay lập tức mọi nghi vấn đổ dồn lên Caroline Crale, vợ của họa sĩ. Tối hôm trước, cô nghe Meridith khoe về chất coniine và các tính chất của chất này, và là người ra khỏi phòng thí nghiệm của Meridith sau cùng. Nhiều bằng chứng gián tiếp khác cho thấy Caroline có trộm chất độc này đem về phòng. Đã thế, Caroline lại đang mâu thuẫn với chồng – Amyas đang cặp bồ với Elsa Greer, người đang làm mẫu vẽ cho bức tranh của ông, và có ý định bỏ Caroline cùng cô con gái Carla mới lên năm tuổi để lấy Elsa. Ngoài ra, những ngày gần đó hai vợ chồng lại cãi nhau to tiếng rất nhiều. Tòa án (và hầu như tất cả mọi người khác) đều tin rằng Caroline Crale là người có lỗi. Tuy nhiên, cô không bị tử hình, mà chỉ bị án chung thân do có những tình tiết giảm nhẹ. Nhưng một năm sau, Caroline qua đời. Trước khi chết, Caroline viết một bức thư gửi con gái, viết rằng mình vô tội. Cô bé Carla tin bà, vì mẹ mình không bao giờ nói dối. Cô con gái Carla được đưa ra nước ngoài sống cùng bà con. Mười sáu năm sau, khi chuẩn bị kết hôn, Carla muốn biết sự thật, và đề nghị Poirot điều tra lại vụ án này. Tất nhiên đến lúc này thì bằng chứng đã bị thời gian xóa nhòa hết. Tuy nhiên, ngoài Caroline thì chỉ có năm người khác ở trong nhà lúc đó cùng Amyas Crale, tức nếu Caroline vô tội thì chỉ có năm người có khả năng giết Amyas. Ai là kẻ sát nhân trong số này? Trong đầu Poirot liên tưởng đến một bài đồng dao trẻ con về năm chú lợn con, và đó là lý do của tên sách (một tình tiết hay gặp trong các tiểu thuyết của Agatha Christie) This little piggy went to market, This little piggy stayed home, This little piggy had roast beef This little piggy had none, And this little piggy cried wee wee wee all the way home. Poirot liên kết năm chú lợn con với năm nhân vật trên. Phillip Blake, em của Meredith là chú lợn con đi chợ (“went to market”); Meredith Blake là chú lợn con ở nhà (“stayed at home”); Elsa Greer là chú lợn con có thịt bò nướng “had roast beef”) Cecilia Williams, nữ gia sư, thì không có gì (“had none”) Angela Warren, em gái của Caroline thì khóc chạy về nhà (“cried wee wee wee all the way home”) Đương nhiên cuộc điều tra của Poirot xoay quanh năm nhân vật trên. Ông bắt họ động não, quay lại những sự kiện mười sáu năm trước, so sánh, tìm ra những mâu thuẫn, những điều họ vô tình hoặc cố giấu, để lần ra đáp án. Nửa đầu truyện này khá rề rà, mà cũng phải thôi, mười sáu năm đã qua còn gì. Những người có liên quan đến vụ án không phải ai cũng còn sống, những gì họ nhớ được chỉ là những mảnh ghép, lại không hoàn toàn đúng đắn. Nhiệm vụ của Poirot quả là hết sức nặng nề, phải tìm cách tiếp cận từng người, bắt họ nhớ lại cả những gì không đáng kể, tìm ra những mâu thuẫn trong các lời khai, bộc lộ tính cách, lý do, vân vân. Tuy nhiên, khi năm người trên đều viết lại những gì nhớ được sau khi nói chuyện với Poirot, thì là lúc cuộc điều tra có tiến triển nhanh. Các dữ kiện mới làm người đọc phải có cái nhìn khác với trước, và những khía cạnh khác nhau trong tính cách từng nhân vật cũng bộc lộ. Và kết thúc đúng là rất bất ngờ nhưng vô cùng hợp lý (mình bị lừa mấy lần!). Cho nên, mình nghĩ rằng người nào đã có cảm tình với Agatha Christie thì sẽ thích cuốn này. Túm lại là rất nên đọc! Review: Ha Le *** Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Năm Chú Lợn Nhỏ của tác giả Agatha Christie.
Một, Hai, Ba Những Cái Chết Bí Ẩn - Agatha Christie
Một, Hai, Ba Những Cái Chết Bí Ẩn là tập 23 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Một buổi sáng, Hercule Poirot tìm tới nha sĩ Henry Morley để chữa răng. Không ngờ chỉ vài giờ sau, ông đã phải trở lại để điều tra nguyên nhân cái chết của nha sĩ. *** Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Khi ngồi vào bàn để ăn trưa, ông Morley không vui vẻ lắm. Ông phàn nàn về món thịt muối, ông hỏi tại sao cà phê lại giống nước bùn lỏng và nói rằng chưa bao giờ bánh bích quy lại dở như vậy. Ông Morley có dáng người nhỏ nhắn với khuôn mặt cương nghị và cái cằm hiếu chiến. Chị ông, một bà quản gia có tầm vóc đẹp, chăm chú nhìn ông rồi hỏi ông một lần nữa xem có phải người ta đã chuẩn bị cho ông nước tắm quá lạnh không. Ông gắt gỏng, trả lời không và liếc nhìn tờ báo hàng ngày. Một lát sau, ông tuyên bố rằng chính phủ, mà cho đến lúc đó ông chỉ lấy làm tiếc về sự thiếu khả năng, bây giờ rõ ràng đã trở nên tai hại. Cô Morley bằng giọng rất trầm, bảo rằng đấy là điều đáng tiếc. Các ông bộ trưởng, dù họ là thế nào đi nữa, luôn luôn tỏ ra có một ích lợi nào đó, cô giục ông em giải thích tại sao chính phủ hiện tại lại bất lực, ngớ ngẩn và nguy hiểm. Ông Morley đã làm cho cô vừa lòng, khi uống một tách cà phê thứ hai mà ông cảm thấy ghê tởm và cuối cùng ông thú nhận lý do thực sự làm ông bực mình. - Các cô gái đều giống nhau cả thôi - ông nói - Họ chỉ nghĩ tới bản thân và không thể tin họ được! - Có phải cậu nói về Gladys phải không? - Vâng. Cô ấy vừa báo cho em biết là bà của cô ta bị một cơn kịch phát và cô ấy cần phải đi đến Somerset. - Thực là chán, nhưng không phải lỗi tại cô ấy. Ông Morley lắc đầu, rầu rĩ: - Ai chứng minh cho em rằng bà cô ấy thực sự có một cơn kịch phát? Biết đâu đấy chẳng phải là một cú đánh lừa với sự tiếp tay của chàng trai đáng ngờ mà cô ta luôn luôn đi cùng? Họ đã quyết định kiếm lấy một ngày nghỉ, chỉ thế thôi! - Chị khó tin điều đó với Gladys. Chị luôn luôn thấy cô ấy là người có lương tâm. - Tất nhiên! Nhưng... - Đấy là một cô gái thông minh và yêu lao động, chính cậu đã nói với chị điều đó. - Vâng, Georgina, em đã nói điều đó! Nhưng đấy là trước khi cô ấy lui tới với con người ấy. Cô ấy đã thay đổi nhiều trong thời gian gần đây. Người ta không nhận ra cô ấy nữa. Cô ấy mơ mộng, luôn nghĩ đến việc khác, hay bồn chồn… Mời các bạn đón đọc Một, Hai, Ba Những Cái Chết Bí Ẩn của tác giả Agatha Christie.