Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Viên Tướng Của Đạo Quân Chết - Ismail Kadare

Viên Tướng Của Đạo Quân Chết là câu chuyện về cuộc tìm kiếm hài cốt binh sĩ ở Anbani của một viên tướng sau 20 năm chiến tranh kết thúc - một cuộc hành trình của tâm trạng và nhận thức của một kẻ mang niềm kiêu hãnh, một nước lớn đi khai hóa văn minh cho một nước bé. Nhưng vượt lên tất cả những điều ấy là hình ảnh một đất nước Anbani hiểm trở, hùng vĩ với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời , với những con người ngoan cường dũng cảm, biết vượt qua những đau thương của chiến tranh để tự khẳng định mình...." Mê và cay đắng, viên tướng của đạo quân chết là khúc bi thương cho những người trẻ tuổi của tất cả những quốc gia đã bị đưa ra nước ngoài để chết cho cuộc chiến". *** Ismail Kadare là một nhà văn còn trẻ (ông sinh năm 1936) nhưng đã có một vị trí hàng đầu trong văn học Albania hiện đại. Ông nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu tay «Mùa xuân tương lai» sáng tác năm ông mới mười tám tuổi rồi năm 1957, ông đoạt giải thưởng văn học quốc gia với trường ca «Những niềm mơ ước». Một trường ca khác của ông - «Công chúa Argjiro» - được độc giả Albania rất ưa thích. Ông còn có một tập truyện ngắn «Đám cưới». Tuy nhiên tên tuổi ông chỉ thực sự được biết đến ở nước ngoài với cuốn tiểu thuyết «Viên tướng của đạo quân chết». Nội dung cuốn sách này thật ra rất đơn giản. Hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, một viên tướng (tác giả cố ý không nói rõ họ tên, tuổi tác, quốc tịch của hắn; người đọc chỉ «ngẫu nhiên» biết hắn cao một thước tám mươi hai và đoán chừng hắn là người Ý) cùng với một linh mục, hàm đại tá, làm thông ngôn, sang Albania để tìm kiếm thi hài các binh sĩ của đạo quân phát xít nước hắn đã tử trận ở Albania. Theo những bản danh sách và bản đồ được lập sẵn một cách công phu, tỉ mỉ, hắn và ông linh mục, có một cán bộ chuyên môn Albania và một kíp công nhân đi cùng, đã lặn lội khắp đất nước Albania, đào bới, thu nhặt những nắm xương tàn của đạo quân phát xít hai mươi năm trước đây đã bại trận. Cuộc tìm kiếm kéo dài hai năm ròng rã; các bộ hài cốt tìm thấy được bỏ vào các túi nylon đặc biệt màu xanh, sọc trắng, viền đen và gửi về cho các gia đình đã bao năm nay chờ đợi chồng con họ. Cuối cùng, viên tướng hoàn thành công việc, tổ chức lễ cầu hồn, mở một tiệc chiêu đãi nhỏ rồi lên đường về nước. Câu chuyện chỉ có vậy, bình thường và có thể nói là khô khan nữa, đến cái mức tưởng đâu như không có gì để viết được thành một cuốn tiểu thuyết. Nhưng Ismail Kadare đã biết chọn một góc nhìn độc đáo. Ông không kể lại câu chuyện theo chủ quan của ông, một người Albania, mà là thông qua con mắt của viên tướng, quân nhân một nước trước đây đã tiến hành một cuộc xâm lăng tàn bạo và đẫm máu trên đất nước Albania và giờ đây nhận nhiệm vụ đi sang Albania với rất nhiều định kiến. Ismail Kadare chỉ để cho nhân vật chính của ông nhìn thấy và kể lại những gì phù hợp với tính cách của hắn. Có thể nói đất nước Albania được miêu tả ở đây không phải là đất nước Albania của bản thân tác giả mà là một đất nước xa lạ nhìn qua con mắt của viên tướng: toàn núi non ghê rợn, với bùn lầy, mưa tuyết, gió lạnh… Ngay câu mở đầu cuốn sách đã xác định rõ cách nhìn ấy: «Mưa pha tuyết rơi trên đất khách…»; đó cũng là câu bắt đầu chương chót và cuốn sách chấm dứt với câu: «gió vẫn thổi không ngừng». Trong hai năm trời lang thang đây đó để khai quật mồ mả, viên tướng chỉ nhìn thấy có bùn lầy mùa thu và mưa tuyết mùa đông. Qua câu chuyện kể lại theo một trình tự thời gian chặt chẽ, Ismail Kadare đã không để cho viên tướng được thấy cảnh mùa xuân, cũng như không để cho ông ta có được một nụ cười. Câu chuyện bắt đầu với mưa, tuyết và kết thúc với gió thổi. Như vậy, câu chuyện không phải đơn thuần chỉ kể lại sự việc mà thực ra chính là quá trình diễn biến trong tâm tư viên tướng từ khi đặt chân lên Albania cho đến lúc ra sân bay trở về nước. Chính vì thế mà, nếu như độc giả không biết gì về tên tuổi, dung mạo, bề ngoài của viên tướng - trừ chiều cao một thước tám mươi hai, - thì trái lại, qua đoạn này, đoạn khác, đây một nét, kia một chi tiết, người ta biết rất rõ tâm trạng của hắn từng lúc một. Hắn lên đường sang Albania với quan niệm đây là một sứ mệnh cao cả, thiêng liêng; hắn rất thích thú câu nói của một mụ quý tộc nước hắn ca tụng hắn trước ngày khởi hành: «Như một con chim oai hùng và đơn độc, ngài sẽ bay lượn trên những ngọn núi lặng lẽ và bi thảm ấy để lôi kéo con em khốn khổ của chúng ta ra khỏi nanh vuốt chúng». Hắn luôn luôn muốn người Albania hiểu là hắn cầm đầu cái phái đoàn hai người, hắn là nhân vật quan trọng nhất. Hắn ngầm chê bọn tướng lĩnh ngu dốt xưa kia đã đưa quân đội nước hắn «những con em của chúng ta, oai hùng và dũng cảm», đến chỗ thất bại và bị tiêu diệt, còn hắn, hắn đến Albania để đưa các tử sĩ đó ra khỏi quên lãng. Hắn tự cho mình là đại diện của một cường quốc văn minh đi đến một nước dã man, lạc hậu, nhỏ xíu chỉ bằng một cái chấm trên bản đồ. Hắn đặc biệt chú ý tìm kiếm di hài viên đại tá Z, con trai độc nhất của mụ quý tộc giàu có, quyền thế nọ, «con cưng» của Bộ Chiến tranh, «có bản lĩnh của một thiên tài quân sự» đã «mất tích» ở Albania. Gia đình viên đại tá đã xây sẵn một ngôi mộ nguy nga bằng cẩm thạch, có dựng tượng, trồng hoa hồng để chờ đón hài cốt của «người anh hùng» đó và đặt hết hy vọng vào viên tướng… Trong một lúc rượu say chuếnh choáng, tâm sự với người bạn đồng hành, viên tướng đã thổ lộ ý muốn của hắn là «sẽ hiên ngang đi giữa những người Albania, nhìn họ một cách căm hờn và khinh bỉ»; hắn đã «hình dung trước buổi lễ bàn giao hài cốt, long trọng và nghiêm trang,» và sẽ «cho diễu các quan tài binh sĩ nước hắn giữa đám dân chúng Albania để cho họ thấy là cái chết của chúng ta còn đẹp hơn cả cuộc sống của họ»… Nhưng rồi sự việc đã diễn ra khác hẳn, như hắn về sau đã đau khổ thú nhận: «Thái độ kiêu hãnh của chúng ta biến mất trước tiên, rồi tất cả những công việc này chẳng còn gì là long trọng nữa và cuối cùng những ảo tưởng của tôi cũng tan biến và bây giờ chúng ta đi dạo trong sự hờ hững chung của mọi người, dưới những con mắt bí hiểm và giễu cợt, như những thằng hề thảm hại của chiến tranh, còn đáng thương hơn cả những kẻ đã chiến đấu và chiến bại trên đất nước này». Thật vậy, hai năm trời trèo đèo, lội suối, xuôi ngược trên khắp các nẻo đường đất nước Albania, viên tướng đã đi từ phát hiện này đến phát hiện khác, từ thất vọng này đến thất vọng khác, những định kiến của hắn sụp đổ dần. Cái bi kịch của hắn là ở chỗ chính hắn đã từng sống những ngày đầu của chiến tranh vào mùa xuân 1939, khi quân phát xít đổ bộ lên Albania: đài phát thanh nước hắn báo tin «chiến thắng» dồn dập, dân chúng Albania đem hoa ra đón tiếp những đạo quân «sẽ dẫn văn minh và hạnh phúc đến cho họ». Rồi báo chí đăng bài, tranh ảnh, ca ngợi mùa xuân rực rỡ, bầu trời, mặt biển Albania chan hòa ánh nắng, các cô gái Albania duyên dáng, những y phục và những điệu múa đầy màu sắc. Binh lính nước hắn và cả bản thân hắn nữa - lúc đó hắn đang ở châu Phi - đều náo nức mơ ước được điều sang cái nơi thanh bình, tươi đẹp ấy, dưới bóng những cây ô liu cổ thụ… Và giờ đây, chính hắn lại tới đó để thu nhặt tàn tích của chính những đạo quân ấy và đồng thời cũng là thu nhặt những bằng chứng tuyệt đối về sự thất bại thảm hại của chúng. Có những đơn vị đã bị tiêu diệt hoàn toàn, xương người lẫn lộn với xương lừa ngựa, có những tên, kể cả sĩ quan, đã đào ngũ, đi ở cho nông dân Albania để mưu cầu cái sống thừa trong ô nhục, rồi cuối cùng chết vì tay những đơn vị trừng phạt của chính quân đội phát xít. Viên đại tá Z, «người anh hùng» của hắn, thực ra chỉ là một tên sát nhân hung ác, chỉ huy «Tiểu đoàn xanh» khét tiếng tàn bạo, đã cưỡng dâm một cô bé Albania 14 tuổi khiến cô bé tủi nhục nhảy xuống giếng tự tử; y đã bị giết chết không biết chôn ở đâu. Cho đến một tối nọ, công việc sắp hoàn thành, viên tướng cao hứng tự động đến dự một bữa tiệc cưới của một gia đình nông dân Albania, một bà cụ đã ném cái túi đựng hài cốt tên đại tá Z xuống trước mặt hắn, «như nhổ vào mặt hắn», với những lời nguyền rủa thậm tệ vì bà cụ chính là mẹ cô bé Albania nọ, chồng bà cụ đã bị «Tiểu đoàn xanh» treo cổ, chính bà cụ đã giết tên đại tá Z khi tên này - không biết cô gái đã tự tử - hôm sau lại mò đến nhà cô ta. «Và trong sự im lặng chung, viên tướng từ từ cúi xuống, run rẩy nắm lấy cái túi bê bết bùn,… hất lên vai, khom khom đi ra, như mang trên vai tất cả nỗi sỉ nhục và sức nặng của trái đất.» Bên cạnh những mẩu chuyện biết được về từng trường hợp binh sĩ nước hắn, viên tướng cũng được biết nhiều chuyện về người Albania, về truyền thống và phong tục tập quán Albania, về cuộc chiến đấu của nhân dân Albania… Sự hy sinh của Nik Martini, một người dân miền núi, đã để lại trong lòng hắn một ấn tượng sâu sắc: Nik Martini đã một mình vác súng đi xuống bờ biển, một mình đương đầu với cả đạo quân đổ bộ, đông như kiến cỏ. Tất nhiên, như viên tướng xác nhận, anh đã chiếm được một vị trí chiến đấu lợi hại, chỉ có trọng pháo mới đánh bật được anh ra khỏi đó, nhưng dù sao thì Nik Martini, cũng như biết bao người Albania khác, từng nhóm năm ba người một, hoặc đơn độc một mình, từ khắp nơi đổ đến bờ biển để cản đường quân xâm lược rồi hy sinh, không để lại dấu vết, trừ những bài hát của nhân dân sáng tác để ca ngợi và tưởng nhớ họ, - dù sao đi nữa, viên tướng cũng cảm thấy kinh ngạc, xấu hổ: Ních Martini, cũng như các chiến sĩ Albania khác, là những hình ảnh hoàn toàn khác hẳn binh sĩ nước hắn, khác hẳn tên đại tá Z. Một bên là những con người chân chính, biết mình chiến đấu cho cái gì và bất chấp những cuộc giao phong chênh lệch, đã dũng cảm lao vào quân thù, làm trọn nhiệm vụ con người của họ; một bên là sức mạnh mù quáng, ngu ngốc, hung ác và xét cho cùng, hèn nhát. Rút cuộc, chuyến đi hai năm trời của viên tướng là một nỗi ê chề, nhục nhã kéo dài, một cơn ác mộng, lắm lúc khiến hắn gần như sa vào tình trạng thác loạn tinh thần. Cuối cùng, đêm hôm trước ngày hắn lên đường trở về hước, hắn đã nghĩ đến cách đánh tráo hài cốt, lấy một bộ xương cũng cao một thước tám mươi hai để thế vào di hài viên đại tá Z mà, trong một lúc hoang mang thảng thốt, hắn đã hất xuống suối. Đang lúc say rượu, hắn loạng choạng đến cửa buồng ông linh mục đã khóa chặt, lom khom nói qua lỗ khóa để bày tỏ ý đồ gian lận của hắn. Bất đồ, hắn nhầm buồng, cửa buồng sịch mở, một bà to béo hiện ra, sỉ vả hắn tàn tệ đã nhòm vào buồng bà ta giữa lúc đêm hôm khuya khoắt. Cái cảnh vừa kệch cỡm, vừa thảm hại ấy, đánh dấu sự rã rời, suy sụp hoàn toàn trong con người hắn: còn đâu «con chim oai hùng, đơn độc bay lượn…», còn đâu sứ mệnh thiêng liêng, cao cả? Rõ ràng qua diễn biến tâm tư của viên tướng, có tính chất một biểu tượng, Ismail Kadare đã giễu cợt và lên án quân đội phát xít và nói chung, tất cả các đạo quân xâm lược. Nhưng vượt lên trên cả nhân vật trung tâm ấy, choán hết cả cuốn sách chính là hình ảnh đất nước và nhân dân Albania. Mặc dù câu chuyện được kể lại qua con mắt viên tướng nước ngoài, người ta vẫn thấy Ismail Kadare yêu tha thiết đất nước ông với những núi non hiểm trở, hùng vĩ, với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời, với những con người ngoan cường dũng cảm, từ bao đời nay vẫn trọng danh dự và nhân phẩm và hiện đang xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Ông ca ngợi cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân nước ông và nói chung, của tất cả các dân tộc đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự do của mình. Qua cái chết của bác thợ đấu già Gjoleka - bị nhiễm trùng vì chiếc khuy gỉ trên quân phục một tên lính phát xít chết đã 20 năm nay - ông còn ngụ ý rằng chiến tranh chưa thật sự kết thúc hay nói cho đúng hơn, hòa bình chưa phải đã vững chắc: như những con vi trùng, tuy bị vùi sâu dưới đất cùng với xác tên lính hàng mấy chục năm trời, khi gặp khí trời, ánh sáng, lại phục hồi tất cả cái tính độc hại ác liệt của nó, chiến tranh vẫn còn ngấm ngầm âm ỉ, chờ lúc chúng ta lơ là để nổ ra, tàn phá. Tất cả những ý đó, Ismail Kadare đã thể hiện với một nghệ thuật già dặn, vững vàng. Những hình ảnh tương phản, những so sánh về hai mẫu người, hai hệ tư tưởng, hai thế giới khác nhau, ông để người đọc tự rút ra, tự suy nghĩ lấy. Ông chỉ trình bày những sự việc rất thực và chọn lọc, theo lối nhìn và cảm nghĩ của viên tướng nước ngoài, và kể lại câu chuyện một cách rất tự nhiên, thoải mái, gọn gàng, giản dị, khiến người đọc có cảm giác như ông rất «khách quan», hầu như thản nhiên với nhân vật của ông, với những sự việc ông kể, và do đó, từ một đề tài rất bình thường, đơn giản, nếu không phải khô khan, ông đã viết nên một cuốn sách thật hấp dẫn, có sức mạnh thuyết phục và tác động sâu sắc, xứng đáng là một tác phẩm ưu tú của Albania, một tác phẩm chúng ta có thể học tập được nhiều chẳng những về nội dung mà cả về nghệ thuật thể hiện. NGUYỄN VĨNH Mời các bạn đón đọc Viên Tướng Của Đạo Quân Chết của tác giả Ismail Kadare.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu - Nhân Hải Trung
Nhân Hải Trung là một cây bút ngôn tình nổi bật. Văn của tác giả rất hay, thu phóng sảng khoái, lời lẽ có tâm, trách nhiệm cao với nhân vật và cốt truyện.Nhân Hải Trung cũng có một phong cách, đó sự lãng mạn giữa thực tế trơ trụi, là tình yêu cố vùng vẫy thoát khỏi bộ mặt gồ ghề của cuộc đời. Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu rốt cuộc là của ai? Là nhật ký của cô nàng Lăng Tiểu Manh hễ thấy yêu là trốn hay nhật ký của nam chính Cố Chính Vinh phải đuổi bắt, chờ đợi và dày vò bởi cô gái giỏi chạy này? Phía sau cô kiến trúc sư tài hoa Lăng Tiểu Manh là một Cố Chính Vinh đóng vai ông trùm giấu mặt. Anh nấp sau cánh gà, dàn dựng sân khấu lộng lẫy cho nàng công chúa. Rốt cuộc quan hệ giữa họ là gì? Sếp và nhân viên? Người bảo vệ và người được bảo vệ? Ân nhân và người chịu ơn? Hay người đàn ông giàu có và cô tình nhân bé nhỏ? Đàn ông giàu có nuôi tình nhân không hiếm nhưng cũng không mấy ai như Cố Chính Vinh. Anh cho nhiều và đòi hỏi ít. Anh đem những thứ xa vời lại gần tầm tay cô, yêu cầu cực đơn giản: “Ở lại bên tôi!”. Lăng Tiểu Manh là người phụ nữ lạc lối, mối tình đầu mộng mơ tan vỡ cùng sự phản bội phũ phàng của Đổng Diệc Lỗi khiến cô không dám tin vào tình yêu nữa. Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu cuối cùng cũng trốn không nổi. Một câu chuyện không mới nhưng đặc sắc, thích hợp cho một ngày mưa với tâm trạng đa sầu đa cảm. Một phiên bản Cinderalla nhẹ nhàng, đọc lướt sẽ rất nhanh nhưng đọc chậm thì rất “thấm”. *** Nhân Hải Trung là cô gái thành phố bình thường. Nguyện ý dùng cây bút trong tay để vẽ lên những con sóng nhỏ xô dạt trên sông lớn, biến thành những dòng văn thơ chia sẻ với mọi người. Thích nhất là những tiểu thuyết có thể khiến bản thân cảm động tới rơi nước mắt, tất cả thời gian nhàn rỗi đều dành để đọc sách. Lười biếng như chú mèo, ước mơ lớn nhất trong đời đó là có thể tìm được một nhân vật nam chính như ngòi bút của mình đã viết. Thế nhưng trong lòng hiểu rõ rằng đó chỉ là giấc mộng, vì thế dù có lười thế nào chăng nữa thì ngày ngày đều phải cố gắng không biết mệt mỏi. Các tác phẩm đã xuất bản của tác giả Nhân Hải Trung: - Không Thể Thiếu Em - Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu - Nhật Ký Lấy Chồng - Lưu Bạch, Anh Yêu Em - Bốn Tháng Yêu Chưa Đủ - Tôi và Bạn Trai Kinh Tế *** Cứ ngỡ rằng bản thân sẽ có rất nhiều, rất rất nhiều thời gian, con đường còn rất rất dài, nhưng sự thật thì chỉ cần một cái buông tay nhẹ nhàng, thế là mãi mãi sai lầm, trên những con đường khau gặp được những con người khác nhau, sau cùng chỉ còn lại những ký ức mơ hồ cùng năm tháng. ... Vừa bước ra khỏi khách sạn Lăng Tiểu Manh thấy mình thật mất mặt, muốn rời xa người đàn ông này, nhưng đến một cái liếc mắt của anh ta cũng chịu không được. Nhưng đó là Cố Chính Vinh, người đàn ông mà hai năm nay cô răm rắp vâng lời, chưa từng bất phục. Vừa cất bước vừa nhìn lên bầu trời, Lăng Tiểu Manh thở dài, tay nắm chặt lại mà lẩm bẩm, “Vô dụng, thật vô dụng”. Bên ngoài khách sạn là con phố lớn sầm uất xa hoa, bộ lễ phục với chiếc váy dài ngang gối cô đang mặc khiến cô nổi bật trong đám đông, vô tình hay hữu ý, những người đi ngang qua đều nhìn cô với ánh mắt tò mò dò xét. Lúc đầu tim gan cô rối bời nên không mấy chú ý, nhưng năm phút sau giật mình tỉnh lại, đột nhiên dừng bước ngay giữa phố, chân tay lúng túng, chẳng biết nên quay lại hay tiếp tục chạy về phía trước. Trời bắt đầu lất phất mưa, hai ba giọt chớp mắt đã biến thành màn mưa dày đặc phủ khắp không gian, có chạy cũng chằng biết đi đâu. ... Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu của tác giả Nhân Hải Trung.
Lưu Bạch, Anh Yêu Em - Nhân Hải Trung
Lưu Bạch, một người phụ nữ 28 tuổi đã ly hôn mang theo cô con gái ba tuổi, dung mạo xinh đẹp, dáng người mảnh mai yếu đuối, kì thực tinh thần lại kiên cường giống như dây thép vậy. Một lần, Lưu Bạch tình cờ gặp Sở Thừa, con nhà thế gia, hai người nhanh chóng yêu nhau. Nhưng tình yêu của họ lại không phù hợp với tư tưởng thủ cựu và những lợi ích của gia tộc, vì vậy tình yêu của họ bị Sở gia hết sức phản đối và ngăn cản. Đồng thời, để chia rẽ tình cảm của hai người Sở gia còn liên hệ dắt mối Lưu Bạch cho đại công tử Tiêu của một gia đình quyền thế khác. Tiêu cũng bị Lưu Bạch hớp hồn và anh rất yêu cô. Một người là con cháu dòng dõi thế gia, yêu đến mức cuồng nhiệt; một người tài giỏi trong thương trường và coi đó là sự nghiệp của cuộc đời, cho rằng để nhận được tình yêu, phải tự mình giăng lưới đánh bắt. Khi gia tộc, họ hàng, thương trường hỗn tạp, tình yêu tỏ rõ sự yếu đuối bất lực, số phận, tình yêu của họ kết cục sẽ như thế nào? Lưu Bạch phải đối mặt với những mưu mô tính toán trong tình yêu, cô phải lựa chọn như thế nào? Tình yêu ngọt ngào và sự mối lái của gia tộc cái nào sẽ đạt được kết quả? *** Nhân Hải Trung là cô gái thành phố bình thường. Nguyện ý dùng cây bút trong tay để vẽ lên những con sóng nhỏ xô dạt trên sông lớn, biến thành những dòng văn thơ chia sẻ với mọi người. Thích nhất là những tiểu thuyết có thể khiến bản thân cảm động tới rơi nước mắt, tất cả thời gian nhàn rỗi đều dành để đọc sách. Lười biếng như chú mèo, ước mơ lớn nhất trong đời đó là có thể tìm được một nhân vật nam chính như ngòi bút của mình đã viết. Thế nhưng trong lòng hiểu rõ rằng đó chỉ là giấc mộng, vì thế dù có lười thế nào chăng nữa thì ngày ngày đều phải cố gắng không biết mệt mỏi. Các tác phẩm đã xuất bản của tác giả Nhân Hải Trung: - Không Thể Thiếu Em - Nhật Ký Chạy Trốn Tình Yêu - Nhật Ký Lấy Chồng - Lưu Bạch, Anh Yêu Em - Bốn Tháng Yêu Chưa Đủ - Tôi và Bạn Trai Kinh Tế *** Mọi chuyện là như vậy,tại trăng đến Rằm rồi.Trăng sẽ tròn hay tại cuối cùng tôi đã đầu hàng? Những ngày sau đó, Cho điềm nhiên bước vào cuộc sống của tôi. Sức khỏe của bố tôi đã hồi phục nhưng Cho vẫn ở lại Trung Quốc.Chỉ cần có thời gian lại đưa tôi và Mạt Lợi đi chơi khắp nơi. Đôi khi nhìn thấy cảnh anh và Mạt Lợi chơi đùa với nhau, lòng tôi cũng thấy vui vui.Vì tôi mà người đàn ông này đã hi sinh rất nhiều. Nếu sự hi sinh này dồn vào sự nghiệp, không biết Cho sẽ thu mua được bao nhiêu công ty. Nếu nói không hề cảm động thì tôi cũng quá sắt đá. Thu qua xuân tới, mọi người xung quanh tôi cũng bắt đầu chấp nhận sự tồn tại của anh, ngay cả bản thân tôi cũng bắt đầu mặc nhận điền này. Dần dần,Cho hỏi tôi có thể sống cùng anh hay không? Có lúc anh đem Mạt Lợi tỏ vẻ ấm ức:“Lưu Bạch, em không thấy để Mạt Lợi chơi một mình, không có em sẽ rất buồn sao?”hoặc:”Baby,em định để phí tuổi xuân của anh đến bao giờ nữa? Mặc dù tuổi xuân của anh không ngắn ngủi nhưng cũng không thể chịu cảnh giày vò mãi thế này được.” Anh nói nửa đùa nửa thật khiến lần nào tôi cũng phải dở khóc dở cười. Nhưng vết thương chôn chặt trong lòng tôi vẫn thỉnh thoảng nhói lên đau đớn. Nhiều lần tôi phải lựa lời nói khéoho nhưng dần dần, vẻ thất vọng khó giấu của anh đã trở thành gánh nặng nhất đối của tôi. Mùa hè đã đến ,Cho đã ở Trung Quốc gần một năm,. Hôm nay, chúng tôi đi chơi công viên Thế Kỷ, Cho còn chuẩn bị một chiếc diều để chơi đùa với Mạt Lợi. Tôi ngồi trên bãi cỏ, nheo mắt nhìn theo họ. Ánh nắng rực rỡ, bóng Cho và Mạt Lợi khiến tôi tưởng chừng như cách rất xa nhưng đồng thời lại có cảm giác chỉ cần với tay là tới. Anh quay đầu nhìn tôi, đột nhiên đưa dây cho Mạt Lợi, rồi bước về chỗ tôi. “Lưu Bạch, em có thấy vui không?” “vui.”Tôi gật đầu rồi chỉ vào làn đựng thức ăn: “Anh có uống nước không?”. Cho mỉm cười, lắc đầu, ánh mắt sâu lắng, dịu dàng : “Bọn mình cứ như thế này đến hết cuộc đời, em thấy thế nào?”. ... Mời các bạn đón đọc Lưu Bạch, Anh Yêu Em của tác giả Nhân Hải Trung.
Phố - Chu Lai
Phố là một tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai nói về cuộc sống của những người Hà Nội giai đoạn đầu Đổi mới (đầu những năm 1990). Tác giả đã dựa trên truyện ngắn Phố nhà binh viết năm 1991 để viết tiểu thuyết Phố một năm sau đó. Phố được coi là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Chu Lai viết về cuộc sống của những người bộ đội thời hậu chiến. Bối cảnh của Phố là cuộc sống của những người lính hoặc cựu chiến binh sống trên phố Lý Nam Đế, con phố tập trung các cơ quan và khu tập thể của quân đội ở Hà Nội, giai đoạn đầu những năm Đổi mới. Đó là giai đoạn mà hoàn cảnh kinh tế khó khăn buộc những người bộ đội mới bước ra khỏi cuộc chiến hoặc chỉ làm việc và sống trong môi trường quân ngũ phải làm quen với việc kiếm tiền để đảm bảo cuộc sống. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. *** “…Tất nhiên căn phố dài chừng một ngàn hai trăm thước này có tên gọi đàng hoàng nhưng lâu nay thiên hạ chỉ quen gọi là phố nhà binh để khỏi lẫn với… có một thời dường như tất cả những căn hộ đều bảo nhau khinh khỉnh xây lưng ra mặt đường khiến cho dãy phố tối tăm lại càng hun hút nỗi đe dọa dập dờn… Thế rồi hôm nay, bỗng lại như tuân theo nhất loạt một khẩu lệnh của đấng toàn năng, các căn hộ quay mặt lại với cuộc đời… sự phá hoại kiến trúc của một dãy phố hôm nay là phản ảnh cái trở dạ đau đớn của lề thói suy nghĩ cũ, đồng thời sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định trong từng gia đình, từng số phận, có thể tốt lên nhưng cũng có thể sẽ xấu đi… Nhưng không thể không phá vỡ… Sau gần một năm đi xa, tối nay, vào một tối lập đông se lạnh, người đạo diễn điện ảnh với chiếc ba lô bạc màu trên vai, vừa bước đi chầm chậm trên hè phố vừa tủm tỉm cười, có lúc cái môi dưới lại nhệch ra như sắp mếu và trong đầu cứ rộn lên cái mạch chuyện của bộ phim mà kỳ này trở về, anh nhất quyết sẽ thực hiện nốt những gì còn dang dở. Ánh sáng chan hòa và những âm thanh rộn ràng nuốt chửng lấy cái thân xác gầy guộc của anh, đảo bước chân anh theo cái nhịp của một người đang vào cơn say nhẹ. Hai ngọn đèn pha cực mạnh bật sáng chói chang nơi giữa phố, đưa cả con đường vào một đêm hội hoa đăng của công cuộc trải nhựa lại mặt bằng. Mùi hắc ín, tiếng máy nổ, dáng dấp những người công nhân lục lộ khẩn trương đan qua đan lại kia đã báo hiệu rằng, chỉ sớm mai thôi, khi căn phố tỉnh dậy, sẽ có một dải lụa màu đen mát mịn chạy giữa những ngôi nhà. Anh chợt thấy sống mũi mình cay xè. Chao ôi, Hà Nội… Hà Nội của tôi… Hà Nội khổ đau và lam lũ… Hà Nội kiên trung và nồng nàn… Hà Nội… Thế là ra ngươi cũng đang biết tự đập vỡ mình để trở nên dáng nét của một thủ đô theo đúng nghĩa đấy ư. Cám ơn… xin cám ơn. ... Mời các bạn đón đọc Phố của tác giả Chu Lai.
Những Thành Phố Giấy - John Green
Quentin Jacobsen thầm phải lòng cô bạn Margo Roth Spiegelman xinh đẹp thích phiêu lưu. Thế nên khi Margo cậy cửa sổ lách vào đời cậu – ăn vận như ninja và triệu tập cậu vào một chiến dịch trả thù đầy táo bạo – cậu lập tức đi theo. Qua một đêm rong ruổi, ngày mới đến, Q tới trường và phát hiện ra rằng Margo, vốn luôn là một ẩn số quyến rũ, đã thực sự biến mất đầy bí ẩn. Nhưng Q cũng sớm biết được rằng có những manh mối – và những manh mối ấy được để lại cho cậu. Gấp gáp lần theo cung đường đứt khúc, càng đến gần, Q càng khó nhận ra được cô gái mà cậu tưởng chừng đã quá quen thuộc… *** Nếu như từng thưởng thức bộ phim chuyển thể của đạo diễn Jake Schreier thì bạn cũng đừng bỏ qua cuốn sách best-seller này của tác giả Johh Green. Paper Towns (Những thành phố giấy) là cuốn sách vô cùng thú vị, nếu không nói là độc đáo, một tác phẩm khác của John Green vốn nổi tiếng với The Fault in Our Stars (Khi lỗi thuộc về những vì sao) hay An Abundance of Katherines. Sách đã được chuyển thể thành phim cùng tên, vai chính đảm nhiệm bởi hai diễn viên trẻ Cara Delevingne và Nat Wolff. Quentin và Margo đều là những cô bé, cậu bé tuổi teen, hai hình mẫu nhân vật gần gũi với độc giả. Họ đang trong quá trình trưởng thành, không biết đích đến cuối cùng của cuộc đời nhưng vẫn tràn đầy năng lượng và ham muốn khám phá. Hai nhân vật được John khắc họa khá chi tiết, là nam châm gắn người đọc với tác phẩm bởi những tiếng cười họ đem đến qua những đoạn hội thoại hài hước và tinh nghịch. *** John Green là tác giả của sách bán chạy nhất theo nhận định của New York Times, từng đoạt nhiều giải thưởng, bao gồm huy chương Printz Medal, giải thưởng Printz Honor và giải Edgar Award. Anh đã hai lần lọt vào chung kết giải thưởng sách của LA Times. Cùng với em trai mình - Hank - John là đồng tác giả của trang nhật ký điện tử Vlogbrothers (youtube.com/vlogbrothers), một trong những trang video trực tuyến phổ biến nhất thế giới. Bạn có thể tham gia vào hàng ngũ 1,1 triệu người đang theo dõi John trên Twitter (@realjohngreen), hoặc ghé thăm trang web của anh tại johngreenbooks.com. Hiện John sống với vợ và con trai tại Indianapolis, bang Indiana. *** Tôi biết về những thành phố giấy vì đã đi qua một nơi như vậy trên một hành trình bám đường bộ hồi là sinh viên đại học. Bạn đồng hành và tôi cứ lái xe qua lại một khoảng trống trên đường cao tốc ở Nam Dakota, tìm một thành phố mà bản đồ xác nhận là có tồn tại–theo như tôi nhớ, thành phố ấy là Holen. Cuối cùng, chúng tôi dừng xe trước một nhà dân, gõ cửa hỏi thăm. Người phụ nữ dễ mến trong nhà cho hay đã từng trả lời câu hỏi này nhiều rồi. Cô ấy giải thích rằng thành phố chúng tôi đang tìm chỉ có trên bản đồ mà thôi. Câu chuyện về Agloe, New York–như được phác lên trong cuốn sách này–gần như là thật. Ban đầu Agloe là một thành phố giấy, được chế ra để bảo vệ nhà làm bản đồ khỏi bị vi phạm bản quyền. Nhưng rồi những người dùng các bản đồ cũ của công ti Esso vẫn tiếp tục đi tìm thành phố ấy, và ai đó đã dựng một cửa hàng, khiến Agloe trở thành có thật. Công tác làm bản đồ đã thay đổi nhiều từ khi Otto G. Lindberg và Ernest Alpers phát minh ra Agloe. Nhưng nhiều nhà làm bản đồ vẫn thêm các thành phố giấy vào bản đồ của mình, tạo ra những cái bẫy bản quyền, như trải nghiệm rối ren của tôi ở Nam Dakota đã kiểm chứng. Cửa hàng từng là Agloe giờ không còn nữa. Nhưng tôi tin rằng nếu chúng ta đưa nó trở lại bản đồ, cuối cùng cũng sẽ có người xây dựng lại thôi. Mời các bạn đón đọc Những Thành Phố Giấy - John Green.